Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Cách tìm luận điểm và phân tích dẫn chứng trong bài văn nghị luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.5 KB, 30 trang )

Page |1

Tên đề tài:
CÁCH TÌM LUẬN ĐIỂM VÀ PHÂN TÍCH DẪN CHỨNG
TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
I/ PHẦN MỞ ĐẦU :
Trong các mơn học trong nhà trường THCS có thể nói mơn Ngữ văn đóng vai trị
hết sức quan trọng, khơng những tạo điều kiện cho học sinh có kĩ năng nghe, nói, đọc
, viết tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn bản và có kĩ năng về phân tích tác
phẩm văn học, bước đầu có năng lực cảm nhận và bình giảng tác phẩm văn học. Hơn
nữa cịn giúp cho các em tiếp nhận các mơn khoa học khác một cách tốt hơn. Nhưng
trong thực tế năng lực cảm thụ văn chương đưa văn chương vào cuộc sống và cách
hành văn của các em nhất là văn nghị luận của đa số các em còn yếu. Có những học
sinh lớp 9 viết những đoạn văn, bài văn phải bất lực trước ngịi bút của mình. Các em
có thể làm văn bằng cách sao chép bài văn mẫu hoặc ghi tất cả lời giảng của giáo
viên chứ khơng thể viết ra điều mình đã nghĩ.
Là một giáo viên, ai cũng muốn truyền đạt tất cả kiến thức, kĩ năng mà mình có
cho các em. Muốn các em học vận dụng kiến thức đó vào cuộc sống, và học tập. Để
làm tốt điều đó, người giáo viên trước hết phải có cái tâm, cái tình của một người
thầy. Đó là người thầy phải thấy được cái non yếu của học trị để từ đó tìm ra phương
pháp khắc phục, uốn nắn. Để làm tốt điều đó khơng chỉ địi hỏi người thầy phải có
trình độ, năng lực - đó chỉ là một phần nhưng yếu tố khơng kém phần quan trọng đó
là người thầy giáo phải rút ra một kinh nghiệm nho nhỏ qua từng tiết dạy, từng bài
dạy. Tôi cho rằng kinh nghiệm của người thầy càng già dặn thì hiệu quả càng quý giá
và kết quả càng cao.
Thế nhưng, một bộ phận không nhỏ của học sinh chúng ta hiện nay là khơng
làm theo những gì thầy, cơ dạy hay nói đúng hơn là khả năng vận dụng của các em


Page |2


còn rất kém. Một trong những điểm kém nhất của các em học trò chúng ta là chưa
biết cách tìm luận điểm và phân tích dẫn chứng trong bài văn nghị luận.
Văn nghị luận là thể loại quan trọng và khó trong chương trình tập làm văn
THCS. Để học tốt thể loại này địi hỏi mỗi học sinh khơng chỉ có sự am hiểu đặc
trưng thể loại, một vốn tri thức cuộc sống và văn học mà còn phải có một khả năng tư
duy sắc bén, một năng lực phân tích, lập luận để làm rõ vấn đề .
Thực tế hiện nay trong chương trình sách giáo khoa mơn Ngữ văn THCS chưa
có tiết nào dạy cho các em phương pháp triển khai luận điểm và phân tích dẫn chứng
trong bài văn nghị luận một cách thật dễ hiểu nếu có chăng cũng chỉ là những tiết
định hướng rất chung (chẳng hạn Ngữ văn 7 có tiết “Viết đoạn văn và trình bày luận
điểm” lớp 8 tập 2. “Đề văn nghị luận và việc lập dàn ý cho bài văn nghị luận” ở lớp 9
tập 2 cũng có tiết “cách làm bài văn nghị luận về tác phẩm truyện” “cách làm bài văn
nghị luận về đoạn thơ bài thơ” trong khi đó khả năng triển khai luận điểm vµ phân
tích của các em cịn rất hạn chế vµ đó lại là yờu cu hng u ca vn ngh lun ( đặc
biệt là nghị luận văn học ).
Thực tế bài nghị luận văn học của các em hiện nay chất lượng rất thấp, không
đảm bảo yêu cầu thể loại, thường là luận điểm khơng rõ ràng, dài dịng hoặc khơng
chính xác. Dẫn chứng hay diễn xuôi dẫn chứng , kể lại sự việc rồi thơng qua đó tổng
kết vấn đề . Thiết nghĩ nếu không sớm khắc phục điểm yếu trên thì việc giảng dạy
văn nghị luận trong nhà trường sẽ dần mất đi ý nghĩa thiết thực trong việc học tập
môn Ngữ văn của học sinh.
Xuất phát từ vấn đề trên có thể thấy việc hình thành cho học sinh cách tìm luận
điểm vµ phân tích dẫn chứng là vô cùng cần thiết không chỉ giải quyết được những
lúng túng của các em học sinh trong quá trình triển khai luận điểm khi viết văn nghị
luận mà còn là cơ sở lí luận để giúp các em cảm nhận hết được cái hay của nghệ thuật
sáng tạo ngôn từ qua mỗi tác phẩm văn học được tìm hiểu. Đối tượng nghiên cứu và
thực thi đề tài của chúng tôi chủ yếu là các em học sinh lớp 9 nhằm cũng cố và khắc
sâu cho các em về kĩ năng làm bài văn nghị luận để các em chuẩn bị bước vào kì thi
chuyển cấp với biết bao áp lực nặng nề, tất nhiên khi có điều kiện chúng tơi vẫn áp
dụng với các em ở lớp dưới.



