Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận cao học đường lối công nghiệp hóa của đảng phân tích quan điểm của đảng ta về công nghiệp hóa công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.37 KB, 24 trang )

Mơn: Đường lối cơng nghiệp hóa của Đảng
Đề tài tiểu luận: Phân tích quan điểm của Đảng ta về cơng nghiệp hóa:
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ
tài nguyên môi trường.
Mở đầu
Hiện nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đây là nhiệm vụ trọng tâm bởi chỉ có com đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
mới đưa nước ta trở nên giàu mạnh, đồng thời thực hiện mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội,
từ đó rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển, hòa vào dòng thác chung của
nhân loại. Đại hội VIII của Đảng đã nhận định nước ta đã thoát ra khỏi khủng
hoảng kinh tế, xã hội, nhiệm vụ của thời kỳ đầu là chuẩn bị tiền đề cho cơng
nghiệp hóa cơ bản đã hồn thành cho phép nước ta bước vào thời kì đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đai hóa đất nước. Đảng ta đã đưa ra những quan điểm mới
trong chỉ đạo quá trình thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều
kiện mới. Những quan điểm này được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa
VII và tiếp tục bổ sung hoàn thiện tại các đại hội VIII, IX, X, XI của Đảng. Một
trong những quan điểm cơ bản đó là “Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường”. Việc tìm hiểu và nghiên
cứu rõ quan điểm này giúp ta có cái nhìn khách quan hơn và đồng thời rút ra những
kiến thức cần thiết cho cuộc sống sau này.
Chương I Hoàn cảnh lịch sử khi Đảng ta đề ra đường lối cơng nghiệp
hóa
1 Bối cảnh quốc tế


Quan điểm toàn diện coi bối cảnh quốc tế là một mặt, một mối liên hệ
quan trọng không thể thiếu, có tác động to lớn đến sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta.
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung cũng như
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta nói riêng vẫn tiếp tục phát triển


trong tình trạng kinh tế thế giới diễn biến nhanh chóng và chứa nhiều yếu tố khó
lường.
Thứ nhất, chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ
khiến cho chủ nghĩa xã hội lầm vào tình trạng thối trào nhưng điều đó khơng làm
thay đổi tính chất của thời đại: loài người vẫn đang trong thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn còn tồn
tại và phát triển sâu sắc hơn, nội dung và hình thức có nhiều nét mới. Đấu tranh
dân tộc và giai cấp diễn ra với nhiều hình thức.
Thứ hai, nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng xung
đột có trang, chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang,
hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi.
Thứ ba, cách mạng khoa học và công nghệ vẫn tiếp tục phát triển với
trình độ ngày càng cao hơn, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa kinh tế và đời sống xã hội.
Thứ tư, cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu (khủng
bố, biến đổi khí hậu, ơ nhiễm mơi trường, bùng nổ dân số, chênh lệch giàu nghèo,
bệnh tật hiểm nghèo, bùng nổ dân số,...) mà không một quốc gia đơn lẻ nào có thể
tự giải quyết nên phải hợp tác đa phương giữa các quốc gia.
Thứ năm, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đang có bước phát
triển năng động. Đồng thời khu vực này cũng tồn tại một số nhân tố gây mất ổn


định. Bên cạnh đó, quan hệ quốc tế nổi bật hiện nay là hịa bình, ổn định hợp tác
cùng phát triển, phấn đấu vì hịa bình thế giới.
2 Bối cảnh trong nước
Trước những thay đổi mạnh mẽ của thế giới, nước ta cũng chịu những
tác động mạnh mẽ (cả tiêu cực và tích cực). Đảng ta xác định thời cơ và những
thách thức to lớn đang đặt ta cho đất nước. Thuận lợi là những thành tựu quan
trọng trong công cuộc đổi mới đã tạo ra thế và lực chuyển sang giai đoạn phát triển
cao hơn. Mặt khác, môi trường hịa bình ổn định của khu vực, sự phát triển năng

động của vùng Châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là xu thế hịa bình ổn định
đang trở thành một xu thế chung, chủ yếu của thời đại, thì quan hệ của nước ta đối
với nước ngoài và khả năng hội nhập cộng đồng thế giới được mở rộng hơn bao
giờ hết.
Bên cạnh những thuận lơi, thì nước ta cũng gặp nhiều thách thức lớn
với bốn nguy cơ: nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế, nguy cơ tệ nạn tham nhũng và quan liêu, nguy cơ diễn biến hịa bình
của các thế lực thù địch. Bốn nguy cơ đó được nêu ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994). Các nguy cơ trên đều có mối quan hệ tác động
qua lại lẫn nhau, nên không được xem thường bất cứ nguy cơ nào.


