Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

một số vấn đề khái quát về toàn cầu hoá và quốc tế hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 22 trang )

Mở đầu
Thập kỷ cuối của thế kỷ XX đã chứng kiến nhiều thay đổi lớn về mọi mặt
trong đời sống chính trị và kinh tế, đặc biệt là những thành tựu khoa học, công
nghệ. Hoà bình hợp tác vì sự phát triển ngày càng trở thành một đòi hỏi bức xúc
của nhiều quốc gia và các dân tộc trên thế giới nhằm tập trung mọi nỗ lực và u tiên
cho phát triển kinh tế. Những tiến bộ trên lĩnh vực khoa học công nghệ nhất là công
nghệ truyền thông và tin học, càng làm tăng thêm sự gắn kết giữa các quốc gia và
giữa các nền kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quố tế đã và
đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với mỗi quốc gia. Xu hớng này đã thể hiện rõ
qua sự gia tăng đáng kể trong những năm gần đay sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ,
vốn và công nghệgiữa các nớc trên thế giới.
Là một trong những nớc nghèo trên thế giới, sau mấy chục năm liên tiếp bị
chiến tranh tàn phá, Việt Nam bắt đầu bớc vào thời kỳ thực hiện chuyển đổi nền
kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trờng, do đó nền
kinh tế của chúng ta còn kém phát triển và lạc hậu so với thế giới. Con đờng để
Việt Nam thoát khỏi nghèo nàn đó là công nghiệp hóa theo mô hình phát triển rút
ngắn. Mà để làm đợc nh vậy thì chúng ta phải ứng dụng những thành tựu khoa học-
công nghệ của thế giới bằng cách tham gia vào quá trình toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập giúp cho các nớc có thể tiếp
cận đợc nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài, tiếp cận với
thị trờng thế giới, tham gia vào phân công và hợp tác quốc tế. Vì vậy nếu có đờng
lối đúng đắn, tranh thủ đợc nguồn lực bên ngoài và hội nhập quốc tế thì các nớc
kém phát triển có thể tạo bớc phát triển nhảy vọt, có thể rút ngắn khoảng cách, đuổi
kịp các nớc có nền kinh tế phát triển.
Toàn cầu hoá góp phần đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế, tạo dựng môi
trờng thuận lợi để phát triển, đạt đợc sự ổn định và phát triển khá cao. Bên cạnh đó
toàn câù hoá và hội nhập kinh tế quốc tế cũng gây ra không ít khó khăn và thách
thức. Đó là khoảng cách giầu nghèo ngày càng lớn, phải đơng đầu với những đối
thủ cạnh tranh rất mạnh trên thị trờng thế giớiVì vậy cần phải có những giải pháp
thích hợp để có thể giải quyết những khó khăn đó và phát triển kinh tế có hiệu quả
nhất.


Lời cảm ơn:
Em xin chân trọng cảm ơn thầy Phạm Thành. Ngời đã đã tận tình hớng dẫn em
trong quá trình làm đề án này.
1
NộI DUNG
I-Một số vấn đề khái quát về toàn cầu hoá và quốc tế hoá:
1- Khái niệm toàn cầu hoá và quốc tế hoá:
Nền kinh tế thế giới trong hai thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX đợc khắc hoạ bởi
rất nhiều những đặc điểm phát triển mới : chu kỳ kinh tế ngày càng không rạch ròi
với những chấn động ngắn và thời gian tăng trởng kéo dài ; các nền kinh tế quốc
gia, lớn nhỏ ngày càng tơng thuộc chặt chẽ với nhau và đang kết nối thành một
mạng thống nhất trên quy mô toàn cầu ; các nền kinh tế quốc gia và khu vực đang
xúc tiến tích cực các quá trình liên kết , hội nhập và mở cửa theo hớng tự do hoá và
theo đó làm xuất hiện hàng loạt các thể chế kinh tế khu vực và quốc tế dới nhiều
cấp độ; làn sóng sát nhập của các tập đoàn xuyên quốc gia với quy mô khổng lồ
đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ Tất cả là sự hiện thân của những xu hớng phát
triển của nền kinh tế thế giới trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX, trong đó
toàn cầu hoá là đặc trng bao trùm, phổ biến nhất. Theo đó, nền kinh tế thế giới thế
kỷ XXI sẽ mở ra nhiều cơ hội và thách thức cho mọi nền kinh tế , bất kể đó là nền
kinh tế phát triển hay nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi. Việc nhận diện
toàn cầu hoá để lựa chọn chiến lợc phát trển quốc gia mang tính thích ứng cao là
một vấn đề cấp thiết của mọi nền kinh tế và điều này càng trở nên bức thiết hơn đối
với một nền kinh tế đi sau , mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trờng và hội nhập
vào nền kinh tế thế giới nh nền kinh tế Việt Nam.
Toàn cầu hoá là một danh từ lần đầu tiên đợc Webster đa vào từ điển năm 1961
và nó đợc sử dụng khá phổ biến trong hai thập kỷ gần đây. Nhng vào năm 1870 nhà
triết học Jợemy Benthamđã sử dụng tính từ quốc tế về khái niệm quan hệ quốc tế
đã đợc sử dụng rộng rãi từ thời đó . Toàn cầu hoá hay quốc tế hoá đều là những
khái niệm diễn tả những mối quan hệ vuợt ra ngoài biên giới quốc gia. Tuy nhiên
cấp độ giữa chúng là khác nhau. Toàn cầu hoá mà cốt lõi là toàn cầu hoá kinh tế là

bớc phát triển mới và cao hơn của quốc tế hoá kinh tế.
Hiện nay tồn tại nhiều định nghĩa về toàn cầu hoá . Về mặt kinh tế phải chăng
toàn cầu hoá là quá trình lực lợng sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế vợt ra ngoài
biên giới quốc gia và phạm vi từng khu vực, lan toả ra phạm vi toàn cầu, trong đó
hàng hoá vốn tiền tệ thông tin lao độngvận động thông thoáng , sự phân công lao
lao động mang tính quốc tế , mối quan hệ kinh tế giữa quốc gia các khu vực đan
xen nhau ,hình thành mạng lới quan hệ đa tuyến ,vận hành theo các luật chơi
chung đợc hình thành qua sự hợp tác và đấu tranh giữa các thành viên của cộng
đồng quốc tế . trong xu thế ấy, các nền kinh tế quan hệ ngày càng mật thiết với
nhau. Toàn cầu hoá là bớc phát triển mới cao hơn của của quốc tế hoá kinh tế Quá
trình toàn cầu hoá đang phát triển cùng tồn tại trên thế giới hiện nay thực chất là
quá trình quốc tế hoá đã đạt đến độ nhuần nhuyễn, nó phản ánh một quá trình phát
triển đặc trng bản chất là không có ranh giới quốc gia và khu vực trong mối quan
hệ kinh tế xã hội ngày càng phát triển.
2-Quá trình hình thành toàn cầu hoá:
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng xu thế toàn cầu hoá kinh tế đã hình thành và phát
triển qua một chặng đờng khá dài .Tính đến nay lịch sử nhân loại đã từng chứng
kiến ba lần có hiện tợng toàn cầu hoá trớc khi bớc vào thời đại toàn cầu hoá
mới đợc bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ XX.
Lần thứ nhất diễn ra vào cuối thế kỷ XV sau khi Colombo tìm ra Châu Mỹ. Từ
đó làm cho ngời châu Âu đổ đi các nơi để khai hoá văn minh thế giới. Lần chinh
phục thế giới này làm cho giá trị Châu Âu thay đổi và đợc truyền bá khắp nơi .
Kết quả là tạo ra cơ hội tích luỹ t bản lớn và làm cho nớc Anh trở thành bá chủ thế
giới.
Lần thứ hai vào giữa thế kỷ XIX và đợc đánh dấu bằng thời kỳ ngời Châu Âu
chinh phục ngời Châu á và Nhật Bản nắm lấy cơ hội tiến hành cuộc duy tân, hng
thịnh đất nớc.
2
Lần thứ ba diễn ra vào thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai với sự ra đời
của một trật tự thế giới mới do các nớc thắng trận dẫn dắt , các quốc gia thuộc

Châu á ,Châu phi ,Châu Mỹ la tinh giành đợc độc lập và hoà nhập vào cộng đồng
thế giới . Điểm chung của ba lần toàn cầu hoá này là ở chỗ chúng đều là hệ quả
của chiến tranh và chính sách thực dân, trình độ phát triển của các quốc gia còn
thấp , các vấn đề chung có tính chất toàn cầu cha xuất hiện.
Khác với ba lần trớc toàn cầu hoá lần thứ t đợc xuất hiện bởi sự bùng nổ của
công nghệ thông tin, làn sóng dân chủ thứ ba của Bồ Đào Nha vào năm 1974 ,sự
sụp đổ của liên Xô và Đông Âu vào đầu thập kỷ 90. Toàn cầu hoá lần này nặng về
phơng diện kinh tế và chính trị. Về kinh tế, toàn cầu hoá lấy toàn cầu hoá thị trờng
làm mục tiêu, lấy toàn cầu hoá thông tin làm động lực, bởi vậy nó mang ý nghĩa
sâu rộng hơn nhiều so với những lần trớc. Cũng vì cậy nó đụng chạm đến nhiều n-
ớc, lôi cuốn đông đảo dân số các nớc nhập cuộc.
Theo quan niệm của C.Mác và Ănghen thì xu hớng toàn cầu hoá kinh tế có từ
khi đại công nghiệp t bản chủ nghĩa hình thành và tuy không dùng khái niệm toàn
cầu hoá nhng những nhận định của các ông thực chất là bàn về toàn cầu hoá .Trong
tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản các ông đã viết Vì luôn luôn bị thúc
đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm ,giai cấp t bản xâm lấn khắp toàn
cầu .Nó xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở
khắp nơi. Do bóp nặn thị trờng thế giới, giai cấp t bản đã làm cho sản xuất và tiêu
dùng của tất cả các nớc mang tính chất thế giớ . Tuy nhiên theo quan niệm của các
nhà nghiên cứu hiện nay thì toàn cầu hoá kinh tế với đúng nghĩa của nó chỉ hình
thành từ khi chủ nghĩa t bản tự do cạnh tranh đã thành chủ nghĩa t bản độc quyền,
nhất là từ khi các cờng quốc t bản chủ nghĩa đã phân chia xong thế giới về lãnh thổ
chính trị .Về điều này V.I.Lênin khi nghiên cứu chủ nghĩa đế quốc đã nhận định :
Mạng lới dày đặc những mạch máu ngân hàng lan rộng nhanh chóng nh thế
nào , nó bao phủ cả nớc, tập trung hết thảy t bản và các khoản thu nhập bằng tiền
biến thành hàng nghìn hàng vạn doanh nghiệp tản mạn thành một đơn vị kinh tế t
bản chủ nghĩa.
Nh vậy dù có sự khác nhau trong việc phân kỳ lịch sử hình thành quá trình toàn
cầu hoá, nhng các nhà nghiên cứu về cơ bản đều có sự tơng đồng nhất định . Họ
đều cho rằng toàn cầu hoá và quốc tế hoá kinh tế là kết qủa của sự phát triển lực l-

ợng sản xuất, đều là tất yếu lịch sử .Toàn cầu hoá kinh tế xét cho cùng là hệ quả của
những biến đổi trong lĩnh vực công nghệ truyền thông và thông tin, và chính ba
nhân tố : công nghệ kỹ thuật, thông tin và tiền vốn lu chuyển xuyên quốc gia đã
trở thành động lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá .Theo cách hiểu này thì toàn cầu
hóa ngày nay là sản phẩm của văn minh nhân loại và do đó là cơ hội để các quốc
gia đón nhận, tự nguyện hội nhập và góp sức mình thúc đẩy toàn cầu hoá phát triển.
2-Đặc trng toàn cầu hoá :
Toàn cầu hoá kinh tế đợc biểu hiện nổi bật ở sự lu chuyển xuyên quốc gia của
các dòng tiền vốn .Hay nói cách khác toàn cầu hoá về tài chính là đặc trng nổi bật
chi phối các tiến trình tự do hóa về thơng maị dịch vụ và đầu t dã kết nối với nhau
ythành một mạng tren quy mô toàn cầu. Cụ thể là : Quy mô lu chuyển vốn quốc tế
sẽ tiếp tục mở rộng. Ngày nay, 95% nền kinh tế tài chính nằm trong một thế giới
ảo vận động trên các xa lộ thông tin. Tiến trình nhất thể hoá tiền tệ sẽ tăng
nhanh. Xu hớng hình thành các đồng tiền chung kiểu đồng EURO sẽ xuất hiện ở
nhiều khu vực. Nghiệp vụ ngân hàng sẽ hoạt động theo hớng tổng hợp hoá , mạng
hoá. Xu hớng sát nhập trong lĩnh vực ngân hàng sẽ trở nên phổ biến để hình thành
các tập đoàn đa năng, xuyên quốc gia và điều tiết vốn trên phạm vi toàn cầu. Thứ tự
các thể chế tài chính quốc gia, khu vực thờng xuyên bất cậpvới các thể chế tài
chính quốc tế. Nền kinh tế toàn cầu gắn chặt với nhau, chi phối lẫn nhau nhng đồng
thời cũng mang đầy rủi ro, dễ thơng tổn, nhất là những khâu yếu trong hệ thống tài
chính của các chính phủ quốc gia phải hành động theo hớng vừa giảm bớt sự can
thiệp vào hoạt động của các dòng vốn, vừa phải phản ánh kịp thời các sự kiện xuất
hiện trên thị trờng tài chính và vốn xuyên quốc gia, nghĩa là có sự điều chỉnh kịp
thời và có đối sách linh hoạt với mọi biến đổi của nền tài chính quốc tế.
3
Trong nền hinh tế toàn cầu xuyên quốc gia, quản lý vĩ mô, dới sự hỗ trợ của công
nghệ thông tin, trở thành yếu tố có tính chất quyết định tong lai phát triển của nó.
Sự phát triển của kĩ thuật viễn thông và công nghệ thông tin đã cung cấp những ph-
ơng tiện hoàn thiện và đợc áp dụng phổ biến trong mọi lĩnh vực quản lý và do vậy,
đã trở thành phơng tiện lu chuyển vốn toàn cầu . Nh vậy tính chất xã hội sản xuất

