Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ HÌNH THÁI KINH TẾXÃ HỘI, SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG XÁC ĐỊNH NHIỆM VỤ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.42 KB, 11 trang )

1

MỞ ĐẦU
Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế của nước ta gặp phải tình trạng trì
trệ và tăng trưởng rất chậm, sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng. Để
tích luỹ nguồn lực, chúng ta phụ thuộc chủ yếu vào vay mượn từ bên ngoài.
Hơn nữa, thị trường hàng hoá đã trở nên thiếu thốn nghiêm trọng, đặc biệt là
trong lĩnh vực lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu. Cơ sở vật
chất của chúng ta đã trở nên thực sự kém cỏi, trong khi hầu hết các ngành
kinh tế - xã hội đều trải qua q trình suy thối nghiêm trọng, gây ra đời sống
gian khổ cho nhân dân. Trong hồn cảnh đó, Đảng ta đã có quan điểm nhận
thức đúng đắn về hình thái kinh tế - xã hội dựa trên hệ thống triết học Mác Lê nin, một quan điểm to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Đồng thời, Đảng ta đã
chỉ ra và lãnh đạo thực hiện quá trình đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước.
Bước ngoặt lịch sử đã được thực hiện tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng (tháng 12 – 1986), khi chúng ta đã có một sự thay đổi đáng
kể về quan niệm về lộ trình phát triển đất nước trong thời kỳ mới, với hướng
phát triển kinh tế đa dạng hóa và cần xố bỏ cơ chế kinh tế tập trung và quản
lý tập trung. Dù đã đạt được những thành tựu quan trọng trong suốt hơn 30
năm đổi mới, chúng ta vẫn còn nhiều hạn chế phải đối mặt. Chúng ta đang đặt
ra rất nhiều vấn đề cấp bách không chỉ về mặt lý thuyết mà còn phải xem xét
trên thực tế, để đáp ứng được các yêu cầu phát triển bước đầu của đất nước.


2

NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ HÌNH THÁI KINH TẾXÃ HỘI
Hình thái kinh tế-xã hội là khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, mô tả mỗi xã hội trong từng thời kỳ lịch sử với một mơ hình quan hệ sản
xuất đặc trưng, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế chủ yếu và cơ cấu
thượng tầng tương ứng, dựa trên các quan hệ xã hội trong đó. Khái niệm này


cho thấy vai trò của các yếu tố cơ bản và mối quan hệ giữa chúng trong một
cấu trúc kinh tế-xã hội. Các yếu tố cơ bản được Karl Marx chỉ ra là Lực lượng
sản xuất, Quan hệ sản xuất và Kết cấu thượng tầng.
Đối với Lực lượng sản xuất, Marx cho rằng trong q trình sản xuất vật
chất, có một mối quan hệ "song trùng" giữa con người và tự nhiên, đó chính
là Lực lượng sản xuất, trong khi Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con
người và con người. Lực lượng sản xuất đóng vai trị quyết định đối với các
yếu tố khác, đó là Quan hệ sản xuất và Kết cấu thượng tầng. Lực lượng sản
xuất cũng là yếu tố quyết định sự biến đổi của các hình thái kinh tế-xã hội và
thể hiện trình độ kỹ thuật của một hình thái kinh tế-xã hội, đồng thời đưa ra
tiêu chuẩn khách quan để phân biệt sự khác nhau của các giai đoạn kinh tế- kỹ
thuật trong lịch sử.
Cịn với Quan hệ sản xuất, đó là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các
hình thái kinh tế-xã hội trong lịch sử và phân biệt bản chất của các chế độ
khác nhau trong lịch sử. Marx chỉ ra rằng Quan hệ sản xuất, phù hợp với sự
phát triển nhất định của Lực lượng sản xuất, là tiêu chuẩn quan trọng nhất để
xác định tính chất của các loại xã hội khác nhau. Quan hệ sản xuất cũng là
yếu tố cơ bản quyết định tất cả các mối quan hệ khác trong xã hội, đặc biệt là
trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống xã hội, nổi bật nhất trong lĩnh vực