Chương II Nội dung quan điểm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền
với phát triển kinh tế, bảo vệ mơi trường.
1 Khái niệm về Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế tri thức:
Tại hội nghị Trung ương khóa VII (tháng 7-1994) đã ra Nghị quyết
chuyên đề về “phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng giai cấp cơng nhân trong giai đoạn mới”,
trong đó có nêu khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý xã hội từ sử dụng lao
động thủ cơng là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao.
Công nghiệp đã xuất hiện trên thế giới từ thế kỷ XVII – XVIII với đặc
trưng nổi bật là sự thay thế lao động thủ công bằng máy móc. Sau khi máy hơi
nước được phát minh, một loạt các máy móc ra đời. Nơi tập trung nhiều máy móc
đã hình thành nên các cơng xưởng, là tiền đề cho những trung tâm công nghiệp sau
này. Cách mạng công nghiệp bắt đầu từ nước Anh. Đầu tiên là cơng nghiệp nhẹ,
cơng nghiệp nhẹ địi hỏi ngun liệu, mà nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ chủ yếu

là từ nông nghiệp. Vì thế đã thúc đẩy nơng nghiệp phát triển. Sự phát triển của
công nghiệp nhẹ và nông nghiệp làm cho quá trình trao đổi, giao lưu ngày càng
nhiều. Giao thơng vận tải theo đó phát triển mạnh. Giao thơng phát tiển đòi hỏi


phải có máy móc, phương tiện vận tải,... do đó yêu cầu công nghiệp nặng phát
triển. Trải qua thời gian, cơng nghiệp hóa ngày nay phải gắn liền với hiện đại hóa.
Hiện đại hóa là q trình ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa
học công nghệ tiên tiến, hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế - xã hội. Từ giữa thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật,
nay là cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đã diễn ra như vũ bão. Khoa học đã
tham gia trực tiếp vào sản xuất và quyết định tới năng suất lao động. Ứng dụng
khoa học công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất vừa tăng năng suất lao động,
vừa rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với thế giới.
Thực tế cho thấy, sau thời gian dài thực hiện công nghiệp hóa, một
phần do điều kiện lịch sử và do nhận thức của chúng ta nên cơng cuộc cơng nghiệp
hóa của chúng ta gần như đứng ngoài cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, nay là
cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Vì lẽ đó, mà mấy chục năm qua, cơ sở vật
chất, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của nước ta vẫn lạc hậu, chưa đáp ứng được đòi
hỏi của sự phát triển đất nước hiện nay. Vì vậy, cơng nghiệp hóa phải gắn liền với
hiện đại hóa. Cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa là hai nội dung gắn kết với nhau
nhưng không đồng nhất. Chúng ta tranh thủ tối đa khả năng hiện đại hóa, song sự
lựa chọn theo tiêu chuẩn hiệu quả phải phù hợp với điều kiện thực tế, chưa thể bỏ
qua hoàn tồn cơng nghệ truyền thống và những bước cơ giới hóa. Hiện đại hóa là
một bộ phận của tiến trình cơng nghiệp hóa. Do đó văn kiện của Đảng nêu “cơng
nghiệp hóa – hiện đại hóa” chứ khơng viết là cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa để
tránh cách hiểu hai nội dung tách biệt nhau. Có thể hiểu là cơng nghiệp hóa vì
trong cơng nghiệp hóa có nội dung hiện đại hóa, nhưng khơng thể dùng hiện đại
hóa để biểu đạt cho q trình cải biến một có nền sản xuất nông nghiệp thành một
nước công nghiệp.