Page |3

Điểm mới của đề tài chính là sự kết hợp giữa kiến thức lí thuyết trong các bài
dạy với kinh nghiệm của bản thân. Trong đó kinh nghiệm của bản thân trong q
trình giảng dạy là chính. Hay nói đúng hơn là kết hợp giữa lí thuyết sách giáo khoa và
kinh nghiệm của mình đúc rút được trong quá trình dạy- học.
II/ PHẦN NỘI DUNG :
A/ THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1 . THỰC TRẠNG CỦA VIỆC LÀM VĂN NGHỊ LUẬN KHI ĐI TÌM LUẬN
ĐIỂM
Một thực tế đáng buồn là rất nhiều em học sinh đang học văn nghị luận ở
chương trình lớp 7 nhưng đến khi lớp 9 vẫn chưa nắm được cách làm văn nghị luận,
bằng chứng là qua các bài viết các em đã bộc lộ những yếu kém đó. Đối với những
tác phẩm văn xi thường có yêu cầu phân tích nhân vật hay một vấn đề nào đó, thế
là các em tha hồ kể lể. Mặc dù yêu cầu của đề là cảm thụ, đánh giá chứ không phải là
kể lại câu chuyện. Nhiều bài kiểm tra dài rất dài, nhưng khơng có ý, mà chủ yếu là
học sinh khoe trí nhớ của mình, kể lại chuyện.
Đối với tác phẩm thơ thì khơng ít học sinh sa vào “diễn giải” lại ý nghĩa của
những câu thơ. Tuy cần phải cắt nghĩa, giảng giải để hiểu rõ thêm, để thấy được
những đặc sắc riêng của câu thơ, bài thơ, nhưng khơng có nghĩa là học sinh chỉ việc
diễn nôm lại ý nghĩa bài thơ. Câu “Câu thơ này cho thấy, đoạn thơ này nói lên, bài
thơ này nghĩa là….” đã trở thành “công thức” trong bài làm của khơng ít học sinh.
Bài thơ vốn hay, nhưng qua tài “chế biến” của học sinh bỗng trở nên nôm na và khơ
khan.

Luận điểm là gì?"
Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài
văn được nêu ra dưới hình thức câu khẳng định (hay phủ định), được diễn đạt

sáng tỏ, dễ hiểu, nhất quán"
. Đó là khái niệm về luận điểm còn đưa ra luận điểm
bằng cách nào thì sách giáo khoa chưa có một phương pháp thật rõ ràng, dễ hiểu cho
học sinh. Một học sinh lớp 7 khó có thể hiểu hết các thuật ngữ mà khái niệm nêu ra


Page |4

như : quan điểm, tư tưởng…chính vì thể trong bài viết của mình các em cũng khó có
thể trình bày được "tư tưởng, quan điểm" cho đúng, cho "sáng tỏ, dễ hiểu, nhất quán".
Bất kì người giáo viên nào cũng nhận thấy hạn chế của các em về việc triển khai luận
điểm trong bài văn nghị luận dù rằng về lí thuyết các em đọc “vanh vách”. Hầu hết
các em thường trình bày theo cách hiểu của mình chứ chưa biết triển khai cách hiểu
đó một cách logic và khoa học nên ý tứ lộn xộn thiếu rõ ràng và khó hiểu. Cụ thể các
em mắc vào các lỗi sau:
1.1. Bài văn khơng có luận điểm: Một thực tế mà người giáo viên nào cũng
nhận thấy, đó là bài văn của các em khơng có luận điểm, hoặc luận điểm khơng rõ
ràng, có lẽ khi viết, các em thường viết theo suy nghĩ, theo cách hiểu mà các thầy cơ
dạy trên lớp.
1.2. Luận điểm lặp: Có lẽ vì khơng hiểu rõ và hiểu chắc chắn về luận điểm và
vai trò của luận điểm trong bài văn nghị luận nên nhiều em đã mắc lỗi lặp luận điểm
trong bài viết của mình. Biểu hiện của lỗi này đó là các luận điểm hoặc một số luận
điểm trong bài viết của các em giống nhau hoặc gần giống nhau. Chính vì thế nên bài
viết của các em tuy dài nhưng thiếu ý.
1.3. Luận điểm dài dịng: Luận điểm thường chỉ có một câu ngắn gọn, rõ ràng,
cô đúc và rất dễ hiểu ( Câu nêu luận điểm – câu chủ đề - Ngữ văn 8), ít khi người viết
trình bày hai câu hoặc nhiều hơn nhưng vì khơng hiểu một cách thấu đáo nên nhiều
em trình bày luận điểm rất dài dịng thậm chí mơng lung khó hiểu.
2. Thùc tr¹ng cđa viƯc PHÂN TÍCH dÉn chøng.
2.1 Chọn dẫn chứng khơng thật tiêu biểu: Khơng có đủ khả năng để làm rõ vấn đề

bàn luận mà lỗi này là do các em không đọc kĩ văn bản, nắm nội dung không thật sâu
sắc.
2.2 Phân tích theo cảm tính : Thường là các em nêu lên nội dung vấn đề rồi trích dẫn
chứng để minh họa mà khơng có sự khai thác ý ngha n sau ngụn t lm cho vấn đề
nghị luận cịn mang tính gượng ép, khơng hiểu được dụng ý của tác giả.