3

kinh tế, vì trong tất cả các mối quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất đóng vai trị
quan trọng, là yếu tố cơ bản, ảnh hưởng đến tất cả các mối quan hệ khác.
Trong quá trình tiếp thu tư tưởng của C Mác, Lê nin đã nhấn mạnh tính
duy vật của nhận thức nhân hòa, đặc biệt là việc phải liên kết toàn bộ sự
phong phú của các quan hệ xã hội với quan hệ sản xuất, cùng với việc phân
tích các quan hệ sản xuất dựa trên sự tương ứng của chúng với sự phát triển
của lực lượng sản xuất để giải thích sự diển biến của các hình thái xã hội. Hai

mặt này tạo thành một phương thức sản xuất đồng nhất, là nền tảng vật chất
của mọi hình thái kinh tế-xã hội. Lê nin đã đánh giá cao việc Mác không chỉ
tập trung vào lý luận trừu tượng về xã hội và quan hệ sản xuất nói chung, mà
cịn nghiên cứu sâu hơn về một hình thái kinh tế xã hội cụ thể như xã hội thực
dân với những quan hệ sản xuất, cơng nghiệp hóa phức tạp. Mác xem quan hệ
sản xuất chính là cốt lõi của mỗi hình thái kinh tế-xã hội trong lịch sử và sử
dụng phân tích để nghiên cứu một hình thái kinh tế-xã hội cụ thể. Mác không
chỉ dừng lại ở đó, mà cịn nhìn vào tương ứng của quan hệ sản xuất với sự
phát triển của lực lượng sản xuất và cơ cấu thượng tầng. Lê nin khẳng định
rằng, với sự ra đời của bộ tư bản, Mác đã thực hiện một mơ hình phân tích
khoa học theo phương pháp duy vật, một hình thái xã hội phức tạp nhất, được
công nhận và không ai vượt qua được. Trong lý luận về hình thái kinh tế-xã
hội, Mác coi quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các hình
thái kinh tế-xã hội khác nhau. Mác cũng chỉ ra mối quan hệ biện chứng cơ
bản để xác định bản chất của một hình thái kinh tế-xã hội, đó là quan hệ giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Về mặt Kiến trúc thượng tầng, nó thể hiện tinh thần của đời sống xã hội
và có ảnh hưởng đáng kể đến cả hai yếu tố trên. Karl Marx và Friedrich
Engels lúc nào cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của kiến trúc thượng tầng


4

chính trị và pháp lý, xem chúng như hai thành phần quan trọng nhất của kiến
trúc thượng tầng, và thực chất cũng là công cụ của nhà nước.
Năm 1859, Marx đã trình bày một cách rõ ràng về cấu trúc của hình
thái kinh tế-xã hội và nguyên tắc vận động của nó trong tác phẩm “Góp phần
phê phán khoa kinh tế chính trị”. Sau đó, vào năm 1888, Engels đã tóm tắt và
nhắc lại quan niệm về hình thái kinh tế-xã hội của Marx và đồng thời nhấn
mạnh rằng để hiểu được lịch sử, chúng ta phải xem xét cả phương thức sản

xuất lẫn cơ cấu xã hội. Engels viết: “Trong sự phát triển quan trọng của lịch
sử, phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã
hội do phương thức đó quy định, hình thành cơ sở cho lịch sử chính trị và lịch
sử tư duy của một thời đại, là điều quan trọng nhất để hiểu lịch sử đó”.
Các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế-xã hội có mối quan hệ tương đối
triệt để và tạo thành hai quy luật cơ bản trong tất cả các hình thái kinh tế-xã
hội. Đó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng phụ thuộc vào quan hệ
tương đối giữa kiến trúc thượng tầng. Đây là hai quy luật chung tạo động lực
bên trong thúc đẩy quá trình phát triển sản xuất. Sự phát triển của lực lượng
sản xuất đóng vai trị chủ động trong việc thay thế các hình thái kinh tế-xã hội
trong lịch sử.
Dựa trên các tư tưởng của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-lê nin và
thực tiễn lịch sử của lồi người, chúng ta có thể xác định khái niệm "hình thái
kinh tế-xã hội" là một khái niệm trong lý thuyết chủ nghĩa duy vật lịch sử,
được sử dụng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể, với một mơ hình
kinh tế-xã hội đặc trưng tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và với một cơ chế tổ chức xã hội tương ứng được xây dựng dựa trên mơ
hình đó. Sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử-