Kinh tế tri thức là khái niệm mà Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) chính thức nêu ra từ năm 1995 để chỉ từ thập niên 80 của thế kỉ XX – do
tác động của cách mạng công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ năng lượng..., kinh tế thế giới đang
có những biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ cả về cơ cấu, chức năng đang có những biến
đổi sâu sắc, mạnh mẽ cả về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động, tạo nên
một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại sang một thời kỳ phát triển mới. Có rất
nhiều khái niệm để chỉ giai đoạn này: kinh tế mới – New Economy; kinh tế mạng –
Network Economy; kinh tế số hóa – Digital Economy; kinh tế học hỏi – Learning
Economy; kinh tế dựa trên tri thức – Knowledge Economy..., song khái niệm kinh
tế tri thức được dùng phổ biến hơn cả.
Kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội
mà hàm lượng lao động cơ bắp, hao phí lao động cơ bắp giảm đi vô cùng nhiều,
trong khi hàm lượng tri thức, hao phí lao động trí óc lại tăng lên vơ cùng lớn trong
quá trình lao động của từng người lao động và toàn bộ xã hội, trong từng sản phẩm
và trong tổng sản phẩm quốc dân.
Trong khi cả thế giới đang phát triển mạnh mẽ kinh tế tri thức từ lâu
thì tới một vài năm trước Đại hội lần thứ X của Đảng, chúng ta mới bàn đến kinh
tế tri thức và đến Đại hội lần thứ X mới mới khẳng định: cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức.
2 Tính cấp thiết của u cầu phải đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam:
Kinh tế tri thức bắt đầu xuất hiện từ những năm 60-70 của thế kỷ XX
tại các nước công nghiệp phát triển cao. Lúc đó, tại những nước này số lao động tri
thức vượt trên 50% tổng số lao động. Trong bối cảnh tồn cầu hóa thế giới, một số


nước đang phát triển, tuy chưa có cơng nghiệp hiện đại, công nghệ cao nhưng biết

chủ động hội nhập kinh tế, tranh thủ tiếp thu công nghệ cao trên cơ sở nguồn nhân
lực thích hợp thì vẫn có thể bước đầu phát triển kinh tế tri thức. Theo kinh nghiệm
của nhiều nước, phát triển kinh tế tri thức phải tập trung nguồn lực vào bốn hướng
chính sau đây:
-

Nhà nước phải xây dưng thể chế xã hội và chính sách kinh tế năng

động, rộng mở, khuyến khích sáng tạo và ứng dụng có hiệu quả những tri thức
mới. Thúc đẩy kinh doanh, tác động cho doanh nghiệp mới làm ăn phát đạt. Phải
tạo dựng một nền hành chính có hiệu quả, tránh phiền hà, tham nhũng. Giảm mạnh
các chi phí hành chính, góp phần tăng sức mạnh cạnh tranh.
-

Đào tạo nguồn nhân lực tài năng, sáng tạo, biết phối hợp và chia sẻ

ứng dụng những thông tin, tri thức thành sản phẩm có sức cạnh tranh cao.
-

Xây dựng một hệ thống đổi mới hiệu quả, bao gồm các doanh nghiệp,

các trung tâm nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức tư vấn và các tổ chức
khác liên kết, trao đổi thông tin, tri thức với nhau theo những mục tiêu đã xác định.
Họ phải thường xuyên tiếp cận các kho thông tin, tri thức của thế giới (liên tục
được cập nhật) để tích cực xử lý thơng tin, thích nghi hóa các nhu cầu của mình và
từ đó sáng tạo ra cơng nghệ mới.
-

Tích cực xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin và truyền


thông, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển ngành công nghệ cao dẫn đầu này. Tạo
điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá, phổ biến và sáng tạo tri thức.
Bốn hướng trên là bốn trụ cột xây dựng nền kinh tế tri thức mà lãnh đạo mỗi
nhà nước phải chỉ đạo mới có thể thành cơng. Trong tiến trình lịch sử phát triển
của nhân loại, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới đã dẫn tới hình
thái kinh tế mới, con người tiến dần đến kinh tế tri thức là chính. Bởi vậy, kinh tế
tri thức là một tất yếu của lịch sử.