quy mô lớn trên phạm vi toàn cầu xác lập vai trò quyết định và năng động của công
tác quản lý.
Từ tính tơng thuộc chặt chẽ giữa các nền kinh tế quốc gia, các hoạt động thơng
mại, đầu t ,tài chính đều đợc gia tăng mạnh mẽ và bắt buộc mọi nền kinh tế phải
tham gia vào một kiểu thị trờng thế giới thống nhất một sân chơi chung bình
đẳng cho mọi nền kinh tế, bất kể đó là nền kinh tế thuộc trình độ và xuất phát điểm
phát triển nh thế nào. Nói cách khác, bớc vào thế kỉ XXI thì toàn cầu hoá trớc hết là
toàn cầu hoá thị trờng, bắt nguồn từ toàn cầu hoá thông tin và cuối cùng là các quá
trình kinh tế. Thị trờng toàn cầu hoá, do đó, đợc biểu hiện là thị trờng mở và các
nền kinh tế quốc gia tự nguyện mở cửa nền kinh tế nớc mình để trên cơ sở các lợi
thế so sánh vốn có, hội nhập hiệu quả vào thị trờng khu vực và thế giới. Tính bổ
sung lẫn nhau giữa các thị trờng thông qua hội nhập và cạnh tranh đã khiến cho
mục tiêu trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia là chạy theo thị trờng mở rộng
nhất chứ không phải là lơị nhuận cao nhất ( mặc dù, bao giờ lợi nhuận tối đa cũng
là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp). Bởi lẽ, thơng mại trong nền kinh tế toàn
cầu đang trở thành điều kiện của đầu t và đầu t càng mở rộng thì tất nhiên, thơng
mại sẽ càng phát triển.
Trong nền kinh tế toàn cầu, quốc gia dân tộc có chủ quyền không còn là chủ thể
duy nhất có vai trò chế định chính sách kinh tế mà là sự tồn tại đồng thời của 5 chủ
thể có thể đảm nhận vai trò này một cách hiệu quả. Đó là: 1) Quốc gia dân tộc có
chủ quyền; 2)các khối kinh tế khu vực ( ví dụ ASEAN, EU);3) các thể chế kinh tế
quốc tế(IMF,WB);4) các công ty xuyên quốc gia(TNCS) và 5)các tổ chức phi
chính phủ. ở đây cần đặc biệt chú trọng đến vai trò của các công ty xuyên quốc
gia .Với cấu trúc hoạt động theo hình mạng lới, cắm nhánh , mở văn phòng đại
diện ở tất cả các quốc gia và khu vực, tự TNCs đã là một tế bào kết nối nền kinh tế
thế giới thành một hệ thống toàn cầu . Mặt khác, tự do hoá mậu dịch, đầu t và toàn
cầu hoá thị trờng, sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế toàn cầu và cạnh tranh gay gắt đã và
đang thúc đẩy nhanh tốc độ sát nhập và tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các
TNC. Đầu thế kỷ XXI sự phát triển của các TNC sẽ xuất hiện thêm trạng thái mới
nh : liên minh xuyên quốc gia ; tập trung đầu t vào những ngành có tiềm năng tăng

trởng nhanh nh thông tin, tài chính ; mở rộng FDI sang các nớc đang phát triển ;
tăng cờng các hoạt động nghiên cứu và triển khai tại các nớc đang phát triển Theo
đó, chúng đang trở thành các đế chế công ty, những đạo diễn và diễn viên chính
trên vũ đài kinh tế thế giới .Do vậy, chúng không chỉ là hiện thân của các quá trình
tổ chức sản xuất ,phân phối ,trao đổi và tiêu dùng xuyên quốc gia không chỉ biểu
hiện ở cấp vĩ mô của những quá trình kinh doanh quốc tế vì mục tiêu lợi nhuận thị
phần, doanh số, u thế và ổn định mà cùng với tác động của các xu thế khác, chúng
đang ngày càng hởng đến các luật chơi cũng nh các chính sách kinh tế của nhiều
quốc gia. Điều đó cũng có nghĩa là năm chủ thể trong nền kinh tế toàn cầu ảnh h-
ởng lẫn nhau ,ràng buộc và chi phối lẫn nhau.
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá ,xu hớng liên kết kinh tế khu vực và quốc tế hoá
đợc đẩy mạnh hơn bao giờ hết . Kể từ đầu thập kỷ 90, hàng loạt các tổ chức kinh tế
khu vực và quốc tế dới nhiều cấp độ và mang tính thể chế ngày càng cao, đã ra đời.
Chính tính đa dạng về cấp độ phát triển, sự khác biệt về các đặc điểm địa-chính trị
và địa-kinh tế cùng những đặc tính văn hoá đang làm cho các hình thức kinh tế trở
nên nhiều vẻ và rất phong phú về nội dung. Tuy vậy về bản chất chúng, là hiện thân
của xu hớng tự do hoá về thơng mại và đầu t quốc tế và những trình độ khác nhau
của tiến trình nhất thể hoá nền kinh tế thế giới. Đó là sự liên kết kinh tế mang tính
thể chế cao với phạm vi hoạt động rộng lớn trê quy mô toàn cầu nh WTO. Đó là
khuynh hớng hình thành một liên minh kinh tế thống nhất cho toàn khu vực nh EU
hoặc đó chỉ là một thoả thuận khu vực xuyên qua nhiều lục địa không mang tính
pháp lý nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá nh APEC. Đó là dàn xếp khu vực ở quy
4
mô nhỏ hơn với nhiều yếu tố đồng nhất nhằm xây dựng khu vực mậu dịch tự do nh
NAFTA, AFTA MERCOSURCó thể nói, liên kết kinh tế xét trên mọi góc độ,
đang hớng tới hình thành một nền kinh tế toàn cầu tự do hoá và nhất thể hoá, giúp
cho các nền kinh tế quốc gia phát huy tối đa các lợi thế so sánh của mình trong một
nền kinh tế thế giới đã toàn cầu hoá.Rõ ràng nói chính xác ra, đặc trng này quy
định sự tham gia tất yếu của mọi nền kinh tế quốc gia vào các thể chế kinh tế khu
vực và quốc tế ở nhiều cấp độ.

-Bản chất của toàn cầu hoá :
Cũng nh bất kỳ hiện tợng chính trị kinh tế xã hội nào khác, toàn cầu hoá phản
ánh tơng quan lực lợng giữa các nớc các lực lợng tham gia quá trình đó.Trong thời
kỳ chủ nghĩa t bản còn thống trị toàn thế giới thì điều đơng nhiên là quá trình quốc
tế hoá chịu sự chi phối hoàn toàn của các tập đoàn t bản. Trong thời kỳ hệ thống
XHCN thế giới tồn tại quan hệ kinh tế quốc tế bị chi phối bởi sự hợp tác và đấu
tranh giữa hai nền kinh tế: t bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Từ sau khi Liên Xô
tan rã ,chủ nghĩa xã hội bị xoá bỏ ở các nớc Đông Âu tơng quan lực lợng trên thế
giới thay đổi không có lợi cho các lực lợng cách mạng. Về kinh tế, các nớc công
nghiệp phát triển nhất là Mỹ chi phối nền kinh tế thế giới , từ sản xuất tới vốn ,
công nghệ, xuất khẩu, dịch vụ, thông tin, giữ vai trò chủ chốt trong nhiều tổ chức
kinh tế quốc tế, từ đó tìm mọi cách áp đặt quyền thống trị các luật chơi có lợi cho
họ. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều ngời nói tới tính chát đế quốc của quá trình
toàn cầu hoá đang diễn ra hiện nay. Heinz Dietẻich chuyên gia nghiên cứu chiến l-
ợc thuộc trung tâm nghiên cứu quốc tế Hoa Kỳ, khi phân tích về toàn cầu hoá cho
rằng, nhu cầu bành trớng của xã hội t sản ở thế kỷ XVIII và XIX đợc thể hiện
thông qua chủ nghĩa thực dân, ở thế kỷ XX thông qua chủ nghĩa đế quốc và hiện
nay nó núp bóng dới cái gọi là toàn cầu hoá.
4- T duy tiếp cận mới về toàn cầu hóa kinh tế:
Trong toàn cầu hoá kinh tế, các nớc phát triển ,các nớc đang phát triển và chuyển
đổi đều là những chủ thể tích cực của quá trình này. cơ hội và thách thức của các
quá trình toàn cầu hoá đã mở r a nh nhau cho mọi nớc và chính mức độ hội nhập
vào nền kinh tế toàn cầu là nền tảng của để kiểm chứng một cách sâu sắc nội lực và
lợi thế so sánh của từng quốc gia dân tộc. Các tiến trình toàn cầu hoá tạo ra kinh tế
thị trờng mở và việ hội nhập vào các thể chế khu vực và toàn cầu là phơng thức để
kết hợp một cách hữu hiệu nhất nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài cho sự
phát triển của các quốc gia dân tộc. Những thách thức rủi ro của mỗi nớc không
còn là vấn đề riêng của các nớc đó; trái lại trong thế giới toàn cầu hoá, sự tuỳ thuộc
lẫn nhau và xoắn bện chặt chẽ giữa các nớc đã đặt ra những khả năng cảnh báo sớm
cho nhau để tránh các rủi ro, thiệt hại cho từng nớc và cả cộng đồng quốc tế.

Toàn cầu hoá kinh tế đã thúc đẩy sự biến đổi cao và nhanh chóng của nền kinh tế
toàn cầu. Công nghệ kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin thay đổi chóng mặt.
Tài chính quốc tế vận hành phức tạp với yêu cầu phải thiết lập một cấu trúc mới.
Các phơng thức tiếp cận thị trờng đã đan xen chặt chẽ giữa những kiểu tiếp cận
thống nhất, phân biệt và tập trung, giữa trực tiếp và gián tiếp mà trong đó máy tính
và internet đã làm thay đổi hoàn toàn các thuật ngữ và t duy kinh tế truyền thống.
Điều này đặt ra thách thức cho ngay các nền kinh tế phát triển khi mà để áp dụng
các công nghệ và kỹ thuật kinh doanh mơi, họ phải thay đổi cơ cấu kinh tế, phải có
chính sách mới về ván đề thất nghiệp và việc làm, phải tạo dựng đợc nguồn tài
chính cho các quá trình cải cáchDo đó, sự biến đổi nhanh của các quá trình toàn
cầu luôn là thách thức to lớn cho các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi vốn
còn yếu kém về nhiều phơng diện, cả về nguồn lực và thể chế điều tiết nền kinh
tế.Tuy nhiên, trong trờng hợp này, thách thức cũng đồng thời là cơ hội. Bởi lẽ, các
nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi sẽ có điều kiện để cải cách toàn diện nền
kinh tế của mình, tranh thu tối đa các nguồn lực và kinh nghiệm nớc ngoài để điều
chỉnh chiến lợc phát triển kinh tế.Đặc biệt, để thích ứng với các tốc độ biến đổi
nhanh của nền kinh tế toàn cầu, sự năng động của giới lãnh đạo chính phủ các quốc
gia giữ vai trò quyết định. Họ cần đoạn tuyệt dứt khoát với lối t duy kinh tế cũ, bảo
5
thủ và còn mang nặng dấu ấn tập trung quan liêu bao câp để thúc đẩy nền kinh tế n-
ớc mình chuyển đổi tích cực sang nền kinh tế thị trờng mở cửa.
Dới sự tác động của toàn cầu hoá kinh tế, lợi thế so sánh của các quốc gia trong
nền kinh tế toàn cầu có sự thay đổi căn bản. Trên phạm vi toàn cầu, lợi thế phát
triển chủ yếu của thế giới ngày nay là trí tuệ và hàm lợng công nghệ cao chứ
không còn là lao động rẻ, tài nguyên rẻ và nguồn vốn.Điều này đặt ra sự phân chia
giữa các nhóm nớcvà khẳng định vai trò của từng nhóm nớc với những lợi thế so
sánh khác nhau để bổ sung cho nhau trong sự hợp tác và phát triển. Các lợi thế này
cũng luôn biến đổi tuỳ theo trình độ phát triển của mỗi nớc và đơmg nhiên nền
kinh tế nào càng kém phát triển, càng chịu nhiều thua thiệt và rủi ro do sự suy giảm
về lợi thế so sánh gây ra. Đó là thách thức cho các nớc đi sau. Tuy vậy, những cơ

hội do toàn cầu hoá đem lại cho các nớc đi sau cũng rất lớn . Các nớc này nếu tận
dụng đợc những cơ hội đó chắc chắn sẽ có những cuộc rợt đuổi và bứt phá ngoạn
mục theo mô thức phát triển rút ngắn. Chẳng hạn, bằng các lợi thế bên trong của
mình về thị trờng, lao động và tài nguyên các nớc này có thể tham gia vào các tầng
nấc thấp hơn của sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế toàn cầu. Trong khi các nớc phát
triển tập trung vốn và các nguồn lực của họ vào các ngành kỹ thuật-công nghệ cao,
có sức cạnh tranh lớn thì các đang phát triển sẽ có cơ hội phát triển mạnh, các
ngành công nghệ chế tạo truyền thống, sử dụng nhiều vốn và lao động đồng thời,
tận dụng kỹ thuật cao do bớc chuyển sang nền kinh tế tri thức đem lại, các nớc này
có thể hiện đại hoá các ngành sản xuất truyền thống. Về đại thể họ có thể hớng tới
một cơ cấu kinh tế với trình độ công nghệ không cao nhng tiên tiến, những ngành
sử dụng nhiều lao động và là thành phần không thể thiếu trong thị trờng hoá- dịch
vụ thế giới. Trong không gian phát triển đó,các nớc này sẽ có khả năng tiếp cận dễ
dàng hơn với các dòng vốn quốc tế, các dòng công nghệ kỹ thuật mới và kỹ năng
quản lý hiện đại. Vấn đề là các nớc đi sau cần có mô thức thích ứng và tận dụng đ-
ợc các cơ hội này.
Để đạt đợc mô hình công nghiệp hoá theo kiểu rút ngắn thì cần phải có t duy
mới về công nghiệp hoá cho các nớc đi sau trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế.
Một là, sự phân công lao động mới trên phạm vi toàn cầu đã dành cơ hội cho các n-
ớc này phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh về mặt lao động tài
nguyên. Hailà, kinh nghiệm thế giới đã chỉ cho thấy để đạt đợc tỷ trọng công
nghiệp chế biến từ 85-90%trong tổng kim ngạch xuất khẩu, các nớc mới công
nghiệp hoá đã mất khoảng 20-25 năm và khoảng thời gian này đang có xu hớng
ngày càng ngắn lại. Ba la, chu kỳ sống của sản phẩm chế tạo ngày càng rút ngắn rút
ngắn còn khoảng 1-3 năm thay vì trên 10 năm, nh nhiều dự báo đã khẳng định.
Theo đó, quá trình đổi mới công nghệ, nâng cao chất lợng mẫu mã , kiểu dáng và
năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá sẽ diễn ra với tốc độ nhanh. Bốn là,
điều kiện để đợc thụ hởng các u đãi về thuế quan và phi thuế quan trong các hiệp
định thơng mại đa phơng mang tính khu vực và quốc tế chủ yếu đều dành cho các
sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo. Do đó bắt buộc tiến trình công nghiệp hoá