Page |5

2.3 Diễn xi dẫn chứng : Các em trích dẫn được những dẫn chứng tiêu biểu cần thiết
nhưng lại sa vào kể lại nội dung sự việc diễn đạt qua ngơn từ.
2.4 Phân tích khơng theo một định hướng, thiếu tính khoa học: Nghĩa là q trình
phân tích diễn ra một cách cảm tính dẫn đến việc dẫn chứng không được khai thác
một cách triệt để, nội dung không sâu sắc thËm chÝ cã khi sai quan ®iĨm lËp trêng tiÕn
bé.
B/ GIẢI PHÁP VÀ CÁCH THỰC HIỆN
1. CÁCH TÌM LUẬN ĐIỂM:
1.1.Đối với truyện:
Có nhiều cách để chúng ta tìm ra luận điểm, nhưng cách dễ nhất cho học sinh
đó là trả lời câu hỏi “NHƯ THẾ NÀO”, trả lời được câu hỏi này có nghĩa học sinh
đã tìm được câu nêu luận điểm (tạm gọi là ý khái quát nhất). Việc còn lại là chọn lọc
dẫn chứng để minh hoạ làm sáng tỏ luận điểm đó.
Chẳng hạn, khi phân tích nhân vật anh thanh niên trong "Lặng lẽ Sapa" ta trả
lời câu hỏi “anh thanh niên là người như thế nào” chúng ta thấy ngay: Đó là người
u cơng việc và hết mình vì cơng việc; Là người rất quan tâm đến người khác; là
người khiêm tốn, giản dị…Mỗi câu trả lời như thế có thể xem đó là một ý khái quát
của luận điểm. Đây chính là đặc điểm nhân vật anh thanh niên mà chúng ta cần phân
tích trong bài văn của mình. Tương tự khi phân tích nhân vật bé Thu trong “chiếc
lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng các em chỉ cần trả lời: “bé Thu là người như thế
nào” các em sẽ có ngay câu trả lời: Thu là em bé hồn nhiên, ngây thơ và có cá tính

mạnh mẽ và em là người con có tình u ba sâu sắc. Thực chất những đặc điểm này
các em đã được thầy cô giáo dạy rất kĩ trên lớp, đây chỉ là thao tác tái hiện lại mà
thôi.
1.2. Đối với thơ:
Đối với dạng đề nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ ta lại trả lời câu hỏi: đoạn
thơ, bài thơ “NĨI VỀ CÁI GÌ”. Chẳng hạn khi phân tích khổ thơ đầu trong văn bản
“Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính”
Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính


Page |6

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
Chúng ta chỉ cần trả lời câu hỏi “đoạn thơ nói về cái gì”, chúng ta có ngay câu
trả lời đoạn thơ nói về hình ảnh chiếc xe khơng có kính và tinh thần lạc quan, bình
tĩnh, bất chấp gian khó của người lính. Tiếp theo, chúng ta chỉ cần phân tích một số
từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu…để làm sáng tỏ câu chủ đề là được. (Ta gọi là câu nêu
luận điểm- Ngữ văn 8)
Ví dụ: Phân tích khổ thơ sau trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thành Hải
Ta làm con chim hút
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
- Trước vẽ đẹp thơ mộng của xứ Huế, trước khơng khí tưng bừng đi lên xây dựng
cuộc sống mới, nhà thơ nguyện được dâng hiến một phần tâm huyết của mình cho
đất nước ( Câu nêu luận điểm - trả lời câu hỏi: Đoạn thơ nói về cái gì?)
Ước làm một và chỉ một “con chim hót, một cành hoa, một nốt trầm” để góp
thêm chút âm thanh, hương sắc cho vẽ đẹp thiên nhiên mùa xn. Điều đáng nói là

tác giả khơng ước mình làm nên vẽ đẹp của mùa xuân mà chỉ góp phần tơ điểm mùa
xn, phải chăng đây là một nét đẹp vốn có của một chiến sĩ cách mạng?
Ẩn sau hình ảnh miêu tả, ta có thể thấy lớp nghĩa khác đó chính là cả tài
năng, tâm huyết mà tác giả mà tác giả đã dành cả đời cho cuộc sống.
Phép điệp từ “ta làm” kết hợp với giọng thơ dứt khoát thể hiện được khát vọng
được dâng hiến cho đời của nhà thơ. Phải chăng những con người như tác giả hạnh
phúc cá nhân ln hồ quyện với hạnh phúc dân tộc, và việc dâng hiến cho đời không
những là trách nhiệm mà hơn hết là niềm hạnh phỳc ln nht ca i ngi.
2. Phơng pháp phân tích dÉn chøng
2.1 Phương pháp cảm nhận.


Page |7

Cảm nhận thực chất là sự nhận biết của ngời viết, ngời đọc thông qua tình cảm
chủ quan của mình. Nhng không có nghĩa là ngời viết, ngời đọc tha hồ cảm nhận
mà phải cảm nhận trên cơ sở có lí, có tình và bám vào văn bản. Dn chứng bao giờ
cũng diễn đạt một tình tiết hay miêu tả một cảnh tượng, sự kiện bằng năng lực riêng.
Víi phơng pháp này chỳng ta hóy t li mt cỏch chi tiết, cụ thể theo cảm nhận thông
qua sự tưởng tượng kèm theo những nhận định, đánh giá để làm rừ c lun im.
Cảm nhận là một nghĩa rộng. Có khi cảm nhận bằng lí trí có khi bằng tình cảm cũng
có thể kết hợp giữa lí trí và tình cảm để có cảm nhận đúng và hay.
- Vớ d:

ó thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
(Viếng lăng Bác – Viễn Phương )

Câu thơ đã tái hiện một bối cảnh không gian ban mai tinh khôi với màu xanh

tươi thân thuộc của hàng tre hòa trong cái màu trắng huyền ảo mơ màng của sương
sớm - một hình ảnh vừa quen thuộc vừa đánh thức cảm nhận của người đọc. ( tái hiện
)
Nơi Bác yên nghỉ dường như là cả một khu vườn tràn ngập màu sắc của lá
hoa chan hịa trong gió, nắng thiên nhiên tạo một nét đẹp rất bình dÞ, rất Việt Nam (
nhận định )
2.2Phương pháp phân tích nghệ thuật làm nổi bật nội dung vấn đề.
Mét trong nh÷ng u kÐm cđa häc sinh đó là trong quá trình phân tích , các em
không chú ý hoặc ít chú ý đến nghệ thuật. Chính vì thế bài làm của các em dù có hay
đến đâu cũng khó có thể đạt điểm cao. Bởi lẽ, nếu nội dung là xơng của tác phẩm
thì nghệ thuật là phần hồn của nó. Mỗi nội dung hay phải đợc ẩn chứa trong một
hồn hay. Phân tích nội dung không thôi coi nh bài văn mới chỉ làm một nửa. Bởi
thế, trong quá trình phân tích phải kết hợp cả nội dung và nghệ thuật. Vì thế phõn tích
theo phương pháp này phải cần có vốn hiểu biết về các biện pháp tu từ Tiếng Việt.
Phải chỉ ra và phân tích t¸c dơng, ý nghĩa tu từ của nó.
Ví dụ:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
( Viếng lăng Bác – Viễn Phương )