Việt Nam tuy cịn ở trong nền kinh tế nơng nghiệp và là nước đang phát
triển mới đạt ngưỡng thu nhập trung bình nhưng đã biết phát huy đội ngũ cán bộ
khoa học cơng nghệ có năng lực tiếp thu và ứng dụng công nghệ cao, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, nên vẫn có thể rút ngắn thời gian để tiến nhanh hơn. Muốn
vậy, ta phải đồng thời tiếp thu công nghệ cao của phát triển kinh tế tri thức và vận
dụng ngay vào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các lĩnh vực cần thiết. Thực tế
cho thấy, khi chúng ta phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, internet,
mạng viễn thông kỹ thuật số, điện thoại di động,... tức là phát triển một số bộ phận
kinh tế tri thức thì mặc nhiên thúc đẩy hiện đại hóa ở trình độ cao nhiều lĩnh vực
của cơng nghiệp và xây dựng, nơng nghiệp, dịch vụ. Tuy cịn ở trình độ thấp nhưng
kinh tế tri thức của ta đã có sự phát triển. Chúng ta đã nhanh chóng thốt khỏi kinh
tế nơng nghiệp lạc hậu, đang trong q trình tiếp cận ngay với kinh tế tri thức. Do
vậy đã rút ngắn được đáng kể thời gian và bắt nhịp thời đại. Theo đó, việc kết hợp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức vừa là cơ hội, vừa
là yêu cầu trong đổi mới. Đại hội lần thứ X của Đảng chỉ rõ “... tranh thủ các cơ
hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút
ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan
trọng của nền kinh tế và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển mạnh các ngành
kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức”. Như
vậy, lý luận và thực tiễn là căn cứ vững chắc để xây dựng đường lối đúng đắn,

tranh thủ thời cơ, rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước
ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
3 Nội dung và định hướng cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn liền với
kinh tế tri thức:
3.1 Nội dung:


Đại hội X chỉ rõ: “ Chúng ta cần tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn liền với
phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền
kinh tế và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Nội dung cơ bản của quá trình này là:
-

Phát triển mạnh các ngành, sản phẩm có giá trị gia tăng cao dựa nhiều

vào tri thức.
-

Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của các ngành,

nhất là các ngành có sức cạnh tranh cao
Những quan điểm, nội dung cơ bản của việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa –
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn liền với nền kinh tế tri thức là:
-

Cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa là sự nghiệp tồn dân, của mọi thành

phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng nhiều

chủ thể thực hiện, huy động mọi nguồn lực của xã hội cho quá trình cơng nghiệp
hóa rút ngắn theo hướng hiện đại.
-

Tập trung các nguồn lực đẩy nhanh cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa

nơng nghiệp và nơng thơn, phát triển nền nơng nghiệp hàng hóa đa dạng và giá trị
gia tăng ngày càng lớn. Chú trọng công nghiệp chế biến và tăng tiềm lực khoa học
công nghệ, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn.
-

Kết hợp thật tốt nội lực và ngoại lực trong q trình cơng nghiệp hóa

– hiện đại hóa thành một nguồn lực tổng hợp để đẩy mạnh q trình cơng nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước. Theo đó phải chăm lo nguồn lực nội sinh để phát triển
nhanh, mạnh một số ngành cơng nghiệp có tính then chốt trong nền kinh tế quốc


dân để “xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ”. (Văn
kiện Đại hội X, tr.88)
-

Phát huy cao độ nguồn nhân lực tri thức Việt Nam, kết hợp những tri

thức mới của nhân loại, để phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá
trị gia tăng cao, tạo ra sản phẩm hàng hóa Việt Nam có thương hiệu trên thị trường
trong và ngoài nước.
3.2 Định hướng các ngành và lĩnh vực kinh tế trong q trình cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn liền với kinh tế tri thức:

a)

Nơng nghiệp:

Nơng nghiệp là nơi cung cấp lương thực, nguyên liệu và lao động cho công
nghiệp và thành thị, là thị trường rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn
chiếm đa số dân cư ở thời điểm bắt đầu công nghiệp hóa. Vì vậy, quan tâm đến
nơng nghiệp, nơng thơn và nông dân là vấn đề quan trọng hàng đầu trong q trình
cơng nghiệp hóa.
Ở nước ta, trong những năm qua, vấn đề cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp nơng thơn là được đặt ở vị trí quan trọng. Trong những năm tới, định hướng
để phát triển quá trình này là:
-

Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo

ra giá trị ngày càng cao, gắn liền với công nghiệp chế biến và thị trường; đẩy
nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao
năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nơng sản hàng hóa trên thị trường, phù
hợp với từng vùng, từng địa phương.
-