của các nớc phải đẩy nhanh để ngay lập tức đợc hởng lợi từ các Hiệp định mà mình
là thành viên. Năm là, sự bành trớng hoạt động của các TNC sang các nớc đang
phát triển cũng nh việc đẩy mạnh khuynh hớng sát nhập đang trở thành một nhân tố
tích cực trong việc tăng tổng đầu t xã hội cho các nớc tiếp nhận, trong việc bổ sung
công nghệ kỹ thuật, kỹ năng quản lý và văn minh kinh doanh mới cho các nớc đối
tác. Mă3tj khác, sự hiện diện của các TNC về đầu t thơng mại đã bắt buộc các nhà
sản xuất trong nớc, kể cả việc sản xuất phục vụ nhu cầu bên trong theo hớng nhập
khẩu đã đến lúc cũng phải coi thị trờng nội địa nh là một bộ phận của chỉnh thể thị
trờng thế giới, Họ phải nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trờng khu vực và quốc
tế để phát triển. Theo đó tiến trình công nghiệp hoá sẽ có điều kiện phát triển hiệu
quả với tốc độ nhanh hơn .Liên kết và hợp tác với các quốc gia, các khu vực, giữa
các tập đoàn kinh doanh lớn nhỏ là xu hớng chủ đạo song sự cạnh tranh giữa chúng
vẫn tồn tại và càng quyết liệt. Lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế mới nền kinh
tế tri thức toàn cầu hoá- tuỳ thuộc vào sức mạnh công nghệ, sức mạnh về quy mô
tài chính và năng lực kiểm soát nền kinh tế của các quốc gia. Sức cạnh tranh của
các quốc gia, ngoài việc dựa vào sức cạnh tranh của các tập đoàn kinh tế, còn tuỳ
6
thuộc vào vị thế, lợi thế so sánh và mức độ tham gia của các quốc gia đó vào thể
chế khu vực và quốc tế. Thực tế đã chứng minh rất sinh động là những nớc nào
thích ứng nhanh với xu hớng tự do hoá và có năng lực cạnh tranh ngày càng cao, sẽ
luôn là những quốc gia chịu sự tác động ít nhất của những chấn động kinh tế khu
vực và quốc tế. Hơn nữa, thế thơng lợng cạnh tranh của các quốc gia thành viên đợc
nâng cao trong quan hệ hợp tác kinh tế song phơng. Rõ ràng, cạnh tranh và hợp tác
lạ hai động lực của sự phát, trong đó theo yêu cầu của các tiến trình toàn cầu hoá,
hợp tác sẽ là nhân tố chủ đạo của nền kinh tế toàn cầu hoá đã xoắn bện chặt chẽ
các nền kinh tế quốc gia và khu vực.
Những phân tích trên cho thấy là toàn cầu hoá kinh tế rõ ràng là đợc khởi nguồn
và thúc đẩy bởi các nớc t bản phát triển do chỗ các nớc có nền tảng khoa học công
nghệ cao , có tiềm lực và trình độ phát triển và trình độ phát triển cao, có phạm vi
ảnh hởng rộng lớn trong nền kinh tế thế giới. Tuy vậy cùng với tiến trình phát triển,

những mục tiêu chủ quan ban đầu của họ đã dần dần trở thành những động lực
khách quan và đằng sau những quá trình trên quy mô toàn cầu, các nớc t bản phát
triển cũng không hoàn toàn kiểm soát những lợi ích, những chơng trình kinh tế của
họ đã ngày càng bị phụ thuộc rất lớn vào nhiều tập đoàn khác, vào nhiều nớc và
nhiều khu vực khác, thậm chí họ không thể vợt qua đợc những định chế quốc tế,
trái lại họ chỉ đóng vai trò là một trong nhiều thành viên tham gia soạn thảo các ch-
ơng trình phát triển toàn cầu. Do vậy, toàn cầu hoá đã không còn là của riêng các n-
ớc công nghiệp phát triển và tự do trong nội hàm cuả nó, toàn cầu hoá đã thể hiện
là đặc tính chung, văn minh chung của sự phát triển toàn cầu. Để có đựơc nền kinh
tế thực sự phát triển và bền vững thì các quốc gia nên đi theo cách tiếp cận này để
tham gia vào các tiến trình hội nhập quốc tế tích cực, tự tin và có trách nhiệm cao
hơn.
II- Nớc ta cần phải chủ động tham gia vào toàn cầu hoá và
quốc tế hoá kinh tế:
1-Bối cảnh quốc tế và khu vực:
Trong tác phẩmnhững giới hạn của sự tăng trởng. Câu lạc bộ Ronma xuất bản
1972, cho rằng sự sụp đổ kinh tế toàn cầu sẽ xảy ra sau một thập kỷ nữa. Đó là một
dự báo bi quan về kinh tế thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế, kinh tế thế giới chẳng
những không sụp đổ mà còn phát triển mạnh mẽ hơn, mặc dù không phải không có
trục trặc. Sự bùng nổ kinh tế thế giới trong những năm 90 bắt nguồn từ sự gia tăng
buôn bán giữa hơn 160 nớc. Sự buôn bán này đang biến kinh tế thế giới từ những
mảng thị trờng riêng lẻ thành một thị trờng, một nền kinh tế duy nhất. Một xu hớng
mới đã hình thành, xu hớng toàn cầu hoá kinh tế.
Năm 1998 Mỹ và Canada đã ký hiệp ớc tháo dỡ mọi rào cản trong việc buôn bán
giữa hai nớc. Sau đó Mexico tham gia vào đã biến Bắc Mỹ thành một thị trờng rộng
lớn. Năm 1992, 12 nớc cộng đồng Châu Âu cũng bãi bỏ mọi chớng ngại trong việc
buôn bán giữa các nớc trong khối cộng đồng, làm cho Tây Âu trở thành một khu
vực kinh tế thống nhất rộng lớn. Vòng đàm phán U-ru-goay kết thúc, hiệp định Ma-
ra-ket đợc ký kết. Tổ chức thơng mại thế giới (WTO) ra đời từ 01-01-1995 thu hút
tới 136 và ngày nay là 144 quốc gia và lãnh thổ, chiếm gần 100% kim ngạch buôn

bán quốc tế, theo hớng giảm mạnh hàng rào quan thuế và phi quan thuế, mở cửa thị
trờnghàng hoá, đầu t, dịch vụBên cạnh đó sự ra đời của WTO xuất hiện rất nhiều
tổ chức tiểu vùng, khu vực, liên khu vực nh các tam giác, tứ giác phát triển, các khu
vực mậu dịch tự do(AFTA, NAFTA), những tổ chức liên kết toàn châu lục (EU)
hoặc giữa các châu lục (APEC). Các nớc lớn nhỏ đều dành u tiên cho phát triển
kinh tế, theo đuổi chính sách kinh tế mở. Ngay cả những nớc có tiềm năng thị trờng
rộng lớn nh Trung Quốc, Nga, ấn Độ,Mỹ và cả một số nớc vốn khép kín theo mô
hình tự cung tự cấp cũng dần mở cửa, từng bớc hội nhập vào nền kinh tế thế giới
Mặt khác, cộng đồng thế giới đứng trớc nhiều vấn đề suy thoái toàn cầu : môi tr-
ờng suy thoái, bùng nổ dân số, nghèo đói, các bệnh tật hiểm nghèo, các vấn đề xã
hội xuyên quốc gia, không một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết đợc mà
cần có sự hợp tác đa phơng. Tình hình trên làm nảy sinh và thúc đẩy xu thế hội
nhập để cùng nhau phát triển. Trong xu thế chung đó, các nớc công nghiệp phát
7
triển, trớc hết là Mỹ, do có u thế về thị trờng, nắm đợc tiến bộ khoa học công nghệ,
có nền kinh tế phát triển cao đã ra sức thao túng, chi phối thị trờng thế giới, áp đặt
điều kiện đối với các nớc chậm phát triển hơn, thậm chí dùng những biện pháp thô
bạo nh bao vây, cấm vận trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nớc đang phát
triển và chậm phát triển. Trớc tình hình đó, các nớc đang phát triển từng bớc tập
hợp nhau lại, đấu tranh chống chính sách cờng quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi
ích của mình vì một trật tự kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng. Điều đó chứng tỏ
xu thế hội nhập phản ánh cục diện vừa đẩy mạnh hợp tác, vừa đấu tranh khốc liệt.
ở khu vực Đông Nam á đã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Sau nhiều thập kỷ
chiến tranh, đối đầu, Đông Nam á đã có hoà bình, xu thế hợp tác không ngừng gia
tăng. Nhất là cuối thiên niên kỷ thứ hai đầu thiên niên kỷ thứ ba hàng loạt biến cố
chính trị, xã hội xảy ra càng làm cho thế giới xích lại gần nhau hơn, mà trớc hết là
về mặt kinh tế. Đó là sự mở rộng của ASEAN, sự liên kết ASEAN với ba nớc đối
thoại EU.
Cũng cần phải nói thêm rằng sự phát triển đột biến của các phơng tiện vô tuyến
viễn thông càng đẩy nhanh quá trình buôn bán giữa các nớc, các khu vực khác nhau

trên thế giới. Cùng với sự phát triển của vô tuyến viễn thông, là sự nối mạng máy
tính, mạng internet xuất hiện, đã làm cho trái đất rộng lớn hôm qua, trở thành ngôi
nhà bé nhỏ hôm nay. Tình hình thế giới trong những năm gần đây đã đem lại nhiều
thuận lợi to lớn, đồng thời đặt ra nhiều thách thức gay gắt đối với nớc ta trong quá
trình phát triển đất nớc nói chung và quá trình hội nhập nói riêng.
2-Thời cơ và thách thức của toàn cầu hoá và quốc tế hoá:
Ngày nay chủ nghĩa t bản đóng vai trò chi phối quá trình toàn cầu hoá. Với cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại, công nghệ thông tin và viễn thông, quá trình
này ngày càng phát triển mạnh mẽ về chiều rộng cũng nh chiều sâu với tốc độ rất
nhanh. Hiện tại toàn cầu hoá đã bộc lộ những mặt tích cực và tiêu cực, điều này thể
hiện rất rõ qua sự tác động của nó đối với các nớc đang phát triển:
A-Thời cơ:
a-Toàn cầu hoá và quốc tế kinh tế hoá giúp các nớc đang phát triển mở rộng thị
trờng ra nớc ngoài, sự giao lu hàng hoá thông thoáng hơn, hàng rào thuế quan và
phi thuế quan thuyên giảm, nhờ đó sự trao đổi hàng hoá tăng mạnh có lợi cho sự
phát triển các nớc. Nếu Việt Nam gia nhập WTO sẽ đợc hởng những u đãi dành
cho nớc đang phát triển theo quy chế tối huệ quốc trong quan hệ với 132 nớc thành
viên của tổ chức này do vậy hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu vào các nớc đó dễ
dàng hơn. Từ năm 2002 hàng rào thuế quan của các nớc APEC sẽ đợc dỡ bỏ. Đây
cũng là cơ hội để nớc ta xuất khẩu hàng hoá vào các nớc thành viên APEC. Toàn
cầu hoá đã tạo ra khả năng để mỗi quốc gia phát huy lợi thế so sánh. Lợi thế so
sánh đã từng bớc cuốn trôi hàng rào thuế quan và phi quan thuế. Nếu tính từ đầu
thế kỷ 20 đến nay (khi GATT ra đời) kim ngạch buôn bán của thế giới đã tăng 2
lần. Song từ đầu thập niên 90 của thế kỷ 20 kim ngạch buôn bán đã tăng 50 lần.
Khi thị trờng thế giới thống nhất và phát triển thì các rào cản thơng mại từng bớc bị
loại bỏ, một trong những thành công của phơng diện này là sự ra đời của tổ chức
thơng mại thế giới WTO ngày 1-1-1995 và tiếp theo là việc giảm thuế quan giữa
các thành viên của WTO xuống mức bình quân là 3% đối với các nớc phát triển và
dới 15% đối với các nớc đang phát triển. Đồng thời do giá thành vận tải thơng mại
quốc tế liên tục hạ, hiện nay chỉ còn 2% giá trị hàng hoá, trong khi tỷ lệ xuất khẩu