Page |8

Hình ảnh mặt trời ë câu thơ thứ nhất là mặt trời thực, mặt trời sớm tối đi về
mang lại cho con người ánh sáng và hơi ấm, mặt trời ở câu thơ thứ hai là hình ảnh ẩn
dụ chỉ Bác. Nếu mặt trời đem cho con người và vạn vật sự sống thì Bác chính là
người đã đưa dân tộc Việt Nam tõ trong bãng tèi ra ¸nh sáng, từ nô lệ đến tự do
hng n ỏnh sỏng của sự văn minh. Bác là vị lãnh tụ vĩ i ca dõn tc. Ging th
chân thành, tha thiết cũn thể hiện niềm tự hào của chính tác giả về Bác.

2.3 Phương pháp suy luận bằng lí lẽ.
Phương pháp này thường dựa vào tính chất của vấn đề để suy luận theo hướng
mà người viết định ra. Muốn vậy phải nắm chắc đặc điểm nhân vật và các tình tiết sự
kiện của văn bản.
- Ví dụ: “chao ơi! Ơng lão nhớ cái làng, nhớ cái làng quá”
( Làng – Kim Lân )
Nhớ làng nhớ những ngày làm việc phục vụ kháng chiến ơng khao khát được trở
về nhưng đó cũng chỉ là khao khát, ước mơ khi hoàn cảnh thực là ơng khơng thể để
lại gia đình ở vùng tản cư vì thế nỗi nhớ vốn da diết lại càng da diết hơn và trong một
chừng mực nào đó cịn là nỗi đau trong nhân vât.
2.4 Phương pháp so sánh, đối chiếu.
Một bài văn hay trước hết phải viết “đúng ” chỉ khi “đúng ” thì mới hay được.
Hơn nữa, một bài văn hay khơng chỉ thể hiện cái nhìn sâu sắc của người viết mà còn
biết liên hệ, đối chiếu với tác phẩm khác. Như thế không chỉ thể hiện chiều “sâu” của
người viết mà còn thể hiện chiều “rộng” của “vốn liếng” văn chương nữa. Tức là
phân tích dựa trên cơ sở cùng đề tài được thể hiện ở nhiều văn bản khác nhau.
Khi sử dụng phương pháp này cần lưu ý đến tính trọng tâm tức là phải hướng
vào vấn đề đang cần nghị luận.
- Ví dụ: khi ta phân tích hình ảnh ánh trăng trong bài thơ “Ngắm trăng” của Bác thì ta
nên liên hệ đến hình ảnh ánh trăng trong bài thơ “Tin thắng trận” hay bài “Rằm
tháng giêng” để làm nổi bật tâm hồn thi nhân và tình yêu thiên nhiên của Bác. Ở
trường hợp này cũng có thể liên hệ so sánh với các tác giả khác nhằm làm nổi bật
hình ảnh trong thơ Bác. Hay khi phân tích bài thơ “Đồng chí” chắc chắn người viết
không thể bỏ qua “Bài thơ về tiểu đơị xe khơng kính”…Một điều cần nói thêm đó là


Page |9

không phải và cũng không nhất thiết lúc nào chúng ta cũng liện hệ văn học với văn
học. Có khi chúng ta phải liện hệ văn học với cuộc sống. Đó mới là điều quan trọng

và có tính thuyết phục mới cao. Chẳng hạn, khi tìm hiểu về truyện ngắn “Những ngôi
sao xa xôi” chúng ta phải nghĩ đến “Những cô gái thanh niên xung phong ở Trường
Sơn”…
2.5 Phương pháp tái hiện. Tái hiện thực chất là trình bài lại những điều đã có trong
văn bản, điều quan trọng nhất của phương pháp này là học sinh nhớ càng chính xác
thì hiệu quả và sức thuyết phục càng cao – gọi đó là cách tái hiện trực tiếp. Nếu
khơng nhớ một cách chính xác thì chúng ta có thể tái hiện nội dung – gọi là tái hiện
gián tiếp.
Ví dụ: Khi nhận xét về Vũ Nương trong “Chuyện Người con gái Nam Xương” ta
có thể đưa ra kết luận:
+Là người vợ hết lòng yêu thương…chồng (Câu nêu luận điểm)
Dẫn chứng: Trong buổi tiễn đưa: Nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng bằng những
lời lẽ dịu dàng, tha thiết và cảm động: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám đeo
được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong ngày về mang theo được hai
chữ bình yên , thế là đủ rồi".
Nhận xét của người viết: Người đọc xúc động trước khao khát, ước mơ bình dị
của Vũ Nương. Không phải là mơ ước về công danh, tiền bạc mà chỉ là hai chữ “bình
yên”. Đằng sau niềm khao khát, ước mơ ấy là cả một tấm lịng u thương chân
thành, đằm thắm vượt ra ngồi cả sự cám dỗ của vật chất tầm thường và vinh hoa phú
quý. Tình yêu thương chồng đã chiến thắng tất cả.
Hay khi đánh giá về tài năng trong việc tả người của Nguyễn Du thì người viết
phải đưa ra được những dẫn chứng thuyết phục. Đó là cách tả người của ơng khơng
giống với bất kì ai, hơn nữa trong cách tả mỗi nhân vật Nguyễn Du lại sử dụng một
bút pháp khác nhau. Chẳng hạn, khi miêu tả chị em Thuý Kiều, ông dùng bút pháp
ước lệ tượng trưng như:
“Mai cố cách, tuyết tinh thần;
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang;
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn…”