Tăng nhanh tỉ trọng giá trị sản phẩm và lao động ngành công nghiệp

và dịch vụ, giảm tỉ trọng sản phẩm và lao động ngành nông nghiệp.
b)

Công nghiệp:



-

Khuyến khích phát triển cơng nghiệp cơng nghệ cao, cơng nghiệp chế

tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều
sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và
đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả các khu cơng nghiệp chế xuất.
-

Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển các ngành

công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản
xuất theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút vốn đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn
nước ngoài và các tập đoàn đa quốc gia.
-

Tích cực thu hút vốn trong và ngồi nước để đầu tư thực hiện các dự

án quan trọng để khai thác dầu khí, lọc dầu và hóa dầu luyện kim, cơ khí chế tạo,
hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa
bưu chính viễn thơng.
c)

Dịch vụ

-

Tạo bước phát triển vượt bậc cho ngành dịch vụ, nhất là ngành dịch

vụ có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh cao, đưa ngành dịch vụ

có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng GDP.
-

Tận dụng tốt thời cơ hội nhập để tạo bước phát triển ngành “công

nghiệp khơng khói” này.
-

Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng ngành dịch vụ truyền thống

như thương mại, vận tải, ngân hàng, bưu chính viễn thơng, du lịch. Phát triển mạnh
các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở khu vực
nông thôn.


Chương III: Thực trạng của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.
1 Thực trạng quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong thời gian qua:
Q trình cơng nghiệp hóa ở nước ta được thực hiện từ đầu những năm 60
của thế kỉ XX. Hơn 50 năm qua, đường lối cơng nghiệp hóa đất nước đã có những
điều chỉnh khá cơ bản theo sự phát triển của tư duy và điều kiện cụ thể.


Thời kỳ từ năm 1960 đến năm 1985 là thời kỳ cơng nghiệp hóa được thực
hiện nhằm phục vụ cho nền kế hoạch hóa tập trung. Q trình cơng nghiệp hóa
được thực hiện có kết quả ở miền Bắc vào những năm đầu của kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất (1960-1965). Sau khi đất nước được thống nhất, đường lối chính sách
cơng nghiệp hóa đó được thực hiện trên phạm vi cả nước với những điều chỉnh và
bổ sung nhất định. Song, do việc duy trì khá lâu cơ chế kế hoạch hoá tập trung

trong bối cảnh kinh tế trong nước và trên thế giới đã thay đổi, nên nước ta đã lâm
vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm 80 của thế kỷ XX.
Từ năm 1986 đến nay là thời kỳ thực hiện đổi mới toàn diện và đồng bộ cả
về tư duy, quan điểm đường lối và tổ chức chỉ đạo thực hiện. Đường lối cơng
nghiệp hóa đã có những điều chỉnh và bổ sung quan trọng. Năm 1994, tại Hội nghị
đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng đã đề ra đường lối đẩy tới
một bước cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm 1996, Đại hội lần thứ VIII của Đảng
đề đường lối đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ sau Đại hội lần
thứ IX của Đảng (năm 2009) đến nay, đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa được gắn với phát triển kinh tế tri thức.
1.1 Thành tựu:
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam thời gian qua đã đạt
được những thành tựu quan trọng. Nổi bật là trình độ cơng nghệ của một số lĩnh
vực được nâng cao theo kịp trình độ của các nước trong khu vực. Đã phát triển một
số ngành công nghiệp chất lượng cao (công nghệ thơng tin và truyền thơng, điện
tử,...). Trình độ cơng nghệ trong các ngành cơng nghiệp đã có những tiến bộ vượt
bậc, điển hình như trong cơ khí chế tạo máy, đã làm chủ được các công nghệ CAD,
CAM, CNC trong thiết kế chế tạo các loại máy công cụ như máy phay CNC, máy
tiện,... đa chức năng tiêu thụ trong nước và bước đầu xuất khẩu; ngành đóng tàu
sau 15 năm đã rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với thế giới từ 70-80 năm xuống