vẫn vẫn không ngừng tăng, năm 1998 là 24,3%, dự tính đến năm 2005 sẽ đạt 28%.
Thơng mại phát triển khiến cho thị trờng thống nhất hơn, xu thế thống nhất lại đòi
hỏi loại bỏ các hàng rào thơng mại.
b-Khi tham gia toàn cầu hoá, nớc ta có cơ hội mở rộng thu hút nguồn vốn đầu t
nớc ngoài. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trờng của nớc nớc ta
đợc mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu t. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào
nớc ta, sử dụng lao động và tài nguyên vốn có của nớc ta, làm ra các sản phẩm tiêu
thụ trên thị trờng khu vực và thế giới với các u đãi mà nớc ta có.Cơ hội hội mở rộng
thị trờng kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu t nớc ngoài. Đây là cơ hội để thúc đẩy
nguồn vốn trong nớc và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả hơn. Góp phần làm chuyển
8
dịch cơ cấu kinh tế trong nớc theo hớng công nghiệp hoá, phát triển lực lợng sản
xuất và tạo thêm công ăn việc làm cho ngời lao động.Chẳng hạn, tính theo tỷ lệ
GDP, luồng vốn thâm nhập vào các nớc đang phát triển trong vòng 10 năm từ 1986
đến 1996 đã tảng khoảng 2 lần Riêng Trung Quốc, trong vòng 3 năm 1993- 1995
đã nhận đợc 110 tỷ USD, vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI) chiếm khoảng 20%
tổng đầu t của cả nớc. FDI cung cấp 34,7% đầu t cho hàng xuất khẩu và 28,7% đầu
t cho công nghiệp của Trung Quốc năm 1994Thực tế này cho thấy, những nớc
đang phát triển bứt lên đợc về kinh tế là những nớc đã tận dụng đợc các cơ hội và
thu hút đợc những khoản FDI lớn nhất.
Để sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, bắt buộc những nớc đang phát triển phải
nâng cao trình độ về mọi mặt, phải đổi mới công nghệ, cải tiến phơng thức quản lý,
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động. Tất cả những điều
đó đa đến một kết quả là: các nớc phát triển thì ngày càng giàu có, còn các nớc
đang phát triển cũng phát triển mạnh mẽ về lực lợng sản xuất. Sự phát triển của các
nớc NICs, đặc biệt là những con rồng Châu á trong mấy thập kỷ qua đã chứng
minh điều đó.
c- Tranh thủ đợc kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nớc đi trớc để đẩy nhanh
tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội . Nếu nh trớc đây việc chuyển giao kỹ thuật chỉ là hình

thức chủ yếu, thì hiện nay chuyển giao công nghệ diễn ra rất nhanh chóng, làm cho
các nớc lạc hậu có thể rút ngắn thời gian phát triển của mình. Hội nhập kinh tế
quốc tế là con đờng để khai thông thị trờng nớc ta với khu vực và thế giới, tạo ra
môi trờng đầu t hấp dẫn và có hiệu quả, qua đó mà kỹ thuật công nghệ mới có điều
kiện du nhập vào nớc ta đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kỹ thuật, công
nghệ quốc gia. Trong cạnh tranh quốc tế, có thể công nghệ này là cũ đối với các n-
ớc phát triển nhng lại là mới và có hiệu quả tại một nớc đang phát triển nh Việt
Nam. Trong những thập niên vừa qua cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nhất là
công nghệ thông tin và viễn thông phát triển mạnh, làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế
giới và đã tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận những phát triển mới này. Sự xuất
hiện và hoạt động của nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại nh Hà Nội, Hải
Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dơngvà những khu
liên doanh trong ngành công nghệ dầu khí đã minh chứng điều đó. Bu chính viễn
thông và giao thông vận tải bao phủ toàn cầu làm cho năng suất lao động tăng
nhanh không có giới hạn cuối cùng. Điều đó cũng có nghĩa là giá thành sản phẩm
không ngừng giảm xuống, sức mua của đồng tiền tăng lên. Cuối cùng là đời sống
ngời dân không ngừng đợc cải thiện .
d- Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội mở rộng giao lu các nguồn lực của nớc
ta khai thông giao lu với các nớc. Ta có thể thông qua hội nhập để xuất khẩu lao
động hoặc có thể sử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng
xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, công nghệ
mới các phát minh sáng chế mà ta cha từng có. Đồng thời hội nhập kinh tế quốc tế
góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi dỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều
lĩnh vực. Phần lớn các cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh
doanh đã đợc đào tạo ở cả trong và ngoài nớc. Chỉ tính riêng trong các công trình
đầu t nớc ngoàidã có khoảng 30 vạn lao động trực tiếp, 600 cán bộ quản lý và 25
000 cán bộ khoa học kỹ thuật đã đợc đào tạo.
e-Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy quá trình nhất thể hoá kinh tế khu vực phát triển
nhanh chóng, trao đổi kinh tế giữa các khu vực ngày càng quan trọng, tăng thêm sự
phụ thuộc và tác động lẫn nhau giữa các nền kinh tế và khu vực kinh tế. Theo thống

kê của liên hợp quốc trong những năm 60 có khoảng 19 tổ chức nhất thể hoá kinh
tế khu vực, những năm 70 có 28 tổ chức, những năm 80 con số này là 32 và những
năm 90 đã lên tới gần 60 tổ chức với hơn 160 nớc tham gia dới các loại hình và
mức độ khác nhau. Sự gia tăng các tổ chức nhất thể hoá kinh tế góp phần thúc đẩy
nhanh chống quá trình toàn cầu hoá kinh tế, việc giao lu trao đổi các hoạt động
kinh tế để tìm kiếm lợi ích giữa các nền kinh tế, các khu vực kinh tế ngày một gia
tăng, làm cho nền kinh tế mỗi quốc gia, khu vực trở thành một bộ phận của kinh tế
thế giới, hình thành một cục diện kinh tế thế giới mới. Một cục diện trong đó các
9
thành viên tồn tại trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau để cùng phát triển.
Nó cho phép giảm thiểu chớng ngại trong việc lu chuyển vốn, hàng hoá, dịch vụ,
nguồn nhân lực giữa các nền kinh tế, các khu vực kinh tế, làm tăng vai trò kinh tế
đối ngoại, mậu dịch và đầu t nớc ngoài đối với sự phát triển kinh tế của mỗi nớc,
làm cho việc phân bố các nguồn lực trên thế giới hợp lý và có hiệu quả hơn.
g-Thúc đẩy mạnh mẽ lực lợng sản xuất phát triển:Toàn cầu hoá, mà trớc hết là
toàn cầu hoá về kinh tế, bắt nguồn từ sự phát triển lực lợng sản xuất, từ tính chất xã
hội hoá của sản xuất trên phạm vi quốc tế. Điều này có nghĩa là từ sự phát triển
mạnh mẽ của lực lợng sản xuất trong nền đại công nghiệp t bản chủ nghĩa, cùng
với sự thôi thúc của động lực đạt lợi nhuận cao của gia cấp t sản, xu thế toàn cầu
hoá đã xuất hiện. Khi đã xuất hiện, nó tác động trở lại làm cho lực lợng sản xuất
trên thế giới nói chung và ở các nớc đang phát triển nói riêng có điều kiện phát
triển mạnh mẽ. Với mục tiêu dành lợi nhuận tối đa, thông qua các mối liên hệ quốc
tế rộng rãi do toàn cầu hoá đa lại, các nớc phát triển đang tìm cách đầu t vào các n-
ớc đang phát triển. Ngợc lại, để đa đất nớc tiến nhanh, các nớc đang phát triển cũng
có nhu cầu thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn từ nớc ngoài. Sự gặp gỡ của hai nhu
cầu này làm dòng chảy về vốn, công nghệ, dịch vụ từ các nớc phát triển chuyển vào
các nớc đang phát triển ngày càng tăng.
B- Thách thức:
Trong tiến trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế bên cạnh những cơ hội
phát triển cũng đặt ra không ít những khó khăn và thách thức.Những tác động tiêu

cực của quá trình toàn cầu hoá bắt nguồn từ nguyên nhân cơ bản là các nớc công
nghiệp phát triển đặc biệt là Mỹ hiện còn chiếm u thế trong nền kinh tế thế giới,
thao túng quá trình toàn cầu hoá. Chính vì vậy mà Báo cáo về sự phát triển nhân
loại 1999 của chơng trình phát triển liên hợp quốc (UNDP) đã cho rằng toàn cầu
hoá phục vụ thiểu số. Giáo s JaimePuyana chuyên gia hàng đầu của viện công nghệ
Masachusette (Mỹ) đã khẳng định rằng : Bức tranh toàn cầu hoá không có gì sáng
sủa và điều mà ngời ta quen gọi là toàn cầu hoá sẽ là : toàn cầu hoá man rợ. Những
gì sắp đạt đợc sẽ là tiền đề cho một quá trình tích luỹ cao, dựa trên sự bóc lột siêu
hạng. Và ông kết luận đây là sự trở lại một thứ CNTB hung dữ với toàn bộ công
nghệ siêu việt, trong đó chắc chắn sẽ có cuộc đấu tranh giai cấp.
a- Toàn cầu hoá là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa các thành viên tham
gia, chủ yếu là giữa các nớc đang phát triển và chậm phát triển với các nớc phát
triển ( đứng đầu là Mỹ). Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá là tham gia vào việc
định ra và thực hiện luật chơi chung. Để đảm bảo cho các nớc đều có lợi ích
trong mở cửa, hội nhập, đòi hỏi các bên tham gia phải hợp tác với nhau. Do có u
thế về vốn, công nghệ, thị trờng kinh nghiệm quản lý và thực lực chi phối thị trờng
thế giới trong quá trình toàn câù hoá, các nớc phát triển luôn nắm quyền quy định
và khống chế những luật chơi chung có lợi cho họ. Măc dù luật chơi có vẻ công
bằng, nhng thực chất chúng luôn đem lại lợi thế cho những kẻ mạnh (các nớc t
bản và các công ty siêu quốc gia). Các nớc đang phát triển, các nớc nghèo thờng
phải gánh chịu những điều bất lợi, thiệt thòi về phía mình.Trong quá trình toàn cầu
hoá, để thu đợc nhiều lợi ích, các nớc phát triển luôn tìm mọi cách chèn ép các nớc
đang phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nh về kinh tế các nớc
phát triển dùng sức mạnhđể ép các nớc đang phát triển chấp nhận những điều
khoản có lợi cho mình, tạo nên những bất lợi cho các nớc đang phát triển, khiến các
nớc này phải lệ thuộc về kinh tế ngày càng nhiều. Toàn cầu hoá đã tạo ra mâu thuẫn
gay gắt giữa các nớc đang phát triển với các nớc phát triển trong quá trình mở cửa,
hội nhập. Không những thế, quá trình toàn cầu hoá còn đặt các nớc đang phát triển
trớc những thách thức của sự cạnh tranh quyết liệt. Tham gia vào quá trình toàn cầu
hoá là tham gia vào thị trờng thế giới. Đặc trng cơ bản của thị trờng là cạnh tranh.

Cơ chế thị trờng t bản chủ nghĩa điều tiết nền kinh tế theo quy luật cá lớn nuốt cá
bé, mạnh đợc, yếu thua, kẻ nhanh sẽ chiếm phần ngời chậm.,kẻ mạnh chèn ép
kẻ yếuĐể tồn tại và phát triển, các nớc đang phát triển phảI tìm cách đổi mới về
đờng lối phát triển kinh tế, đổi mới cơ chế hoạt động, không ngừng nâng cao trình
độ khoa học- kỹ thuật, tổ chức quản lý và công nghệ hiện đại cho phù hợp với
10
điều kiện hội nhập. Nếu không làm đợc điều đó thì quá trình toàn cầu hoá sẽ đẩy
các nớc đang phát triển tới nguy cơ ngày càng lệ thuộc, mất dần tính độc lập tự
chủ, từng bớc trở thành bãi thải công nghệ cho các nớc phát triển, làm cho đất nớc
tụt hậu ngày càng xa.
b- Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế để đi đến tự do hoá thơng mại là
chấp nhận t cách thành viên cạnh tranh ngang bằng với các nớc khác, nhng hiện
nay ta vẫn còn tụt hậu khá xa về kinh tế (nhất là trình độ công nghệ và thu nhập
bình quân đầu ngời) so với nhiều nớc trong cáctổ chức kinh tế mà ta đã và sẽ tham
gia. Chẳng hạn , so với các nớc trong AFTA, thu nhập bình quân đầu ngời của nớc
ta cha bằng 1/3 của Inđônêxia và Philippin, bằng 1/9 của Thái lan, 1/5 của Malaixia
và cha bằng 1/100 của Singgapo. Do vậy hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế Việt Nam nhất là các ngành sản xuất , kinh doanh và dịch vụ còn yếu, trong
khi nền kinh tế thế giới có những đối thủ cạnh tranh mạnh hơn ta gấp nhiều lần cả
trong thị trờng nội địa lẫn thế giới. Hiện nay có hơn 50. 000 công ty xuyên quốc
gia với gần 500.000 chi nhánh hoạt động trên khắp thế giới, có tổng doanh thu
hàng năm là 950 tỷ USD. Mặc dù cạnh tranh đang diễn ra quyết liệt, giữa các công
ty lớn đang xảy ra sự sát nhập để trở thành một công ty khổng lồ với số vốn lên tới
hơn 1.000 tỷ USD. Do đó, một sự thoả thuận mới cũng đang diễn ra trong sự phân
chia thị trờng. Độc quyền nhóm đang dần dần thay thế cho độc quyền đơn. Từ đó
mà các nớc có trình độ phát triển cao đang trở thành trung tâm còn các nớc khác
( chủ yếu là các nớc chậm phát triển) thị trở thành ngoại vi của kinh tế thế giới.
Vì vậy việc tự do hoá thơng mại thờng đem lại lợi ích lớn hơn cho các nớc công
nghiệp phát triển vị sản phẩm của họ có chất lợng cao, giá thành hạ, mẫu mã đẹp.
Trong khi đó kỹ thuật và quản lý công nghệ của ta còn kém do đó sức cạnh tranh