5

tự nhiên. Tuy nhiên, một số quan điểm khác, như quan điểm chủ nghĩa duy
tâm tôn giáo, cho rằng sự biến đổi trong lịch sử xã hội là do sự chi phối của
các lực lượng siêu nhiên. Trái lại, quan điểm tư sản cho rằng sự phát triển lịch
sử của xã hội được quyết định bởi ý chí của các cá nhân vĩ nhân và thiên tài.
Hiện nay, các học giả tư sản đã đưa ra nhiều lý thuyết khác nhau xoay quanh
vấn đề này, trong đó một trong các mục tiêu được đề ra là phủ nhận khái niệm
"hình thái kinh tế-xã hội" để bảo vệ sự tồn tại của hình thái kinh tế-xã hội

trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản.
Dựa trên các quan điểm trên, các nhà kinh điển duy vật đã đưa ra quan
điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Theo quan điểm này, xã hội là một quá
trình phát triển tự nhiên, tuân theo quy luật khách quan và không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của con người. Quá trình phát triển này dựa trên cơ sở
lý luận và thực tiễn, trong đó xã hội được coi là một phần của tự nhiên và vận
động theo qui luật khách quan của nó. Xã hội bị chi phối bởi các hệ thống qui
luật, bao gồm qui luật tự nhiên và qui luật xã hội.
Tuy nhiên, con người có khả năng sáng tạo lịch sử của riêng mình,
nhưng quá trình sáng tạo này phải dựa trên tiền đề khách quan nhất định.
Theo Engels, tiền đề và điều kiện kinh tế là yếu tố quyết định cuối cùng đối
với sự phát triển của lịch sử xã hội, nhưng khơng phải là duy nhất. Ngồi ra,
mỗi hình thức kinh tế-xã hội phải tuân theo qui luật khách quan của nó, trong
đó nó phụ thuộc vào sự phù hợp giữa qui luật phát triển của hình thái kinh tếxã hội và qui luật biện chứng của chủ nghĩa xã hội. Thực tế lịch sử đã chứng
minh rằng sự phát triển của lịch sử xã hội diễn ra tuần tự qua các hình thái
kinh tế-xã hội khác nhau, từ cộng sản nguyên thủy, chế độ hàng nô, chủ nghĩa
phong kiến, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa. Theo Marx, đây
là lơgíc chung, lơgíc tất yếu của q trình phát triển lịch sử xã hội. Ngồi


6

dịng chính, cũng có thể có những dân tộc có thể bỏ qua các giai đoạn phát
triển nhất định để tiến lên một hình thái kinh tế-xã hội cao hơn và tiến bộ hơn.
Marx gọi đây là con đường phát triển rút ngắn trong quá trình phát triển của
một hình thái kinh tế-xã hội. Cả sự phát triển tuần tự và rút ngắn của các hình
thái kinh tế-xã hội đều nằm trong quá trình lịch sử tự nhiên.
II. VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG XÁC ĐỊNH NHIỆM VỤ
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
Trong việc xác định nhiệm vụ và con đường của việc đi lên chủ nghĩa