còn 20-30 năm, hiện được đánh giá thứ năm thế giới về năng lực đóng mới. Cả
nước đã có 286 khu cơng nghiệp, khu chế xuất được thành lập, đóng vai trị quan
trọng và có tác động lan tỏa trong phát triển công nghiệp của các vùng, miền, địa
phương. Trong nông nghiệp, nhờ đưa vào áp dụng những thành tựu mới của khoa
học công nghệ, nên năng suất lao động, năng suất cây trồng, vật ni đã tăng lên.
Đã hình thành các vùng chuyên canh lúa gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, thủy sản,
rừng nguyên liệu. Từ một nước phải nhập khẩu hàng triệu tấn lương thực, đến nay
Việt Nam đã có một số hàng nơng sản xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới (xuất khẩu

hạt điều xếp thứ nhất thế giới; xuất khẩu gạo, cà phê xếp thứ hai; hạt tiêu, chè xếp
thứ năm; thủy sản xếp thứ 10). Ngành dịch vụ được phát triển đa dạng, tăng khá
nhanh về quy mô, ngành nghề và thị trường với sự tham gia mạnh mẽ của các
doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế.
Nhờ đó, từ chuyển sang thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đến nay,
nước ta đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các giai đoạn trước đó và được
xếp vào nhóm những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng bình qn hằng năm cao
nhất thế giới. Theo chỉ tiêu GDP bình quân đầu người, năm 2009, Việt Nam đã
vượt qua ngưỡng nghèo để tham gia vào nhóm các nước có thu nhập trung bình;
thành tựu xóa đói, giảm nghèo được thế giới thừa nhận là ấn tượng,...
1.2 Khó khăn, thách thức:
Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp và chưa bền vững; tăng
trưởng kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên và sử dụng nhiều lao
động, ít kỹ năng, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học cơng nghệ. Chỉ số kinh tế
tri thức cịn rất thấp, chưa đạt được điểm trung bình. Theo phương pháp đánh giá
do Viện Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra, Chỉ số kinh tế tri thức
của Việt Nam năm 2008 là 3,02, xếp thứ 102 trong số 133 quốc gia được phân tích.
Chỉ số này của Việt Nam tuy hơn nhiều so với chỉ số của nhóm nước thu nhập


trung bình thấp. So với các nước trong khu vực, chỉ số kinh tế tri thức của nước ta
chưa bằng ½ chỉ số đạt được của nhóm các nước và vùng lãnh thổ công nghiệp
mới (NICs) như: Hàn Quốc, Xingapo, Đài Loan, Hông Kông, thấp hơn khá nhiều
so với Malaisia, Thái Lan, Trung Quốc và Philippin. Năng suất lao động của Việt
Nam tuy đã có chiều hướng tăng (tốc độ tăng năng suất bình quân giai đoạn 20012010 đạt khoảng 4,8%/năm), nhưng vẫn còn thấp hơn so với năng suất lao động
của Trung Quốc khoảng 2,6 lần và Thái Lan 4,3 lần. Khả năng cạnh tranh của sản
phẩm, của doanh nghiệp và của nền kinh tế còn thấp do chi phí sản xuất của nhiều
sản phẩm cịn ở mức cao. Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch chậm và thiếu vững
chắc; tính hiện đại cịn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu. Hệ thống dịch vụ hỗ trợ
phát triển sản xuất vừa thiếu, vừa yếu và kém hiệu quả. Sự chuyển dịch cơ cấu lao

động cịn mang tính tự phát, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng hiệu quả. Việc sử dụng nguồn lực của nền kinh tế chưa có hiệu quả,
cịn nhiều lãng phí. Mức sống của người dân ở nhiều nơi cịn khó khăn.
1.3 Biện pháp
- Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực có vai trị quyết định tốc độ và chất lượng của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức, cần phải có trình độ dân trí cao, người lao động có khả năng
sáng tạo cao hơn, ham muốn học hỏi một cách tự giác, có khả năng thích ứng và
tính linh hoạt cao. Muốn vậy, phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao
dân trí, đào tạo nhân tài, ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo, thực sự coi đó là quốc
sách hàng đầu. Nâng cao chất lượng toàn diện cho người lao động. Phải tạo ra
được đội ngũ nhân lực có lịng tự trọng, tự tơn dân tộc, có tinh thần trách nhiệm và
ý thức cộng đồng khi thực hiện các cơng việc được giao; phải có trình độ chun
mơn vững vàng, có phương pháp và kỹ năng thực hành đảm bảo năng suất, chất