thị trờng yếu. Tuy nói là tự do hoá thơng mại song các nớc công nghiệp phát triển
vẫn áp dụng hình thức bảo hộ công khai ( nh áp dụng hạn ngạch )hoặc quá trình
nh tiêu chuẩn Tuy có chuyển giao công nghệ song các nớc công nghiệp phát triển
thờng không chuyển giao những thành tựu mới nhất.
c-Toàn cầu hoá phân phối không đều lợi ích và cơ hội phát triển cho các quốc
gia. Do đó tiềm lực kinh tế áp đảo và có u thế về mọi mặt, các nớc phát triển đang
nắm giữ vị trí chủ đạo trong phân công quốc tế và trong tiến trình toàn cầu hoá. Họ
luôn tìm cách giành lấy những lợi thế kinh tế về phía mình, đẩy những bất lợi về
phía các nớc đang phát triển. Chính điều đó đã tạo ra sự phân phối lợi ích không
đều, làm gia tăng sự phân hoá giầu nghèo giữa các nớc và ngay trong nội bộ mỗi n-
ớc.Thực tế cho thấy, nếu nh toàn cầu hóa đem lại cho các nớc phát triển những
nguồn lợi khổng lồ và tăng nhanh sự giầu có của họ một cách vô độ, thì nó cũng
làm cho nhiều nớc đang phát triển ngày càng tụt hậu và phần lớn dân chúng trên
thế giới nghèo ngày càng nghèo đi. Sự phân cực giầu nghèo trên thế giới ngày càng
gia tăng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Theo đánh giá của UNDP trong báo cáo
về sự phát triển nhân loại 1999 xét trên phạm vi thế giới khoảng cách về GDP tính
theo đầu ngời giữa các nớc giầu nhất và các nghèo nhất đã đến mức báo động. Trớc
đây, những năm 60 tỷ lệ 3:1, thì đâù những năm 90 là 61:1và hiện nay con số đã lên
tới 74:1. Theo báo cáo của UNDP thì năm 1997 chỉ có 15 nớc trên thế giới nâng
cao đợc mức sống , 110 nớc ở trong tình trạng nền kinh tế suy giảm và đình đốn.
Trong khi tốc độ tăng trởng kinh tế bình quân của thế giới là 3%/1năm thì 97/166
nớc có thu nhập đầu ngời năm 1994 thấp hơn năm 1990.Trong khi đó các nớc công
nghiệp phát triển với khoảng 1,2 tỷ ngời chiếm 1/5 dân số thế giới, hiện đang
chiếm 86% GDP toàn cầu, chiếm 4/5 thị trờng xuất khẩu, chiếm 1/3 đầu t trực tiếp
nớc ngoài và 74%số máy điện thoại của toàn thế giới thì 1/5 dân số thế giới thuộc
các nớc nghèo nhất thế giới chỉ chiếm 1% GDP của toàn thế giới mà thôi. Tiền lơng
thực tế của các nớc thế giới thứ ba và Đông Âu thấp hơn 70 lần so với Mỹ , Tây Âu
và Nhật Bản. Trong một công trình với tựa đề Chủ nghĩa cộng sản- một dự án
xuất bản tại Paris tháng 1/1999, Tổng bí th Đảng cộng sản Pháp Robert Hue đãcho
biết trong 50 năm qua tỷ trọng của 20% dân số nghèo nhất trong tổng thu nhập thế

giới đã từ 2,3% tụt xuống 1,4% trong khi đó cổ phần của 20% dân số giầu nhất đã
tăng từ 70% lên 80%. Trong số 4,4 tỷ dân ở các nớc đang và kém phát triển thì gần
3/5 thiếu những điều kiện cơ sở hạ tầng cơ bản, 1/3 kbông biết đến nớc sạch, 1/4
11
không có chỗ ở xứng đáng , 1/5không đợc hởng dịch vụ y tế, 1/5 trẻ em cha qua
lớp 5 và bị suy dinh dỡng. Điều đó cho thấy mức tăng trởng kinh tế không đi đôi
với việc cải thiện đời sống nhân dân , với việc giải quyết vấn đề các xã hội và con
ngời. Thu nhập của 358 triệu phú đô la trên thế giới hàng năm cao hơn thu nhập
của 45% dân c nghèo nhất (tức 2,6 tỷ ngời). Kể cả ngay trong lòng nớc Mỹ, sự
phân hoá ngày càng rõ nét, Mỹ đợc coi là nớc giầu nhất thế giới vậy mà cũng có
hơn 65 triệu ngời nghèo. Nh vậy, thực chất quá trình toàn cầu hoá hiện nay là buộc
thế giới phải chấp nhận quy chế và những quy tắc kinh tế quốc tế do những nớc lớn
nh phơng Tây mà đứng đầu là Mỹ quy định, khiến các nớc đang phát triển bị yếu
thế và bị động, thiệt đơn , thiệt kép trong giao lu buôn bán quốc tế, trong việc lựa
chọn cơ hội phát triển- vì vậy mà đã nghèo lại càng nghèo hơn. Mặt khác, trong
quá trình toàn cầu hoá kinh tế còn có sự gắn kết phục vụ đắc lực của các tổ chức
quốc tế đối với các thế lực tài phiệt. Càng làm cho kẻ giàu đợc giàu lên ở cấp độ
toàn cầu và đồng thời với nó là toàn cầu hoá sự ngheò đói và khốn khó.
d-Toàn cầu hoá kinh tế nhất là trong lĩnh vực tài chính- tiền tệ, mang lại lợi ích
cực lớn cho các nớc lớn, các nhà tài phiệt, đồng thời cũng thúc đẩy các nguồn vốn
đầu cơ tăng mạnh , dẫn đến sự hình thành các bong bóng tài chính nguyên
nhân gây ra các cuộc khủng hoảng tài chính trên quy mô lớn . Hệ thống tài cính
tiền tệ nói riêng , hệ thống kinh tế nói chung đều là các hệ thống phi tuyến . Nên
mọi sự biến động của nó đều có dạng Sóng lan truyền ảnh hởng đến hầu hết mọi
thành tố trong hệ . Khi biên giới giữa các quốc gia còn đợc bảo vệ bằng hàng rào
thuế quan cứng thì làn sóng ấy bị tắt dần. Còn bây giờ khi những biên giới kia
bị quá trình toàn cầu hoá vô hiệu hoá , thì hiệu ứng do làn sóng phi tuyến kia gây
ảnh hởng rất đáng kể .Trong điều kiện toàn cấu hoá phát triển mạnh thì khủng
hoảng cuả một nớc , một khu vực đều có thể tạo ra các cú sốc lan truyền xuyên
biên giới dẫn tới sự chao đảo , thậm chí gây khủng hoảng đến các nớc khác , khu

vực khác và cả toàn cầu. Song nguy hại lớn nhất lại thuộc về các nớc kém phát triển
, bởi những nớc này vốn đã yếu các điều kiện chống đỡ không có đã phụ thuộc lại
càng phụ thuộc hơn. Cuộc khủng hoảng nợ ở Mexico năm 1996 , cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ kinh tế ở các nớc Đông Nam á và Đông á năm 1997-1998
vừa qua là một minh chứng sống cho những tác động này . Tham gia vào toàn cầu
hóa kinh tế tức là chấp nhận những chấn động có thể xảy ra trong hệ thống kinh tế
toàn cầu. Trong trờng hợp đó nếu năng lực quản lý kinh tế vĩ mô kém, hệ thống tài
chính ngân hàng lạc hậu, tệ tham nhũng và quan liêu hoành hành nếu không chủ
động phòng vệ tích cực thì nền kinh tế khó tránh khỏi sự đổ vỡ, khủng hoảng. Đây
là một thách thức lớn đối với các nớc nh Việt Nam.
3-Việt Nam cần phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế:
Việt Nam là một trong những nớc nghèo nhất trên thế giới, sau mấy chục năm
liên tiếp bị chiến tranh tàn phá. Việt Nam bắt đầu bớc vào thời kỳ hực hiện chuyển
đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trờng, trong điều kiện
tự nhiên và xã hội có nhiều thử thách khắc nghiệt. Từ một nền kinh tế tự túc tự cấp,
nghèo nàn lạc hậu, bắt đầu mở cửa, tiếp xúc trực diện với một thị trờng rộng lớn,
nơi có nhiều quan hệ kinh tế cạnh tranh khốc liệt, đang có nhiều quốc gia, tập đoàn
kinh tế t bản giầu mạnh luôn gây sức ép, muốn thao túng cả nền kinh tế tài chính
thế giới.
Mặt khác, toàn cầu hoá và hội hập là sản phẩm tất yếu của lịch sử, là xu thế
khách quan khi lực lợng sản xuất đạt trình độ quốc tế rất cao, khoa học công nghệ
tiến bộ vợt bậc, kinh tế thị trờng trở nên phổ cập. Nói cách khác, không phải giai
cấp này hay thế lực kia có thể tự mình sáng tạo ra toàn cầu hoá theo ý muốn chủ
quan mà chính những điều kiện kinh tế-kỹ thuật nhất định đã quốc tế hoá các quan
hệ kinh tế phát triển đến đỉnh cao là toàn cầu hoá. Là một bộ phận của cộng đồng
quốc tế, nếu Việt Nam không muốn nền kinh tế bị tụt hậu thì phải tham vào toàn
cầu hoá và quốc tế hoá kinh tế. Vì vậy, nhận thức rõ cơ hội và thách thức của toàn
cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế nên ngay từ cuối những năm 1980 Đảng và nhà
nớc ta đã chủ trơng tham gia hội nhập khu vực và thế giới. Đại hội Đảng lần thứ VI
năm 1986 đã khởi xớng công cuộc đổi mới mà một trong những định hớng quan

12
trọng là mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế . Tiếp tục đại hội Đảng VII năm 1992 xác
định đờng lối đối ngoại độc lập tự chủ, thực hiện đa dạng hoá đa phơng hoá quan
hệ quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại . Đại hội Đảng VIII năm 1996 xác
định nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại chủ động tham gia các tổ chức
quốc tế và khu vực , củng cố và nâng cao vị thế nớc ta trên trờng quốc tế. Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nớc trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình,
độc lập và phát triển. Cùng với việc tăng cờng và thúc đẩy các mối quan hệ song
phơng với các nớc, Việt Nam đã tích cực và chủ động tham gia vào các tổ chức và
thể chế hợp tác khu vực và quốc tế. Chủ trơng này đã đợc khẳng định trong các
nghị quyết trung ơng II ( 6/92), nghị quyết đại hội Đảng VIII và nghị quyết 04 của
BCHTW Đảng khoá VIII (12/97) đã đề ra nhiệm vụ giữ vững độc lập tự chủ, đi
đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mở , hội
nhập với khu vực và thế giới và đến đại hội IX năm 2001 khẳng định chủ trơng
phát huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực bên ngoài và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững.
Hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế quốc tế là điều kiện cần thiết không thể
thiếu đợc để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hớng XHCN.
Đồng thời có tự chủ về kinh tế mới có thể chủ động hội nhập quốc tế có hiệu quả,
bảo đảm đợc chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Con đờng để Việt Nam thoát
khỏi nghèo nàn, lạc hậu và nguy cơ tụt hậu về kinh tế là công nghiệp hoá theo mô
hình phát triển rút ngắn trongđiều kiện toàn cầu hoá kinh tế quốc tế . Vì vậy Việt
Nam cần phải chủ động hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế quốc tế để tận dụng các
cơ hội do tiến trình toàn cầu mang lại về vốn, công nghệ, kĩ thuật, kinh nghiệm tổ
chức quản lýMặt khác chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế
nhằm tránh cho nớc ta những mặt trái của toàn cầu hoá mang lại và đa ra những
giải pháp thích hợp cho những khó khăn mà nớc ta gặp phải và tiến tới hội nhập
một cách có hiệu quả nhất.
4-Một số kết quả bớc đầu đã đạt đợc khi tham gia toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế:

Thực hiện các đờng lối, chủ trơng của Đảng, hơn 10 năm qua chúng ta đã có
những bớc đi ban đầu tơng đối bài bản trong quá trình từng bớc hội nhập kinh tế
thế giới.
a- Thành tựu đạt đợc:
- Nớc ta đã khắc phục đợc tình trạng khủng hoảng thị trờng do Liên Xô và hệ
thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã và cuộc khủng hoảng khu vực gây nên, đồng thời
mở rộng thị trờng xuất nhập khẩu. Nếu nh cuối những năm 80, kinh tế Việt Nam
lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, tiếp đến Liên Xô và các nớc XHCN
Đông Âu sụp đổ (1991), trong điều kiện bị bao vây cấm vận ngặt nghèo, tởng nh
khó đứng vững, nhng với quyết tâm đổi mới, mở cửa, từng bớc hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực, chúng ta đã đạt đợc những thành tích ban đầu đáng khích lệ.
Trong quá trình hội nhập, chúng ta đã nhanh chóng mở rộng xuất nhập khẩu, thúc
đẩy sản xuất trong nớc phát triển, tạo thêm việc làm, tăng thu ngân sách. Nếu năm
1990 kim ngạch xuất khẩu mới đạt 2,404 tỷ USD và nhập khẩu 2,752 tỷ USD thì
năm 2001 kim ngạch xuất khẩu đã đạt 15,1 tỷ USD(nếu tính cả dịch vụ thì đạt 17,6
tỷ USD, tăng trung bình trên 20% mỗi năm, có năm tăng 30%; riêng năm 2001 do
ảnh hởng của tình hình kinh tế khó khăn trên thế giới và khu vực , giá cả mặt hàng
xuất khẩu chủ yếu giảm mạnh, nên xuất khẩu chỉ tăng gần 5%. Từ chỗ là nớc chỉ
nhập hàng viện trợ và xuất hàng trả nợ mỗi năm vài triệu USD, đến nay chúng ta đã
có nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD/năm nh dầu thô, hàng dệt may, giày
dép. Một số nông sản Việt Nam đã và đang vơn lên thứ hạng cao ở thị trờng thơng
mại thế giới : gạo đứng thứ hai, hạt điều hạt cà phê đứng 3 và thứ 4. Thuỷ sản chế
biến và 200 mặt hàng tiêu dùng Việt Nam xuất khẩu đang tiếp tục tăng, chiếm lĩnh
thị trờng quốc tế, kể cả các thị trờng tiêu thụ khó tính nh Nhật Bản, Tây Âu, Bắc
Mỹ.
-Thu hút một nguồn vốn đầu t trực tiếp của nớc ngoài (FDI), bổ sung cho
nguồn vốn trong nớc, kết hợp nội lực với ngoại lực, tạo đợc những thành tựu kinh tế
13
to lớn quan trọng. Đến nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với
166 quốc gia trên thế giới, ký kết các hiệp định thơng mại với hơn 60 nớc . Hơn 70