P a g e | 10

Nhưng đến lượt Mã Giám Sinh ông lại sử dụng bút pháp tả thực.
Hỏi tên rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao…
Để dẫn chứng có sức thuyết phục người đọc thì chúng ta phải phân tích các từ
ngữ, hình ảnh… để làm rõ những nhận xét đánh giá của mình (phần lí thuyết trong
các bài học).
Sau đây là một số dẫn chứng về cách tìm luận điểm và phân tích dẫn chứng
trong một số bài văn nghị luận văn học :
Đề bài: Nhân vật anh thanh niên trong"lặng lẽ Sapa" của Nguyễn Thành Long.
Anh thanh niên là một con người yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm
cao với cơng việc lắm gian khổ của mình. (Câu nêu luận điểm – Trả lời câu hỏi
“Anh thanh niên là người như thế nào”). Trong lời giới thiệu của ông hoạ sĩ già và
cô gái , bác lái xe gọi anh là "người cô độc nhất thế gian". Đã mấy năm nay, anh sống
một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây
mù lạnh lẽo. Công việc của anh là đo gió đo mưa, đo nhiệt độ…vậy mà anh rất u
cơng việc của mình. Chúng ta hãy nghe anh nói với ông hoạ sĩ già "khi ta làm việc ta
với cơng việc là đơi, sao lại gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền
với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Cơng việc của cháu gian khổ thế chứ cất
nó đi cháu buồn đến chết mất" còn đây là tâm sự của anh với cơ kĩ sư trẻ "lúc nào tơi
cũng có người trị chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà" Tuy sống trong điều kiện thiếu
thốn về vật chất lẫn tinh thần nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc, vẫn
biết sắp xếp, lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. Anh ni gà, trồng hoa, đọc
sách. (phân tích bằng phương pháp tái hiện)
Sống trong hoàn cảnh như thế, sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cơ đơn.
Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi "
thèm người"

, lòng hiểu khách đến


P a g e | 11

nồng nhiệt và quan tâm đến ngưồi khác một cách chu đáo (Câu nêu luận điểm –
Trả lời câu hỏi “Anh thanh niên là người như thế nào”). Anh biếu vợ bác lái xe củ
tam thất để chữa bệnh, hái hoa tặng cô kĩ sư, tặng trứng ông hoạ sĩ. Biết quan tâm đến
người khác là đáng quý nhưng anh quan tâm rất đúng cách và hợp lí. Hoa thì ai cũng
thích vì nó đẹp, trứng ai cũng muốn ăn vì nó bổ cho sức khoẻ nhưng một ông già
không thể đổi trứng lấy hoa và một cơ gái thì bao giờ cũng thích hoa hơn trứng. Biết
quan tâm đến người khác, anh thanh niên cịn rất biết nắm bắt tâm lí của từng lứa
tuổi, từng người. ( phương pháp suy luận)
Đề bài : Phân tích khổ thơ đầu trong bài “Đồn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
Hai câu thơ đầu tác giả đã vẽ nên một khung cảnh ở biển đang chuyển dần
về đêm (Câu nêu chủ đề). "Mặt trời xuống biển như hòn lửa" là cách so sánh mới và
độc đáo vừa gợi lên một khung cảnh hùng vĩ của thiên nhiên vừa gợi khơng khí ấm
áp như trong gia đình. Có lẽ nhà thơ đang ở rất xa đất liền mới thấy được "mặt trời
xuống biển". Vì mặt trời lặn về phía Tây.
Dường như cả thiên nhiên rộng lớn mênh mông được nhà thơ thu nhỏ lại mà màn đêm
là ngôi nhà cịn những lượn sóng chính là then cài. Nghệ thuật so sánh, nhân hoá được
nhà thơ sử dụng đúng chỗ khiến câu thơ như có hồn và thêm sức sống. Cách so sánh và
sử dụng biện pháp nhân hoá độc đáo gợi cảm giác vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với
màn đên buông xuống là tấm cửa khổng lồ và những lượn sóng là then cài cửa. Con
người đi trong biển đêm mà như đi trong ngôi nhà thân thuộc của mình. Thiên nhiên vũ
trụ bắt đầu đi vào trạng thái nghỉ ngơi, con người lại bắt dầu vào cơng việc của mình,
cho thấy sự hăng say và nhiệt tình xây dựng đất nước của người lao động mới. Qua đó,
người đọc cịn có thể thấy được trí tưởng tượng, sự liên tưởng độc đáo của một nhà thơ
lãng mạn (Phương pháp phân tích nghệ thuật để làm nổi bật nội dung). Chỉ hai câu
thơ ngắn gọn mà người đọc đã hình dung cảnh biển hùng vĩ và tráng lệ. Chỉ hai câu thơ

mà nhà thơ đã đưa thiên nhiên trở về gần gũi với con người. Điều đó chứng tỏ một tình
yêu lớn và cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ trước thiên nhiên của nhà thơ.
Khi màn đêm buông xuống cũng là lúc những người dân làng chài ra khơi
(câu nêu chủ đề). Kết thúc một ngày cũng là lúc mỗi con người được nghỉ ngơi để