lượng và hiệu quả cơng việc được giao; có sự năng động và sáng tạo trong cơng
việc, có ý thức tự giác học hỏi, dám đương đầu với những thách thức và có sức
khỏe tốt.
Do đó, phải tiến hành cải cách tồn diện giáo dục đào tạo, coi đó là
nhiệm vụ cấp bách. Phải chuyển trọng tâm của việc giáo dục từ trang bị tri thức
sang bồi dưỡng, rèn luyện phương pháp tư duy, phương pháp giải quyết vấn đề,
năng lực sáng tạo, khả năng tự đào tạo, thích nghi với sự phát triển. Theo hướng
này, cần bổ sung và hoàn thiện chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo để phát
triển kinh tế tri thức phục vụ thiết thực cho nhiệm vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Xây dựng xã hội học tập dưới nhiều hình thức và biện pháp như trung tâm học
tập cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên, giáo dục từ xa, đào tạo mở,... tạo
cơ hội và khuyến khích mọi người tham gia học tập, nâng cao tính chủ động cho
người học trên cơ sở gắn kết những yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Bảo đảm đổi mới quản lý giáo dục và đào
tạo, nhất là đổi mới quản lý chất lượng giáo dục và đào tạo phải là khâu đột phá.
-

Phát triển khoa học công nghệ

Khoa học công nghệ là động lực, quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ
phát triển của tồn bộ q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức. Thực chất của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là phát triển
khoa học công nghệ. Đảng ta xác định khoa học công nghệ cùng với giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
-

Tạo lập nguồn vốn đầu tư cho đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại

hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức


Vốn là các giá trị của cải do con người tạo ra và tích lũy lại. Nó có thể tồn
tại dưới dạng vật thể hoặc vốn tài chính. Vốn là điều kiện quan trọng nhất để đảm
bảo việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
trở thành hiện thực.
Vốn được tạo lập từ hai nguồn tích lũy trong nội bộ nền kinh tế (trong
nước) và thu hút từ bên ngoài (nước ngoài và các tổ chức kinh tế quốc tế). Về cơ
bản, lâu dài, vốn trong nước là chủ yếu và quyết định, vốn từ bên ngoài là rất quan
trọng, nhất là thời kỳ đầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Việc tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế được thực hiện trên cơ sở nâng
cao hiệu quả sản xuất, nguồn của nó là lao động thặng dư của người lao động thuộc
mọi thành phần kinh tế. Tăng năng suất lao động xã hội là con đường cơ bản để

giải quyết vấn đề tích lũy vốn trong nước. Đồng thời, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa tích lũy vào tiêu dùng trong nhân dân trên quan điểm tiết kiệm là quốc sách.
Sử dụng đồng vốn đầu tư có hiệu quả từ ngân sách nhà nước và trái phiếu chính
phủ. Chống lãng phí, thất thốt vốn.
Để thu hút các nguồn vốn bên ngoài, phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế
mở cửa nền kinh tế, phải sử dụng nhiều hình thức như thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, vay vốn, hợp tác liên doanh, thành lập các đặc khu kinh tế, các khu kinh tế
mở,...đi đơi với kiện tồn hệ thống pháp luật về kinh tế đối ngoại, thực hiện hợp lý
các chính sách ưu đãi, tạo mơi trường và điều kiện thuận lợi để các nước và tổ
chức nước ngoài vào nước ta hợp tác đầu tư. Tạo cơ chế, chính sách để phát triển
thị trường vốn trong nước và hội nhập với thị trường vốn quốc tế trong xu thế tồn
cầu hóa kinh tế.
-

Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế


Cuộc cách mạng khoa học công nghệ cùng với xu hướng tồn cầu hóa kinh
tế đã và đang tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các
nước. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế là một đòi hỏi thiết yếu. Điều
này sẽ tạo ra khả năng và điều kiện để nước ta có thể tranh thủ vốn, kỹ thuật, cơng
nghệ từ bên ngồi để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức.
Tuy nhiên, để việc trên trở thành hiện thực, cần phải tiếp tục hồn cơ
chế, chính sách, nhất là cơ chế, chính sách hợp tác về khoa học cơng nghệ, hợp tác
đầu tư, hợp tác giáo dục, đào tạo để phát triển nhân lực và phải đảm bảo các hình
thức hợp tác vừa có hiệu quả kinh tế cao, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, vừa giữ vũng độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia dân tộc.
-


Bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa tăng cường vai trò lãnh đạo của

Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước với phát huy đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của tồn Đảng, tồn dân. Vì thế,
sự đồng thuận xã hội là điều kiện có ý nghĩa quyết định. Để tạo lập tiền đề này, cần
phải phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời phải tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Các chính sách của Nhà nước phải đảm bảo định hướng có hiệu quả tồn bộ
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, kích
thích được động lực của người dân và các doanh nghiệp. Phải đặt tồn bộ sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức của đất
nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để hoàn thành tốt vai trò này, Đảng phải đi tiên
phong trong công cuộc đổi mới, Nhà nước phải nâng cao năng lực hoạch định và


thực thi chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý đối với tồn bộ tiến trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
.
2 Thực trạng q trình cơng nghiệp hóa gắn với bảo vệ mơi trường
2.1 Thực trạng môi trường nước ta sau 25 đổi mới
Sau 25 đổi mới, nước ta đã bước ra khỏi nhóm nước nghèo nàn và gia nhập
vào nhóm nước có thu nhập trung bình vào năm 2010. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu vượt bậc ấy, nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng về
môi trường. Theo thống kê của Bộ tài ngun và Mơi trường, hiện nước ta có hơn
4000 cơ sở sản xuất, hơn 1500 làng nghề gây ô nhiễm, hơn 200 khu công nghiệp
cần được kiểm soát về khả năng gây ô nhiễm. Thực tế là ô nhiễm khơng khí, ơ
nhiễm nguồn nước khơng chỉ có ở các khu đơ thị, khu cơng nghiệp mà cịn cả ở
những vùng nông thôn; đa dạng sinh học tiếp tục bị suy giảm; biến đổi khí hậu và
nước biển dâng gây ra triều cường và những hậu quả khôn lường; thành quả phát

triển của địa phương sau nhiều năm có thể bị xóa sạch sau một đợt thiên tai.
2.2 Nội dung cơng nghiệp hóa gắn với bảo vệ mơi trường:
2.2.1 Chủ trương của Đảng:
Ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41 – NQ/TW “Về bảo
vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã
khẳng định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Năm 2005, Quốc hội
thông qua Luật bảo vệ môi trường. Tại đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung bảo vệ
môi trường được nâng lên một tầm cao mới gắn liền với q trình cơng nghiệp hóa
– hiện đại hóa: “Đưa nội dung bảo vệ mơi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế


hoạch phát triển ngành lĩnh vực, vùng và các chương trình đầu tư”. Một điểm mới
so với Đại hội X là “chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường;
từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
2.2.2 Thực trạng ở nước ta:
a) Các khu cơng nghiệp:
Q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đã đặt ra nhiều vấn đề cấp
thiết đối với môi trường. Chỉ tiêu GDP gấp 2,2 lần trong 10 năm với mức tăng
trưởng công nghiệp là 13% sẽ làm trầm trọng hơn tình trạng ơ nhiễm mơi trường
tại các khu công nghiệp và khu đô thị; việc công nghiệp hóa – hiện đại hóa gây ra
những ảnh hưởng không thể bỏ qua đối với môi trường. Số liệu của Ủy ban khoa
học – công nghệ - môi trường cho thấy, mới có hơn 60 khu cơng nghiệp có trạm xử
lý nước thải tập trung (chiếm 42% khu công nghiệp đã vận hành). Mỗi ngày, các
khu công nghiệp thải ra 30.000 tấn chất thải độc hại ra môi trường. Hầu hết các
cụm, điểm, khu công nghiệp chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn môi trường.
b) Khu vực nông nghiệp, nơng thơn:
Đẩy mạnh tiến trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nơng thơn là
động lực lớn trong phát triển các làng nghề. Theo thống kê, cả nước có 1500 làng
nghề tạo ra 11 triệu việc làm thường xuyên và không thường xuyên. Tuy nhiên do

sản xuất tự phát và sử dụng công nghệ lạc hậu nên phần lớn các làng nghề đều gây
ô nhiễm môi trường. Một cuộc kiểm tra của Bộ y tế trên 3 tỉnh Hưng Yên, Nam
Định, Bắc Ninh đã cho ra kết luận, hầu hết các làng nghề đều khơng có hệ thống
xử lý nước thải và kiểm sốt chất rắn.
c) Đơ thị hóa



×