nớc và vùng lãnh thổ đầu t trực tiếp vào Việt Nam, gần 3000 dự án đợc cấp giấy
phép với hơn 40 tỷ USD. Số vốn thực hiện gần 20 tỷ USD chiếm hơn 1/3 tổng vốn
đầu toàn xã hội; tạo đợc 34,7% giá trị sản lợng công nghiệp và 13% trong GDP, 1/4
nguồn thu ngân sách. Việc gia nhập hiệp hội các nớc Đông Nam á (ASEan)
năm 1995, tham gia các hiệp định về khu vực đầu t, khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA), các chơng trình u đãi thuế quan (CEPT), hành động chung
(CAPT) là những bớc hội nhập thực sự vào hoạt động kinh tế chính trị, vào văn hoá
xã hội khu vực quan trọng nhất. Trong khi đó Việt Nam tiếp tục mở rộng quan hệ
hợp tác với các nớc ở khu vực rộng lớn hơn nh Trung Quốc, ấn Độ, Đông Bắc á,
Châu Phi, Châu Mỹ và nhiều khu vực khác. Từ tháng 11 năm 1998 Việt nam đã trở
thành thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dơng (APEC),
chúng ta đã và đang xây dựng, thực hiện các chơng trình hành động quốc gia (IAP),
hành động chung(CAP), thúc đẩy tự do hoá các dịch vụ thơng mại, dịch vụ giữa các
nớc trong khối(với mục tiêu Việt Nam hoàn toàn mở cửa trị trờng thơng mại và đầu
t vào năm 2002). Tháng 12-1987, chúng ta đã ban hành luật đầu t trực tiếp nớc
ngoài. Nguồn đầu t trực tiếp nớc ngoài giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế
nớc ta :gần 30%vốn đầu t xã hội , 35% giá trị sản xuất công nghiệp , 20% xuất
khẩu , giải quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn
lao động gián tiếp.
-Tranh thủ đợc nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA)ngày càng lớn, đồng
thời giảm đáng kể nợ nớc ngoài. Sau khi nối lại quan hệ tín dụng với IMF và WB từ
năm 1993 Việt Nam đã liên tiếp đợc các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức viện
trợ phát triển (ODA) của liên hợp quốc và nhiều tổ chức khác, thờng xuyên viện trợ
cho chúng ta mỗi năm khoảng trên dới 1 triệu USD để thanh toán các khoản tín
dụng ngắn hạn, đầu t xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết những vấn đề bức xúc, khó
khăn về đời sống xã hội tạo những điều kiện cần thiết cho nhiều ngành kinh tế
phát triển. Từ năm 1993 ,hằng năm đều có hội nghị các nhà tài trợ cho nớc ta gồm
một số nớc và một số chế định tài chính- tiền tệ quốc tế. Cho đến nay các nhà tài
trợ đã cam kết dành cho nớc ta gần 20 tỷ USD, chủ yếu là cho vay u đãi với lãi suất
từ 0,75% đến 2,5%tuỳ theo mỗi đối tác; một phần viện trợ là không hoàn lại. Việc

khai thông quan hệ với IMF và WB cũng tạo điều kiện cho ta giải quyết một bớc
quan trọng trong vấn đề nợ nớc ngoài; đã giảm đợc 70% nợ các nớc từ năm 1993 về
trớc, góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách, tập trung nguồn lực cho các ch-
ơng trình phát triển kinh tế- xã hội, mở ra khả năng vay đợc vốn qua các kênh khác.
- Tiếp thu khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo một đội
ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động, sáng tạo. Hội nhập kinh tế
quốc tế đã tạo cơ hội để nớc ta tiếp cận với những thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhiều công nghệ
hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến đợc sử dụng đã tạo nên bớc phát triển mới
trong các nghành sản xuất. Đồng thời, thông qua các dự án liên doanh hợp tác với
nớc ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận đợc nhiều kinh nghiệm quản lý
hiện đại và khoa học.
-Từng bớc đa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trờng
cạnh tranh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại, nhiều
doanh nghiệp đã nỗ lực đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và
chất lợng, không ngừng vơn lên trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển; khả năng
cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp đã đợc nâng lên; đã có hàng trăm doanh nghiệp
đạt tiêu chuẩn ISO-9000. Một t duy mới, một nếp làm ăn mới, lấy hiệu quả sản
xuất và kinh doanh làm thớc đo, một đội ngũ cán các nhà doanh nghiệp mới năng
động, sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành.
- Đời sống nhân dân từng bớc đợc cải thiện, đói nghèo giảm: Việc chủ động hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế không những tác động vào tăng trởng kinh tế mà
còn góp phần cải thiện đời sống nhân dân, giảm đói nghèo. Tuy GDP bình quân n-
ớc ta còn thấp và vẫn thuộc loại nớc nghèo nhất trên thế gới, nhng thứ hạng HDI lại
14
cao hơn thứ hạng GDP nhiều. Điều đó chứng tỏ đời sống nhân dân đợc cải thiện
nhanh hơn mức tăng trởng GDP và đói nghèo giảm. Theo niên giám thống kê năm
2001 thì thu nhập bình quân đầu ngời một tháng theo gia thực tế tính chung cả nớc
đã tăng từ 168.100 đồng (năm 1994) lên 295.000 đồng (năm 1999) trong đó bình

quân thu nhập của những ngời thuộc nhóm 20% số hộ có thu nhập thấp nhất tơng
ứng từ 63000 đòng lên 97.000 đòng và thuộc nhóm 20% số hộ thu nhập cao nhất từ
408.000 đồng lên 863.300 đồng. Chênh lệch về bình quân đầu ngời giữa hai nhóm
trên tăng từ 6,5 lần (năm 1994) lên 8,9 lần (năm 1999). Nếu nh trớc những năm 90,
tốc độ tăng GDP bình quân nớc ta chỉ đạt khoảng 2-3%/năm thì ở thập niên cuối
thế kỷ XX, mức tăng bình quân GDP đạt 6-8%/năm. Sau 10 năm, tổng sản phẩm xã
hội (GDP) tăng thêm 18 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu ngời tăng gấp hơn 2 lần.
Nhiều mặt hoạt động sản xuất và đời sống xã hội có những bớc phát triển tơng đối
nhanh. Trong kinh tế thị trờng, dới tác động của quy luật giá trị, việc phân hoá giầu
nghèo là tất yếu, nhng những kết quả đã đạt đợc vẫn chứng tỏ mục tiêu phát triển
kinh tế thị trờng ở nớc ta theo định hớng xã hội chủ nghĩa, tức là tăng trởng gắn
liền với từng bớc cải thiện đời sống nhân dân, nh nớc dâng thuyền lên, làm giầu đi
đôi với xoá đói giảm nghèo đã đợc thực hiện tốt.
b-Tuy nhiên, qua trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá đã bộc lộ nhiều
yếu kém:
- Tuy chủ trơng hội nhập kinh tế quốc tế đã đợc khẳng định trong nhiều nghị
quyết của Đảng và trên thực tế đã đợc thực hiện từng bớc, nhng nhận thức hội nhập
cha đạt đợc sự nhất trí cao, ảnh hởng tới quá trình đề xuất chính sách và triển khai
thực hiện.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đang phát
triển mang lại cả thời cơ lẫn thách thức lớn. Trong khi đó, nền kinh tế nớc ta còn
yếu, t tởng bảo hộ còn nặng nề, việc chuyển dịch cơ cấu nkinh tế, đổi mới cơ chế
quản lý và cải tiến công nghệ diễn ra chậm chạp. Nếu không kịp thời khắc phục thì
sẽ bị thua thiệt, thậm chí còn tụt hậu xa hơn.
+Thiếu sót đáng kể là công tác triển khai chậm, chất lợng thấp. Cho đến nay, ở
nớc ta còn cha hiểu thật sâu, cha nắm vững toàn bộ định chế các của tổ chức kinh tế
khu vựcvà toàn cầu, nhất là của tổ chức thơng mại thế giới (WTO) và nhiều văn
kiện pháp lý quốc tế khác mà nớc ta cần vận dụng khi gia nhập tổ chức này.
+Công tác hội nhập quốc tế mới tập trung triển khai chủ yếu ở các cơ quan
trung ng; sự tham gia của các nghành các cấp, tuy có đợc đặt ra, nhng còn yếu kém

và cha đồng bộ, do đó cha tạo đợc sức mạnh cần thiết trong quá trình hội nhập quốc
tế.
-Cha hình thành đợc một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế và lộ
trình cha hợp lý cho việc thực hiện cam kết:Thời gian qua, chúng ta vừa tiến hành
hội nhập, vừa triển khai nghiên cứu những nội dung cam kết để xây dựng chủ trơng
phơng hớng hành động nên thờng bị động đối phó với nhiều khuyến nghị do các
đối tác nớc ngoài nêu ra; không có đủ cơ sở để hớng dẫn các doanh nghiệp xây
dựng chơng trình cải tiến quản lý nâng cao khả năng cạnh tranh, chủ động vơn ra
thị trờng khu vực và thế giới.
- Doanh nghiệp của nớc ta còn yếu cả về sản xuất quản lý và khả năng cạnh
tranh. Donh nghiệp nớc ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém về cả hai mặt quản lý và
công nghệ, lại hình thành và hoạt động lâu trong cơ chế bao cấp. Chúng ta cha đủ
cơ chế, biện pháp có hiệu lực nhằm kích thích các doanh nghiệp gắn bó sự tồn tại
và phát triển của mình với việc cải tiến sản xuất kinh doanh, với khả năng cạnh
tranh trên thơng trờng quốc tế.
-ở giai đoạn đầu tốc độ tăng trởng và hội nhập kinh tế của Việt Nam có nhiều
tiến bộ nhng trên thực tế vẫn cha cho phép chúng ta thật sự lạc quan. Bởi vì, so với
nhiều nớc trong khu vực, giá trị kim nghạch xuất khẩu tính bằng USD bình quân
đầu ngời ở nớc ta vẫn còn thấp. Năm 1997 Việt Nam chỉ đạt 149USD/ngời trong
khi đó Inđônêxia là 316, Philipin 545, Thái Lan: 1087, Malaixia:4222, Xingapo:
52.484. Tài liệu về chỉ số phát triển của Ngân hàng thế giới (WB) năm 1999 so với
năm 1991 chỉ tăng 1,6và 1,44 lần trong khi đó ở Thái Lan:1,85 và 1,73;
15
Philipin:1,91 và 1,62; Inđônêxia: 1,99 và 1,80; Malaixia:2,14 và 1,18 . Trong tổng
lợng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn còn là ở dạng nguyên liệu thô,
trình độ kỹ thuật công nghệ chế biến thấp, mẫu mã, chủng loại sản phẩm cha phong
phú nên giá trị thấp, sức cạnh tranh yếu. Phần lớn ta mới chỉ tăng số lợng để tăng
kim nghạch xuất khẩu. Vì thế nhiều mặt hàng xuất khẩu, khối lợng lớn mà hiệu quả
kinh tế thấp. Kể cả các mặt hàng xuất khẩu truyền thống nh gạo, dầu thô, cao su,
nông lâm thuỷ sản. Khoảng cách về trình độ phát triển của chúng ta so với nhiều n-

ớc trong khu vực không chỉ chậm lại mà còn có những biểu hiện của nguy cơ tụt
hậu. Sau khi khắc phục khủng hoảng động thái phát triển GDP 2 năm ( 1998-1999)
của nhiều nớc có tốc độ phát triển rất nhanh: Phillipin từ 0,5 % lên 3,1% (tăng
3,2%), Malaixia từ 7,5% lên 4,7% (tăng 12%), Inđônêxia từ 13,2% lên 0,1%
(tăng 13,3%)Trong khi đó tốc độ tăng GDP của Việt Nam liên tục giảm từ 9,4%
năm 1995 xuống 9,34% (năm 1996), 8,5% (1997), 5,8% (1998) và 4,8% (1999).
Đó là những dấu hiệu về sự kém cỏi cần sớm khắc phục, nếu không sẽ dễ bị tụt hậu
trong quá trình hội nhập. Bởi vì các lợi thế về tài nguyên và lao động rẻ đang bị
giảm dần, tiến bộ kỹ thuật và công nghệ cao sẽ là những u tiên phát triển ở những
giai đoạn phát triển tiếp theo.
-Đội ngũ cán bộ yếu. Công tác tổ tức chỉ đạo cha thích hợp:
Nhợc điểm lớn nhất là trình độ non yếu của đội ngũ cán bộ, không chỉ về trình độ
hiểu biết mà có cả trờng hợp cả về phẩm chất đạo đức. Đây là nguyên nhân sâu xa
của những khuyết điểm thiếu sót trong hợp tác kinh tế với nớc ngoài. Cán bộ làm
công tác hợp tác quốc tế, nhất là cán bộ đàm phán quốc tế hiểu biết không đầy đủ,
ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Cán bộ doanh nghiệp cũng ít hiểu biết về luật
pháp quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh. Đội ngũ công nhân lành nghề cha đợc đào
tạo đúng mức.
III-Một số giải pháp cơ bản:
A-Nguyên tắc chỉ đạo:
Để đảm bảo cho hội nhập kinh tế quốc tế thắng lợi, thực sự đáp ứng yêu cầu
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hớng xã hội chủ nghĩa cần phải quán
triệt các nguyên tắc và phơng châm sau:
1-Nguyên tắc cơ bản và bao trùm là chủ động hội nhập trên cơ sở bảo đảm
giữ vững độc lập, tự chủ và định hớng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Sự chủ động cần đợc thể hiện trong việc
lựa chọn các tổ chức tham gia, các đối tác quan hệ và thời điểm tham gia. Tính chủ
động còn đợc thể hiện qua việc chủ động xây dựng lộ trình hợp lý trong khuôn khổ
qui định chung, chủ động điều chỉnh pháp luật, chính sách cho phù hợp, chủ động
sản xuất và điều hành kinh tế trong nớc nhằm nâng cao không ngừng khả năng