P a g e | 12

trở về gia đình, quây quần bên mâm cơm, bếp lửa vậy mà những người dân chài lại
bắt đầu một ngày làm việc. Cái độc đáo ở đây chính là nhà thơ đã tạo ra một sự đối
lập tưởng chừng như vơ lí nhưng lại rất đúng với thực tế của người dân biển. Cụm từ
"lại ra khơi" vừa thể hiện một hành động ngược lại với tự nhiên vừa khiến ta nghĩ đến
một công việc thường xuyên của người dân chài. Công việc ấy cứ lặp đi lặp lại suốt
năm tháng, suốt cuộc đời nhưng khơng vì thế mà cuộc sống của họ trở nên tẻ nhạt và
nhàm chán. Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà trở nên ấm áp bởi khí thế ra khơi hừng
hực của người dân làng chài (Phương pháp suy luận bằng lí lẽ). Dường như tiếng
hát của họ lấn át cả âm thanh sóng vỗ. Tiếng hát ấy hồ cùng gió mạnh thổi căng
cánh buồm đẩy thuyền phăng rẽ sóng. Trong tiếng hát ấy, chúng ta nhận thấy niềm
vui hân hoan, khí thế đi lên để làm chủ thiên nhiên, đất nước của con người. Tiếng
hát ấy còn thể hiện lòng quyết tâm của chuyến ra khơi đầy bội thu. Khơng dùng cách
nói khoa trương phóng đại nhưng Huy Cận vẫn nói hộ được hàng triệu con người
Việt Nam trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc lúc bấy giờ
(Phương pháp cảm nhận ).
Kết quả khi áp dụng đề tài vào thực tế giảng dạy:
Tríc khi thực hiện đề tài
Tỉ lệ
Mức độ
Giỏi
5%
Khá

25%
Trung bình
65%
Yếu
5%
kém

Sau khi thực hiện đề tài
Tỉ lệ
Mức độ
Giỏi
7,5%
Khá
32,5%
Trung bình
60%
Yếu
kém

III /PHN KT LUN:
Vn hc một loại hình nghệ thuật do vậy nhận thức văn học là một hệ thống mở
tùy thuộc vào mỗi cá nhân , dạy văn thực chất là giúp học sinh biến tác phẩm của nhà
văn thành tác phẩm của mình, sống trong mình.Để viết văn “đúng” và “hay” là một
quá trình rèn luyện khơng mệt mõi của học sinh. Những phương pháp ở trên, xét một
khía cạnh nào đó cũng chỉ là lí thuyết. Nếu muốn viết văn hay, học sinh còn phải học


P a g e | 13

rất nhiều như cách dùng từ, đặt câu và đặc biệt là cách diễn đạt… Hiểu thơng thạo về

lí thuyết khơng có nghĩa là các em đã biết viết văn chứ chưa nói đến việc viết văn
hay. Nhưng lí thuyết là cơ sở. Khơng có lí thuyết dĩ nhiên các em sẽ gặp khó khăn.
Xuất phát từ thực tế học sinh cũng yếu về kĩ năng tìm luận điểm và phân tích dẫn
chứng trong q trình tạo lập một văn bản nghị luận văn học, tơi mạnh dạn trao đổi
một số phương pháp tìm luận điểm và phân tích dẫn chứng mà tơi tự đúc rút ra được
trong quá trình dạy học, nhằm khắc phục hạn chế trên đồng thời cũng mở ra hướng
nghiên cứu toàn diện, triệt để vấn đề này. Tất nhiên, bước đầu mới nghiên cứu và
thực hiện nên không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế. Càng khơng thể khẳng định đây
là cách hay nhất, tối ưu nhất. Bởi lẽ bất kì một phương pháp hay cách thức nào cũng
cịn phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác. Nhưng trong quá trình áp dụng đề tài tại Trường
THCS Đông Hưng 2 trong năm học 2010- 2011, tơi đã có một kết quả khá khả quan.
Nhiều học sinh hiểu cách làm, biết triển khai luận điểm và phân tích dẫn chứng khá
tốt. Để học sinh làm tốt theo đề tài này tôi muốn nói thêm rằng, người thầy giáo, cơ
giáo phải thực hiện một cách thường xuyên, liên tục để tạo cho học sinh một thói
quen và hình thành một kĩ năng. Với đề tài này, tơi hy vọng sẽ ít nhiều hữu ích đối
với việc học văn nghị luận của các em học sinh. Tơi rất mong nhận được ý kiến đóng
góp của các đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn. Bảng so sánh sau là kết quả của
quá trình thực hiện đề tài tại đơn vị trong các năm học liên tiếp của bản thân. Tất
nhiên nó khơng thể chính xác đến tuyệt đối nhưng ít nhiều cũng phản ánh phần nào
kết quả khả quan.
An Minh , ngày 02 tháng 11 năm 2011.
Người viết

Nguyễn Thị Vĩnh Phượng


P a g e | 14

Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM KHẢO
…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………….


P a g e | 15

-------------IV.Tài liệu tham khảo
1. Ngữ văn 7 tập 1
2. Ngữ văn 8 tập 2
3. Ngữ văn 9 tập 2
V. Mục lục
Phần I Mở đầu
Lí do chọn đề tài.
Phần II nội dung
1 thực trạng của việc triển khai luận điểm.
1.1. Bài văn khơng có luận điểm.
1.2. Luận điểm lặp.
1.3. Luận điểm dài dòng.
2. Cách triển khai luận điểm:
2.1. đối với truyện
2.2. đối với thơ
3. Thực trạng của việc trình bày dẫn chứng.
3.1 Chọn dẫn chứng khụng thật tiờu biểu,
3.2 Phõn tớch theo cảm tớnh :
3.3 Diễn xuụi dẫn chứng :
4. phương pháp phân tích dẫn chứng

4.1. Phương pháp tái hiện bằng cảm nhận.


P a g e | 16

4.2 Phương pháp phân tích nghệ thuật làm nổi bật nội dung
vấn đề.
4.3 Phương pháp suy luận bằng lí lẽ.
4.4 Phương pháp so sánh, đối chiếu.
4.5 Phương pháp tái hiện.
5. Vận dụng
IIIKết luận:

PHẦN I : MỞ ĐẦU
I/Lí do chọn đề tài.
Là một giáo viên, ai cũng muốn truyền đạt tất cả kiến thức, kĩ năng mà mình có
cho các em. Muốn các em học vận dụng kiến thức đó vào cuộc sống, và học tập. Để
làm tốt điều đó, người giáo viên trước hết phải có cái tâm của một người thầy, cái
tình của một người anh và trách nhiệm của một người cha. Đó là người thầy phải
thấy được cái non yếu của học trị để từ đó tìm ra phương pháp khắc phục, uốn nắn.
Để là tốt điều đó khơng chỉ địi hỏi người thầy phải có trình độ, năng lực - đó chỉ là
một phần nhưng yếu tố không kém phần quan trọng đó là người thầy giáo phải rút ra


P a g e | 17

một kinh nghiệm nho nhỏ qua từng tiết dạy, từng bài dạy. Tôi cho rằng kinh nghiệm
của người thầy càng già dặn thì hiệu quả càng quý giá và kết quả càng cao.
Thế nhưng, một bộ phận không nhỏ của học sinh chúng ta hiện nay là khơng
làm theo những gì thầy, cơ dạy hay nói đúng hơn là khả năng vận dụng của các em

còn rất kém. Một trong những điểm kém nhất của các em học trò chúng ta là khă
năng triển khai luận điểm và phân tích dẫn chứng trong bài văn nghị luận.
Văn nghị luận là thể loại quan trọng và khó trong chương trình tập làm văn
THCS. Để học tốt thể loại này địi hỏi mỗi học sinh khơng chỉ có sự am hiểu đặc
trưng thể loại, một vốn tri thức cuộc sống và văn học mà cịn phải có một khả năng tư
duy sắc bén, một năng lực phân tích, lập luận để làm rõ vấn đề .
Thực tế hiện nay trong chương trình sách giáo khoa mơn Ngữ văn THCS chưa
có tiết nào dạy cho các em phương pháp triển khai luận điểm và phân tích dẫn chứng
trong bài văn nghị luận một cách thật dễ hiểu nếu cú chăng cũng chỉ là những tiết
định hướng rất chung chung (chẳng hạn Ngữ văn 7 có tiết. “Viết đoạn văn và trình
bày luận điểm” lớp 8 tập 2 trang 79 “Đề văn nghị luận và việc lập dàn ý cho bài văn
nghị luận” ở lớp 9 tập 2 cũng có tiết “cách làm bài văn nghị luận về tác phẩm truyện”
“cách làm bài văn nghị luận về đoạn thơ bài thơ” trong khi đó khả năng triển khai
luận điểm vµ phân tích của các em cịn rất hạn chế và ú lại là yờu cu hng u ca
vn ngh luận ( đặc biệt là nghị luận văn học ).
Thực tế bài nghị luận văn học của các em hiện nay chất lượng rất thấp, không
đảm bảo yêu cầu thể loại, thường là luận điểm khơng rõ ràng, dài dịng hoặc khơng
chính xác. Dẫn chứng hay diễn xi dẫn chứng , kể lại sự việc rồi thơng qua đó tổng
kết vấn đề . Thiết nghĩ nếu không sớm khắc phục điểm yếu trên thì việc giảng dạy
văn nghị luận trong nhà trường sẽ dần mất đi ý nghĩa thiết thực trong việc học tập
môn Ngữ văn của học sinh.
Xuất phát từ vấn đề trên có thể thấy việc hình thành cho học sinh phương pháp
và kĩ năng triÓn khai luËn ®iĨm vµ phân tích dẫn chứng là vơ cùng cần thiết không chỉ
giải quyết được những lúng túng của các em học sinh trong quá trình triển khai luận
điểm khi viết văn nghị luận mà cịn là cơ sở lí luận để giúp các em cảm nhận hết được
cái hay của nghệ thuật sáng tạo ngôn từ qua mỗi tác phẩm văn học được tìm hiểu. Đối


P a g e | 18


tượng nghiên cứu và thực thi đề tài của chúng tôi chủ yếu là các em học sinh lớp 9
nhằm cũng cố và khắc sâu cho các em về kĩ năng làm bài văn nghị luận để các em
chuẩn bị bước vào kì thi chuyển cấp với biết bao áp lực nặng nề, tất nhiên khi có điều
kiện chúng tơi vẫn áp dụng với các em ở lớp dưới.
Điểm mới của đề tài chính là sự kết hợp giữa kiến thức lí thuyết trong các bài
dạy với kinh nghiệm của bản thân. Trong đó kinh nghiệm của bản thân trong q
trình giảng dạy là chính. Hay nói đúng hơn là kết hợp giữa lí thuyết sách giáo khoa và
"mẹo" của người viết đúc rút được trong quá trình dạy- học.
II/ NỘI DUNG
1 . THỰC TRẠNG CỦA VIỆC LÀM VĂN NGHỊ LUẬN VIỆC TRIỂN KHAI
LUẬN ĐIỂM
Một thực đáng buồn là rât nhiều em học sinh lên lớp 12 rồi nhưng vâcn chưa
nắm được cách làm văn nghị luận, bằng chứng là qua các kì thi tốt nghiệp các em đã
bộc lộ những yếu kém đó. Đối với những tác phẩm văn xi thường có u cầu phân
tích nhân vật hay một vấn đề nào đó, thế là các sĩ tử tha hồ kể lể. Mặc dù yêu cầu của
đề là cảm thụ, đánh giá chứ không phải là kể lại câu chuyện. Nhiều bài thi rất dài,
nhưng khơng có ý, mà chủ yếu là thí sinh khoe trí nhớ của mình, kể lại chuyện, thậm
chí cịn thêm thắt, chẳng khác gì “tra tấn” giám khảo.
Đề yêu cầu phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Chí Phèo” thì thí sinh hầu
như từ đầu đến cuối bài vanh vách kể lại cốt truyện, thậm chí cịn trổ tài học thuộc
trích ln một vài câu ngun văn mà chẳng có ý nghĩa gì. Cũng vậy, đề u cầu
phân tích tình huống.
Đối với tác phẩm thơ thì khơng ít thí sinh sa vào “diễn nôm” lại ý nghĩa của
những câu thơ. Tuy cần phải cắt nghĩa, giảng giải để hiểu rõ thêm, để thấy được
những đặc sắc riêng của câu thơ, bài thơ, nhưng khơng có nghĩa là thí sinh chỉ việc
diễn nơm lại ý nghĩa bài thơ. Câu “Câu thơ này cho thấy, đoạn thơ này nói lên, bài


P a g e | 19


thơ này nghĩa là….” đã trở thành “cơng thức” trong bài làm của khơng ít sĩ tử. Bài
thơ vốn hay, qua tài “chế biến” của “sĩ tử” bỗng trở nên nôm na, sống sượng.

Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài văn được nêu ra
"
dưới hình thức câu khẳng định (hay phủ định), được diễn đạt sáng tỏ, dễ hiểu,
nhất quán"(Ngữ văn 7 tập 2 trang 19). Đó là khái niệm về luận điểm còn đưa ra luận
điểm bằng cách nào thì sách giáo khoa chưa có một phương pháp thật rõ ràng, dễ
hiểu cho học sinh. Một học sinh lớp 7 khó có thể hiểu hết các thuật ngữ mà khái niệm
nêu ra như : quan điểm, tư tưởng…chính vì thể trong bài viết của mình các em cũng
khó có thể trình bày được "tư tưởng, quan điểm" cho đúng, cho "sáng tỏ, dễ hiểu,
nhất quán". Bất kì người giáo viên nào cũng nhận thấy hạn chế của các em về việc
triển khai luận điểm trong bài văn nghị luận dù rằng về lí thuyết các em đọc “vanh
vách”. Hầu hết các em thường trình bày theo cách hiểu của mình chứ chưa biết triển
khai cách hiểu đó một cách logic và khoa học nên ý tứ lộn xộn thiếu rõ ràng và khó
hiểu. Cụ thể các em mắc vào các lỗi sau:
1.1. Bài văn khơng có luận điểm. Một thực tế mà người giáo viên nào cũng
nhận thấy, đó là bài văn của các em khơng có luận điểm, hoặc luận điểm khơng rõ
ràng, có lẽ khi viết, các em thường viết theo suy nghĩ, theo cách hiểu mà các thầy cơ
dậy trên lớp.
1.2. Luận điểm lặp. Có lẽ vì khơng hiểu rõ và hiểu chắc chắn về luận điểm và
vai trò của luận điểm trong bài văn nghị luận nên nhiều em đã mắc lỗi lặp luận điểm
trong bài viết của mình. Biểu hiện của lỗi này đó là các luận điểm hoặc một số luận
điểm trong bài viết của các em giống nhau hoặc gần giống nhau. Chính vì thế nên bài
viết của các em tuy dài nhưng thiếu ý.
1.3. Luận điểm dài dòng. Luận điểm thường chỉ có một câu ngắn gọn, rõ ràng,
cơ đúc và rất dễ hiểu ( Câu nêu luận điểm – câu chủ đề - Ngữ văn 8), ít khi người viết
trình bày hai câu hoặc nhiều hơn nhưng vì khơng hiểu một cách thấu đáo nên nhiều
em trình bày luận điểm rất dài dịng thậm chí mơng lung khó hiểu.



P a g e | 20

2. CÁCH TRIỂN KHAI LUẬN ĐIỂM:
2.1. ĐỐI VỚI TRUYỆN
Có nhiều cách để chúng ta tìm ra luận điểm, nhưng cách dễ nhất cho học sinh
đó là trả lời câu hỏi “NHƯ THẾ NÀO”, trả lời được câu hỏi này có nghĩa học sinh
đã tìm được câu nêu luận điểm (tạm gọi là ý khái quát nhất). Việc còn lại là chọn lọc
dẫn chứng để minh hoạ làm sáng tỏ luận điểm đó.
Chẳng hạn, khi phân tích nhân vật anh thanh niên trong "Lặng lẽ Sapa" ta trả
lời câu hỏi “anh thanh niên là người như thế nào” chúng ta thấy ngay: Đó là người
u cơng việc và hết mình vì cơng việc; Là người rất quan tâm đến người khác; là
người khiêm tốn, giản dị…Mỗi câu trả lời như thế có thể xem đó là một ý khái quát
của luận điểm. Đây chính là đặc điểm nhân vật anh thanh niên mà chúng ta cần phân
tích trong bài văn của mình. Tương tự khi phân tích nhân vật bé Thu trong “chiếc
lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng các em chỉ cần trả lời: “bé Thu là người như thế
nào” các em sẽ có ngay câu trả lời: Thu là em bé hồn nhiên, ngây thơ và có cá tính
mạnh mẽ và em là người con có tình u ba sâu sắc. Thực chất những đặc điểm này
các em đã được thầy cô giáo dạy rất kĩ trên lớp, đây chỉ là thao tác tái hiện lại mà
thôi.
2.2. ĐỐI VỚI THƠ
Đối với dạng đề nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ ta lại trả lời câu hỏi: đoạn
thơ, bài thơ “NĨI VỀ CÁI GÌ”. Chẳng hạn khi phân tích khổ thơ đầu trong văn bản
“Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính”
Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
Chúng ta chỉ cần trả lời câu hỏi “đoạn thơ nói về cái gì”, chúng ta có ngay câu trả
lời đoạn thơ nói về hình ảnh chiếc xe khơng có kính và tinh thần lạc quan, bình

tĩnh, bất chấp gian khó của người lính. Tiếp theo, chúng ta chỉ cần phân tích một số
từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu…để làm sáng tỏ câu chủ đề là được. (Ta gọi là câu nêu
luận điểm- Ngữ văn 8)



×