xã hội ở Việt Nam, Đảng ta đã sử dụng phương pháp phân tích trong lý thuyết
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đó là phân tích cơ bản về tình hình và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, cũng như về mơ hình kinh tế-xã hội hiện tại của
đất nước. Dựa trên phân tích này, Đảng đã xác định được các bước tiến cần
thực hiện để đạt được mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đề ra
nhiệm vụ cụ thể cho từng giai đoạn của quá trình này.
Qua việc áp dụng lý thuyết chủ nghĩa duy vật lịch sử và phân tích thực
tế cụ thể, Đảng đã xác định con đường phát triển xã hội ở Việt Nam là con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa xã hội có tính chất và
đặc điểm địa phương. Đây là con đường khai phá ưu thế của đất nước, khai
thác một số yếu tố sẵn có ưu thế và sử dụng các biện pháp phù hợp để đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa nền kinh tế và cải thiện cuộc sống của
nhân dân.
Ngồi ra, thơng qua việc áp dụng lý thuyết chủ nghĩa duy vật lịch sử,
Đảng đã hiểu rằng sự phát triển của xã hội không thể chỉ dựa vào ý muốn chủ
quan của con người, mà cần phải tuân thủ các quy luật khách quan của lịch
sử. Điều này địi hỏi cơng cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa phải dựa trên cơ sở
lý luận, trí tuệ của con người và phù hợp với điều kiện kinh tế, tính chất và


7

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất cũng như qui luật biện chứng của
chủ nghĩa xã hội.
Từ đó, Đảng đã xác định các nhiệm vụ và chính sách phát triển kinh tế
xã hội, nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng hạ
tầng, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ mơi
trường. Từ đó, Đảng đã đề ra các phương pháp và biện pháp phù hợp để thực
hiện nhiệm vụ đó, từ đó đưa đất nước ta đi trên con đường phát triển đúng
hướng, ngày càng gắn kết và phát triển bền vững.

Trải qua 35 năm công cuộc đổi mới, chúng ta đã chứng kiến sự thay đổi
cách mạng trong tư duy của Đảng, nhà nước và nhân dân về nhiều vấn đề to
lớn và quan trọng như con đường phát triển đến chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đã có những cải cách quan trọng trong tư duy lý luận và thực tiễn, đặc biệt là
về nền kinh tế của đất nước, như dân chủ hóa nền kinh tế, cải cách chế độ
phân phối và nhận thức rõ hơn về thị trường kinh tế trong giai đoạn chuyển
đổi đến chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, thực tế cũng đòi hỏi
chúng ta phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa để giải phóng và phát huy tối
đa tiềm năng sản xuất của đất nước, tạo điều kiện thực hiện chủ nghĩa hợp tác
và hội nhập quốc tế. Chúng ta cần không ngừng hồn thiện và cải tiến cơ chế,
chính sách kinh tế-xã hội phù hợp với tình hình và trình độ phát triển của nền
kinh tế, nhằm giải phóng tồn diện tiềm năng sản xuất và thúc đẩy sự phát
triển kinh tế-xã hội để cải thiện chất lượng sống của nhân dân. Từ đó, chúng
ta sẽ tạo ra sự đồng thuận ngày càng cao trong xã hội, tạo động lực hấp dẫn
mọi nguồn lực trong xã hội để đầu tư vào sự phát triển và duy trì sự ổn định
của hệ thống chính trị xã hội. Quan trọng nhất, chúng ta đã xác định phát triển
kinh tế-xã hội là động lực để hồn thiện và cải tiến cơ chế, chính sách kinh tếxã hội.


8

Trước khi đổi mới, quan niệm và hành động chủ yếu tập trung vào phát
triển kinh tế công hữu và không thừa nhận sự đa dạng của nền kinh tế. Tuy
nhiên, sau đó, chúng ta đã quyết tâm xây dựng một nền kinh tế đa sở hữu, đi
đôi với việc thúc đẩy q trình dân chủ hố trong các hình thức sở hữu như sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Điều này đã tạo ra một hệ
thống kinh tế đa dạng, trong đó các hình thức sở hữu khơng tồn tại độc lập mà
thường xuyên tương tác và hỗn hợp trong các tổ chức kinh doanh, đặc biệt là
sở hữu cổ phần đã được chính thức xác định pháp lý để biết rõ chủ sở hữu cụ
thể. Mục tiêu là khắc phục tình trạng sở hữu khơng rõ ràng, từ đó tận dụng tối