cạnh tranh không chỉ trong thị trờng nội địa mà cả trên thị trờng quốc tế.
2-Hội nhập kinh tế là sự nghiệp của toàn dân; trong đó quá trình hội nhập
cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã
hội, trong đó kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ đạo. Phát huy cao độ nội lực, đồng
thời tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, kết hợp chặt chẽ nội lực và ngoại lực
thành nguồn lực tông hợp để phát triển đất nớc nói chung và để thực hiện hội nhập
kinh tế quốc tế nói riêng.
3-Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo
và linh hoạt trong việ xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tợng, vấn đề tr-
ờng hợp cụ thể; đồng thời, vừa phải đề phòng t tởng trì trệ thụ động, vừa phải chống
t tởng giản đơn nôn nóng.
4-Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nớc ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ
trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nớc, vừa đáp ứng các quy
định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nớc ta tham gia; tranh thủ những u đãi
dành cho các nớc đang phát triển và các nớc có nền kinh tế chuyển đổi tù kinh tế
tập trung bao cấp sang kinh tế thị trờng.
5-Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững
ổn định kinh tế chính trị, an ninh, quốc phòng; thông qua hội nhập để tăng cờng
16
sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền vàan ninh đất nớc, cảnh
giác với những mu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ diễn biến hoà bình
đối với nớc ta. Luôn luôn đề cao cảnh giác, không mơ hồ trớc âm mu đen tối của
các thế lực thù địch lợi dụng quan hệ kinh tế thơng mại để xâm nhập, thực hiện
diễn biến hoà bình, phá hoại,lật đổ chế độ ta. Thực tiễn cho thấy, điều cơ bản có
tính quyết định để đảm bảo an ninh quốc gia là đặc biệt chăm lo xây dựng củng cố
niềm tin, sự ủng hộ và gắn bó của nhân dân với chế độ , với Đảng và nhà nớc, theo
nh tinh thần của nghị quyết tại đại hội Đảng XI là Chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc
tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hớng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc,

giữ gìn bản sắc vân hoá dân tộc, bảo vệ môi trờng
B-Một số giải pháp cơ bản khi tham gia toàn cầu hoá và quốc tế
hoá:
Từ nghiên cứu toàn cầu hoá kinh tế, cần khẳng định lập trờng dứt khoát của
mọi nền kinh tế quốc gia dân tộc là chuyển sang nền kinh tế thị trờng mở cửa hội
nhập tích cực vào các nền kinh tế khu vực và thế giới. Là một nớc đi sau, có xuất
phát điểm thấp, Việt Nam cần phải chủ động và kiên định với mô hình kinh tế thị
trờng mở cửa và hội nhập kinh tếd quốc tế dựa vào tăng trởng xuất khẩu các sản
phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh của
mình về thị trờng, về nguồn nguyên liệu và lao động rẻ. Đây là con đờng hợp lý để
phát huy hiệu quả nội lực và ngoại lực. Trong chính sách điều chỉnh cơ cấu sản
xuất và cơ cấu đầu t cần phát triển mạnh các nghành công nghiệp chế biến và dịch
vụ để nhanh chóng đợc thụ hởng u đãi từ các tiến trình tự do hoá khu vực và quốc
tế. Theođó, cần thực hiện nghiêm túc cam kết quốc tế và thúc đẩy nhanh chóng các
qua trình cải cách bên trong nhằm tơng thích với tiến trình tự do hoá. Trớc mắt cần
đẩy nhanh tiến trình AFTA và bớc tiếp theo để gia nhập WTO. Đơng nhiên, để thúc
đẩy tiến trình này, cần chú trọng xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng làm điều
kiện để khai thông và tiếp nhận các dòng vốn, thơng mại- dịch vụ và công nghệ
quốc tế.
Nớc ta trải qua nhiều thử thách gay go nhất từ cuộc chiến tranh chống giặc
ngoại xâm đến cuộc khủng hoảng kinh tế cuối những năm 80 vậy mà chúng ta đều
khắc phục đợc và có những thành tựu vợt bậc trong hơn mời năm thực hiện công
cuộc đổi mới đất nớc. Đó là tiền đề rất quan trọng để ta có thể hoàn toàn hy vọng
và quyết tâm vơn lên hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội VII của Đảng chỉ rõ Đẩy
nhanh quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới . Hội nghị lần thứ t BCH
Trung ơng khoá VIII nhấn mạnh nhiệm vụ Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần
thiết nh cán bộ, luật pháp và nhất là xác định những sản phẩm mà Việt Nam có
thể cạnh tranh để tham gia vào thị trờng khu vực và thế giới. Toàn cầu hoá đã trở
thành trào lu lịch sử không thể đảo ngợc, nhận thức đúng đắn xu hớng lịch sử của
trào lu này ,hoạch định chiến lợc và đối sách ngoại giao thích hợp là vấn đề nan

giải không thể lẩn tránh đợc của đại đa số các nớc đang phát triển. Tuân thủ một
cách bị động hay bác bỏ hoàn toàn đều làm cho chúng ta mất đi cơ hội lịch sử để tự
phát triển trong quá trình toàn cầu hoá. Vì vậy, tìm kiếm đối sách để hội nhập là sự
lựa chọn khôn ngoan nhất. Tuy nhiên, trong mối liên hệ lịch sử về bối cảnh kinh tế
chính trị không giống nhau. Mỗi quốc gia sẽ có quyết sách riêng cho mình để có
thể hội nhập một cách có hiệu quả nhất.
1 Xây dựng chiến lợc hội nhập kinh tế, xác định bớc đi và kế hoạch triển
khai thực hiện cụ thể, rõ ràng. Nớc ta nhập cuộc đua tranh kinh tế khi trình độ phát
triển kinh tế và công nghệ còn thấp. Vì vậy, phải tiến hành hội nhập từng bớc, dần
dần mở cửa thị trờng với lộ trình hợp lý. Lộ thình đó đợc thoả thuận và xác định
qua đàm phán song phơng và đa phơng trên cơ sở tận dụng u đãi mà WTO dành
cho các nớc đang phát triển và kém phát triển.
Một lộ trình quá nóng về mức độ và thời hạn mở cửa thị trờng, vợt quá khả
năng chịu đựng của nền kinh tế, sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp,
vợt khỏi tầm kiểm soát của nhà nớc kéo theo những hậu quả khó lờng. Vì vậy, điều
rất quan trọng là cần xem xét, tính toán nghiêm túc điều kiện khả năng cụ thể của
17
từng ngành hàng, từng loại doanh nghiệp để định ra lộ trình hội nhập hợp lý.
Song đó điều đó không có nghĩa là lộ trình càng dài càng tốt, bởi vì lộ trình càng
dài thì càng kéo dài tình trạng yếu kém của nền kinh tế. Xác định lộ trình hội nhập
quốc tế không chỉ là xác định thời gian mở cửa trhị trờng nớc ta cho hàng hoá, dịch
vụ và đầu t nớc ngoài thâm nhập, mà còn là xác định thời điểm nền kinh tế nớc ta
phải vơn lên, phát huy lợi thế so sánh, chiếm lĩnh thị phần ngày càng rộng lớn trên
thơng trờng quốc tế, thâm nhập ngày càng nhiều vào thi trờng nớc ngoài không chỉ
về thơng mại mà cả về đầu t và dịch vụ, nâng cao vị trí, vai trò của nền kinh tế nớc
ta trong khu vực và trên thế giới, góp phần quan trọng xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ. Để xem xét, xác định lộ trình mở cửa đối với từng lĩnh vực, từng ngành
hàng, cần lấy chuẩn mực mở cửa thị trờng trong AFTA mà ta đã cam kết và các
nguyên tắc cơ bản của WTO kết hợp với khả năng thực tế của nền kinh tế nớc ta.
Trong lĩnh vực dịch vụ, một lĩnh vực rất nhạy cảm, lộ trình mở cửa cần dựa vào việc

vận dụng khôn khéo các định chế của WTO.
2-Con đờng để Việt Nam thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và nguy cơ tụt hậu
trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và bớc chuyển sang nền kinh tế tri thức là công
nghiệp hoá theo mô hình phát triển rút ngắn. Việt Nam phải tận dụng các cơ hội do
các tiến trình toàn cầu hóa mang lại về vốn, công nghệ, kỹ thuât, kinh nghiệm tổ
chức quản lýtrên cơ sở phát huy tối đa các lợi thế so sánh của mình để đẩy mạnh
phát triển các ngành công nghiệp chế biến; đi từ những ngành sử dụng nhiều lao
động sang những ngành sử dụng nhiều vốn và đặc biệt, tranh thủ các điều kiện ứng
dụng công nghệ cao để dần phát triển những ngành sử dụng hàm lợng công nghệ tri
thức cao. Điều đó có nghĩa là Việt Nam cần phải cụ thể hoá hơn nữa chiến lợc tổng
thể về xuất khẩu, hớng mọi nguồn lực (kể cả FDI) vào các ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo hớng về xuất khẩu, phục vụ nhu cầu nội địa thời gian vừa qua. Những
ngành có khả năng cạnh tranh nh dệt may, da giày, chế biến nông-lâm-hải sản, thủ
công mỹ nghệ và điện tử- tin học phải thực sự đợc u tiên trong định hớng về công
nghiệp hoá. Kinh nghiệm quốc tế cũng chỉ ra rằng trong vòng 10 năm, tức là đến
năm 2010,Việt Nam cần và có thể phải đa tỷ trọng các ngành công nghiệp chế
biến , chế tạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu lên khoảng 85-90% thay vì 43% nh
năm 2000.
3-Xây dựng chiến lợc phát triển, nâng cao sức mạnh của nền kinh tế. Đánh
giá lại sức cạnh tranh và tiềm lực của nền kinh tế đất nớc trong mọi lĩnh vực và
ngành hàng để có chơng trình điều chỉnh lại cơ cấu nang cao hiệu quả và năng lực
cạnh tranh, từ đó xây dựng lộ trình hội nhập và cam kết quốc tế. Tập trung đầu t
xây dựng các ngành mũi nhọn hớng về xuất khẩu để vơn lên cạnh tranh, xác định
vị thế ổn định trên thị trờng quốc tế và khu vực. Mục tiêu chính của biện pháp này
là tăng cờng sức mạnh nền kinh tế. Do vậy, nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhng
cũng rất khó khăn phức tạp. Khẩn trơng nâng cao sức cạnh tranh của từng sản
phẩm, từng doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Đây là yếu tố quyết định để chủ
động hội nhập thắng lợi. Sức cạnh tranh của sản phẩm phải đợc thể hiện ở chất lợng
sản phẩm, giá cả, khả năng cạnh tranh. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp phải đợc
thể hiện ở chất lợng sản phẩm và dịch vụ tiêu thụ đợc trên thị trờng trong nớc và n-

ớc ngoài. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp còn phải thể hiện ở sản xuất kinh doanh
có hiệu quả , có lợi nhuận .Sức cạnh tranh quốc gia dựa vào sức cạnh tranh cuả
hàng hoá, dịch vụ, của doanh nghiệp là cơ bản; .đồng thời còn phải tạo điều kiện ,
môi trờng kinh tế vĩ mô, môi trờng xã hội ,chính trị ổn định, thuận lợi cho đầu t và
sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong nớc và nớc ngoài ở Việt Nam. ở
thời điểm hiện nay, trớc cạnh tranh của nớc ta trên cả ba phơng diện: sản phẩm
doanh nghiệp, quốc gia, nhìn chung còn thấp. Đây chính là một thách thức rất lớn
mà ta phải phấn đấu quyết liệt để vơn lên. Thực tế vừa qua cho thấy, doanh nghiệp
nào chủ động chấp nhận cạnh tranh, kể cả cạnh tranh quốc tế thì sức vơn lên rất
mạnh, chiếm lĩnh đợc thị trờng và mở rộng thị phần. Hiện nay, đã có hàng trăm
doanh nghiệp nh vậy. Ngợc lại, doanh nghiệp nào ỷ lại sự bao cấp bảo hộ của Nhà
nớc thì sức vơn lên rất kém , kéo dài tình trạng kinh doanh kém hiệu quả. Lợi ích
quốc gia và quốc tế phải hài hoà là động lực cho sự phát triển của mọi nền kinh tế
dân tộc.Nhng lợi ích đó chỉ có thể nhận đợc thông qua cạnh tranh. Trong điều kiện
18
cạnh tranh quốc tế còn thấp (cả về giá cả, công nghệ, chất lợng, mẫu mã, kiểu
dáng). Việt Nam cần phải có chính sách phát triển các doanh nghiệp có khả năng
cạnh tranh quốc tế. Đó là những doanh nghiệp bớc vào đợc những thị trờng ngách,
cung ứng những phần nhỏ của những những thị trờng quốc tế rộng lớn, nhiều đối
thủ cạnh tranh. Nghĩa là cần xây dựngchiến lợc cạnh tranh tích cực đi liền với
chính sách cơ cấu. Thực hiện nguyên tắc bảo hộ trong thị trờng mở, Việt Nam chỉ
nên bảo hộ đối với những ngành, những doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh thực tế
và tiềm ẩn. Sự bảo hộ luôn mang tính chất tạm thời, có chọn lọc, có địa chỉ tuỳ theo
lộ trình hội nhập và có khả năng thích ứng của Việt Nam với thị trờng quốc tế. Để
nâng cao sức cạnh tranh trên trờng quốc tế chúng ta cần tập trung một số công
việc :
Xác định rõ cơ cấu kinh tế đất nớc: nghành nào là mũi nhọn, sẽ đợc tập trung
vốn đầu t xây dựng và ở mức độ bao nhiêu.
Kết hợp chặt chẽ những yêu cầu và khả năng của nớc ta với yêu cầu thị trờng
thế giới, với sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là kinh tế tri thức đang

tong bớc hình thành: có kế hoạch cụ thể đầu t xây dựng các ngành mũi nhọn chủ
công và tăng cờng sức cạnh tranh của ngành hàng hiện có cho phù hợp;
Khai thác mọi khả năng bên trong của nền kinh tế; kiên trì thực hiện nhất
quán, lâu dài cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nớc giữ vai trò
chủ đạo; có chính sách huy động khuyến khích sự tham gia, đầu t rộng rãi của tất
cả các thành phần kinh tế; Nhà nớc định hớng và tạo môi trờng pháp lý thuận lợi,
không bao cấp;
Chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ kinh tế đối ngoại; u tiên đầu t vào
các ngành xuất khẩu dịch vụ; tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia hội
nhập quốc tế phù hợp với điều kiện và khả năng của mình.
Phát huy cao độ lợi thế so sánh, lấy yêu cầu chất lợng và gia thành làm thớc
đo; tiêu chí quan trọng là hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh, vơn ra chiếm lĩnh
thị trờng, trớc hết của những ngành, những sản phẩm trọng yếu:
a-Trong lĩnh vực nông nghiệp, do nhiều nguyên nhân kinh tế xã hội thờng đ-
ợc các nớc bảo hộ lâu dài, trở thành những khu vực tranh chấp thờng xuyên giữa
nhiều quốc gia. Đối với nớc ta, cần thấy rõ lợi thế so sánh của nền nông nghiệp
nhiệt đới để cạnh tranh thắng lợi trên thị trờng nội địa; đồng thời mở rộng thị trờng
xuất khẩu trên cơ sở nâng cao chất lợng sản phẩm, chấp nhận giá thị trờng quốc tế.
Muốn vậy, cần nhanh chóng áp dụng các tiến bộ sinh học, hiện đại hoá công nghệ
chế biến, nâng cao chất lợng vệ sinh thực phẩm, đóng gói, bao bìChuyển đổi cơ
cấu ngành kinh tế theo hớng: chú trọng phát triển nông nghiệp và nông thôn theo h-
ớng công nghiệp hoá hiện đại hoá phù hợp với yêu cầu thị trờng, giảm thiểu tỷ
trọng nông nghiệp.
b-Trong lĩnh vực công nghiệp , bối cảnh mới đòi hỏi khắc phục quan niệm cũ
về mô hình kinh tế tự cấp tự túc dẫn đến hiệu quả kém, sức cạnh tranh yếu để lại
gánh nặng cho nền kinh tế. Cần phát triển mạnh các ngành công nghiệp có lợi thế
cạnh tranh, xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng, phát triển mạnh
các ngành công nghệ cao, các ngành xuất khẩu, chú trọng phát triển công nghiệp
vừa và nhỏ, phát triển các ngành kết cấu hạ tầng. Chú trọng phát triển ba vùng kinh
tế trọng điểm ở miềm Bắc, Trung và Nam Bộ, đồng thời phát triển các vùng kinh tế

trung du , miền núi và duyên hảI khác.Trong bố trí đầu t xây dựng cần chọn thứ tự -
u tiên phù hợp với điều kiện của từng thời kỳ. ở giai đoạn đầu, khi kinh tế kém
phát triển, lao động xã hội d thừa nhiều, khả năng vốn có hạn lại phải dành thoả
đáng cho phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn, bên cạnh một số công trình
quy mô lớn chọn lọc, có hiệu qủa, phải hết sức coi trọng những ngành và những
doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là là doanh nghiệp vừa và nhỏ, đợc
trang bị hiện đại, có công nghệ tiên tiến để tạo ra sản phẩm chất lợng cao, tiêu thụ
đợc và thu hồi đợc vốn và trả đợc nợ.
c- Đối với khu vực dịch vụ, cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng đặc biệt
của lĩnh vực này trong điều kiện mới để từ đó vừa ra sức xây dựng bằng thực lực
của quốc gia, vừa biết tranh thủ sự hợp tác có lợi của thế giới bên ngoài ; chấp nhận
cạnh tranh, kể cả cạnh tranh trong nớc lẫn cạnh tranh quốc tế, coi đây nh một động
19
lực thúc đẩy sự tiến bộ của các ngành dịch vụ. Do tính chất phức tạp nhạy cảm của
khu vực dịch vụ, cần xây dựng chơng trình hội nhập quốc tế phù hợp với đặc thù
của từng ngành dịch vụ và điều kiện, khả năng cụ thể của nớc ta.
Xây dựng chiến lợc phát triển mở rộng thị trờng trong và ngoài nớc gắn chặt với
quá trình xây dựng chiến lợc nâng cao sức mạnh của nền kinh tế. Ngày nay, khi
khoa học- công nghệ không ngừng phát triển, kinh tế thế giới có nhiều đột biến, thị
trờng luôn luôn biến động thì tính cạnh tranh và lợi thế so sánh của các nền kinh tế
đều rất linh hoạt , thờng xuyên thay đổi. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải kịp thời
điều chỉnh bộ phận này hay bộ phận khác của chiến lợc phát triển kinh tế nhằm hợp
lý hoá hơn nữa cơ cấu kinh tế, tăng cờng năng lực cạnh tranh, mở rộng thị tr-
ờng;Trên cơ sở sức mạnh của nền kinh tế, sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ
ngày càng đợc nâng lên , xây dựng một lộ trình thực hiện cam kết quốc tế về mở
rộng thị trờng, giúp các doanh nghiệp Việt Nam vơn nhanh ra thị trờng khu vực và
quốc tế.
4- Đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính tiền tệ: Cùng với sự
cải cách về cơ cấu kinh tế, cải cách về tài chính tiền tệ phải đợc đặc biệt quan tâm
vì hệ thống tài chính quốc tế đang vận hành theo một cấu trúc mới, tinh vi, phức

tạp, tốc độ lu chuyển cao. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế nớc ta,
đồng thời phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế, cần tích cực xây dựng khung thể
chế kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa bao gồm thị trờng hàng hoá,
vốn, tiền tệ, lao động, công nghệ, bất động sản Đặc biệt cần khẩn trơng xây dựng
các chế định để hình thành thị trờng vốn. Hoàn thiện chính sách tiền tệ, hớng các
chính sách tín dụng, lãi suất, tỷ giá theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà n-
ớc. Thực hiện nguyên tắc công bằng, hiệu quả trong chính sách phân phối, bảo đảm
sự phát triển an toàn lành mạnh của thị trờng tài chính tiền tệ. Tiếp tục cải cách hệ
thống thuế phù hợp với tình hình đất nớc và cam kết quốc tế. Tiếp tục cơ cấu lại
ngân sách nhà nớc, tăng dần tích luỹ cho đầu t phát triển, tinh giảm biên chế bộ
máy, cải cách thủ tục hành chính, thúc đẩy xã hội hoá khu vực sự nghiệp, đảm bảo
cho ngời nghèo đợc hởng các phúc lợi cơ bản. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân
cấp quản lý tài chính và ngan sách của nhà nớc, bảo đảm tính thống nhất của hệ
thống tài chính quốc gia và vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ơng đồng thời phát
huy tính chủ động sáng tạo của địa phơng. Thực hiện chế độ tự chủ và tự chịu trách
nhiệm về tài chính của doanh nghiệp, tách biệt tài chính nhà nớc và tài chính doanh
nghiệp, thực hiện công khai hoá tài chính. Thực hiện chính sách tiền tệ bảo đảm ổn
định kinh tế vĩ mô. Sử dụng linh hoạt có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ
nh tỷ gia, lãi suất, nghiệp vụ thị trờng mở theo các nguyên tắc của thị trờng. Giải
quyết nợ tồn đọng. Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng.Sắp xếp lại các ngân hàng cổ
phần, xử lý các ngân hàng yếu kém.
5-Cần phải sử dụng nguồn vốn trong và ngoài nớc đúng mức và có hiệu quả
nhất. Chú trọng đầu t gián tiếp, chủ yếu là đầu t t nhân đã trở nên rất phổ biến. Cơ
cấu hoạt động vay, cho vay, trả nợ, kiểm soát dòng vốn phải linh hoạt tránh rơi vào
tình trạng dễ tổn thơng do sự bất cập. Mặt khác, khi coi FDI là một bộ phận của
tổng đầu t xã hội, phải đánh giá cho chính xác vốn tự có của các TNC và vốn đi vay
vì nế không, mức độ rủi ro từ vốn vay của các TNC bao giờ cũng đợc phân xẻ trách
nhiệm theo tỷ lệ liên doanh giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các TNC. Cần đặc
biệt chú trọng thu hút FDI từ các TNC có nguồn gốc là các nớc phát triển nhất, cụ
thể là Mỹ, Nhật, EU để đảm bảo sự tiếp nhận về vốn lơng thực và công nghệ

nguồn. Ngoài ra, cần chú trọng đẩy mạnh cổ phần hoá và thị trờng chứng khoán để
huy động nguồn vốn; phát huy nguồn vốn bên trong nh là nền tảng để thu hút các
nguồn vốn bên ngoài. Nói cách khác, khai thác tốt nội lực và đầu t nội địa để thu
hút nguồn vốn bên ngoài một cách chủ động linh hoạt.
6-Hành lang pháp lý, nhất là môi trờng pháp lý cho hoạt động kinh doanh
phải rõ ràng nhất quán và bình đẳng đối với mọi loại hình kinh tế tham gia trên thị
trờng Việt Nam cần chú trọng: Loại bỏ tình trạng phân biệt đối xử giữa các thành
phần kinh tế, giảm các uđãi phi lý cho doanh nghiệp nhà nớc để tạo một sân chơi
bình đẳng cho mọi loại hình sở hữu khác nhau. Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế
trong điều kiện các cơ chế của một nền kinh tế thị trờng đang trong quá trình hình
20
thành. Do vậy mà hệ thống pháp luật của nớc ta đang trong quá trình hoàn
thiện.Nhiều chính sách luật lệ liên quan đến mở cửa thị trờng và điều tiết quan hệ
kinh tế đối ngoại còn cha phù hợp với quy định và thông lệ quốc tế. Vì vậy việc đổi
mới và kiện toàn hệ thống pháp luật là rất cần thiết. Hệ thống pháp lý là công cụ
đắc lực để thực thi cơ chế quản lý gúp nhà nớc kiểm soát và điều tiết nền kinh tế
trong quá trình hội nhập.
Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và các văn bản dới luật
đáp ứng nhu cầu, hớng phát triển của doanh nghiệp.
Thực hiện điều hành các chính sách kinh tế rõ ràng, minh bạch nhằm nâng
cao độ tin cậy của môi trờng kinh doanh, trong đó cần tháo dỡ những rào cản đối
với khu vực t nhân, khu vực có vốn đầu t nớc ngoài, tăng cờng tính cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp đồng thời tăng tính chủ động và hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp nhà nớc.
Điều quan trọng lúc này là cần định rõ, trong bối cảnh hội nhập, hệ thống
pháp lý của chúng ta sẽd đợc cấu thành bởi những luật nào, để có kế hoạch xây
dựng, củng cố, kiện toàn ổn định lâu dài và những luật đó phải phù hợp với thông lệ
và luật chơi quốc tế. BIết vận dụng những luật chơi quốc tế để thực hiện mục tiêu
của mình là yếu tố quan trọng để các doanh nghiệp đứng vững. Để làm đợc việc đó,
một đòi hỏi rất cấp bách hiện nay là đào tạo bồi dỡng đội ngũ cán bộ hoạch định

luật pháp, chính sách về kinh tế.
7-Đặc biệt coi trọng việc bồi dỡng, rèn luyện năng lực đội ngũ cán bộ, nhất
là cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại và quản lý doanh nghiệp, để đủ sức, đủ
bản lĩnh thực hiện tốt các nhiệm vụ theo đúng đờng lối chính sách của Đảng và
pháp luật Nhà nớc, xem đây là một yếu tố quyết định để đảm bảo độc lập tự chủ
trong hội nhập. Con ngời là vốn quý, là yếu tố quyết định việc thực hiện thành công
mọi đờng lối, chủ trơng, mục tiêu, nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế. Nguồn lao
động trẻ đợc giáo dục, đào tạo tốt, đức tính cần cù thông minh, đó là lợi thế so
sánh rất quan trọng của nớc ta. Do vậy cần coi trọng, phát huy nhân tố con ngời để
đảm bảo hội nhập thành công, ra sức đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ
doanh nghiệp tài giỏi, đội ngũ nhà khoa học- công nghệ và lao động lành nghề, đội
ngũ công chức tận tụy và thạo việc.Đối với đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối
ngoại cần khẩn trơng nâng cao trình độ hiểu biết, trớc hết là về nghiệp vụ và pháp
luật, đồng thời coi trọng việc giáo dục rèn luyện phẩm chất, ý thức , tinh thần trách
nhiệm.
8-Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: Tiếp tục mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại theo hớng đa phơng hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nớc ta và đảm bảo thực hiện các
cam kết quốc tế song phơng và đa phơng nh AFTA, APEC, Hiệp định thơng mại
Việt- Mỹ, tiến tới gia nhập WTO.
21
Kết luận
Trong những điều kiện lịch sử mới, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
đợc xem nh là một trong những yếu tố quan trọng để tạo động lực phát triển cho
từng quốc gia, khu vực cũng nh yêu cầu chung của cộng đồng quốc tế. Việt Nam
cũng nh hầu hết các nớc khác đều muốn tham gia vào toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế .Bởi vì, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là quá trình gắn kết
phát triển kinh tế với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế
là điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ; đồng thời có tự chủ đợc
về kinh tế mới có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, bảo đảm đợc

chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Đây là một quá trình phát triển từ thấp đến
cao, từ hẹp đến rộng, ngày càng đầy đủ và hoàn chỉnh.Mục tiêu của chúng ta là xây
dựng nền kinh tế theo hớng công nghiệp hoá và hiện đại hoá áp dụng những thành
tựu mới của khoa học công nghệ thế giới. Thực hiện đờng lối chủ trơng của Đảng,
trong những năm qua chúng ta đã có những bớc đi tơng đối bài bản và bớc phát
triển kinh tế vợt bậc giúp cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân một cách rõ rệt
đó là GNP bình quân đầu ngời đạt 6-8%/năm. Sau 10 năm, tổng sản phẩm xã hội
(GDP) tăng thêm 18 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu ngời tăng gấp 2 lần. Nhng
chúng ta không thể thoả mãn với mức tăng trởng bình quân nh vậy mà phải tìm
cách phát triển hơn nữa những lợi thế sẵn có và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài
một cách hiệu quả hơn nữa nhằm đa nớc ta nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn và
lạc hậu đa đất nớc trở thành nớc công nghiệp theo định hớng xã hội chủ nghĩa
Đến nay, khi cả thế giới tích cực chuẩn bị sức cạnh tranh bớc vào thiên niên
kỷ mới: nền kinh tế quốc tế có nhiều dấu hiệu về những yếu tố phát triển ổn định.
Nhiều nớc ASEAN và các nớc Châu á đã khắc phục hậu quả khủng hoảng để quay
trở lại tốc độ phát triển nhanh; các nớc EU, Mỹ la tinh cũng đang có những chuyển
biến tích cực . Vì thế, Việt Nam cần tranh thủ mọi cơ hội thuận lợi, khắc phục khó
khăn, đẩy nhanh hơn nữa quá trình đổi mới toàn diện; tạo điều kiện cần thiết để
phát triển và hội nhập có hiệu quả.
22

×