đa các nguồn lực cho phát triển, không chỉ dựa vào sở hữu vật chất mà còn
chuyển sang sở hữu giá trị tài sản trí tuệ. Đồng thời, quyền sở hữu và quyền
quản lý sử dụng cũng được tách rời, khuyến khích tích luỹ và phát triển cho
mọi hình thức sở hữu.
Trước đây, xí nghiệp quốc doanh được coi là hình thức cao nhất, độc
quyền và chiếm tỷ trọng lớn trong nhiều ngành, lĩnh vực, làm hạn chế sự phát
triển của kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đã thừa nhận rằng mọi
thành phần kinh tế đều là một phần quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu là loại bỏ mọi phân biệt đối xử và đảm bảo
sự cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đồng thời
đảm bảo phát triển bền vững lâu dài.
Chúng ta đã di chuyển từ việc coi xí nghiệp quốc doanh là hình thức
hàng đầu và độc quyền, đến việc xem kinh tế nhà nước theo nghĩa rộng, bao
gồm nhiều nguồn lực giữ vai trị chủ đạo. Trong đó, doanh nghiệp nhà nước
được xem là lực lượng nịng cốt, đóng vai trò dẫn dắt và hỗ trợ các thành phần
kinh tế khác phát triển. Chúng ta đã cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập
trung vào một số ngành, lĩnh vực chủ yếu, phù hợp với nền kinh tế thị trường,


9

cạnh tranh và hội nhập. Đồng thời, doanh nghiệp nhà nước cũng thực hiện
quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, chuyển từ
dạng công ty nhà nước sang công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên do nhà nước sở hữu. Chúng ta cũng đã loại bỏ độc quyền
kinh doanh và mọi hình thức bảo hộ đối với doanh nghiệp nhà nước.
Các tổng công ty lớn hiện nay hoạt động theo mơ hình "cơng ty mẹ,
cơng ty con", tạo ra một số tập đoàn kinh tế mạnh được xây dựng dựa trên sự
tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
Trong kinh tế tập thể, chúng ta đã từ bước ban đầu xác định mô hình

HTX tập trung cao độ về TLSX và quản lý như xí nghiệp quốc doanh, phân
phối theo cơng điểm. Tuy nhiên, chúng ta đã điều chỉnh và đổi mới để đảm
bảo phù hợp với nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và lợi ích chung. Chúng ta
đã khuyến khích sự hợp tác đa dạng, phù hợp với trình độ phát triển của
từng ngành, khu vực và trình độ khác nhau. Các hợp tác xã đã chuyển đổi và
hoạt động như các doanh nghiệp, với sự đặc biệt là cao cấp hơn tính tự chủ
và tự chịu trách nhiệm, khơng cịn áp dụng tư tưởng bao cấp và trông chờ
vào nhà nước.
Một thay đổi cơ bản đã xảy ra trong kinh tế tư nhân, từ khi bị hạn chế
và bị kì thị đến nay đã trải qua sự đổi mới. Đã xác định rõ ràng rằng quyền tự
do kinh doanh phải được bảo đảm theo luật pháp đối với tất cả công dân. Phát
triển kinh tế tư nhân là rất quan trọng và có ý nghĩa chiến lược, khẳng định
chủ trương phát triển mạnh mẽ mà không giới hạn ngành nghề và lĩnh vực
ngoại trừ những hạn chế của pháp luật. Chúng ta đã tạo ra một môi trường
kinh doanh thuận lợi về chính sách và pháp lý để khuyến khích phát triển kinh
tế tư nhân, kể cả trong các ưu tiên được định hướng bởi nhà nước và bao gồm
cả đầu tư ra nước ngồi. Chúng ta đặc biệt khuyến khích chuyển đổi thành các


10

doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh và liên kết
với nhau, cũng như với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước.


11

KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu về hình thái kinh tế xã hội theo lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin, chúng ta nhận thấy sự quan trọng và ý nghĩa to lớn trong tình

hình hiện nay. Đây là một lý thuyết nền tảng của triết học Mác và vẫn tồn tại
giá trị cách mạng và khoa học trong bối cảnh hiện tại.



×