ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN
BÀI TẬP CHUYÊN ĐỀ MÔN HỌC
NHẬP MÔN VĂN HỌC SO SÁNH
Đề tài:
NHÂN VẬT TRẠNG
TRONG TRẠNG QUỲNH (VIỆT NAM)
VÀ XIÊNG MIỆNG (LÀO)
1
MỤC LỤC
1. TỪ LOẠI HÌNH TRUYỆN TRẠNG ĐẾN TRUYỆN TRẠNG VIỆT NAM
VÀ
TRUYỆN TRẠNG LÀO...................................................................................................................4
1.1. Xác định loại hình truyện trạng................................................................................................4
1.2. Truyện trạng tại Việt Nam........................................................................................................6
1.3. Truyện trạng tại Lào..................................................................................................................7
2. NGUYÊN NHÂN - MỤC ĐÍCH SO SÁNH................................................................................9
2.1. Ngun nhân ngồi văn bản......................................................................................................9
2.1.1. Sự tương đồng về hình thái kinh tế - xã hội...........................................................................9
2.1.2. Giao lưu - ảnh hưởng trong văn học....................................................................................10
2.2. Sự tương đồng về kết cấu và nội dung phản ánh..................................................................11
2.2.1. Kết cấu truyện........................................................................................................................11
2.2.2. Nội dung phản ánh................................................................................................................12
2.3. Mục đích so sánh......................................................................................................................13
3. ĐỐI CHIẾU NHÂN VẬT TRẠNG QUỲNH VÀ XIÊNG MIỆNG........................................13
3.1. Đặc điểm kiểu nhân vật trạng trong loại hình truyện trạng................................................13
3.2. Đối chiếu hai nhân vật Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng.........................................................14
3.2.1. Mở đầu và kết thúc.................................................................................................................14
3.2.2. Đối tượng đả kích...................................................................................................................16
3.2.3. Ngơn ngữ - hành động...........................................................................................................18
3.2.4. Motif truyện............................................................................................................................20
2
4. TẠM KẾT....................................................................................................................................22
Danh mục tài liệu tham khảo..........................................................................................................24
3
1. TỪ LOẠI HÌNH TRUYỆN TRẠNG ĐẾN TRUYỆN TRẠNG VIỆT NAM
VÀ
TRUYỆN TRẠNG LÀO
1.1. Xác định loại hình truyện trạng
Vấn đề xác định tên gọi “truyện trạng” được Trương Sỹ Hùng đề cập trong
Truyện trạng Đông Nam Á năm 1987 - thuật ngữ “truyện trạng” dần được sử
dụng rộng rãi trong giới nghiên cứu, song song với một cách gọi khác là “kiểu
truyện nhân vật thông minh, láu lỉnh”. Trong khi Trương Sỹ Hùng chỉ xác định
“truyện trạng” trong khu vực Đông Nam Á, một nghiên cứu khác của Nguyễn
Ngọc Chiến (2013) mở ra nhiều vấn đề hơn trong “kiểu truyện nhân vật thông
minh, láu lỉnh” - cụ thể trường hợp truyện Kim Sondal của Triều Tiên đặt trong so
sánh với Trạng Quỳnh của Việt Nam, tác giả cũng đề cập đến “chuỗi truyện
Nasreddin lưu truyền tại nhiều quốc gia ở Trung Đông, Trung Á, và một phần
của châu Âu,…” (Nguyễn Ngọc Chiến, 2019, tr.20). Nghiên cứu này đã cho thấy
vùng khơng gian rộng lớn mà loại hình “truyện trạng” có thể đã có ở nhiều nền
văn hố ngồi khu vực Đông Nam Á. Theo Vũ Ngọc Khánh, truyện trạng ra đời
và phát triển từ khi có trạng - mà truyện trạng nguyên nguyên bản từ buổi đầu dần
về sau đã đổi khác nhiều để phục vụ cho thời cuộc, c n “chuyện về con người
thông minh, tài giỏi, những người láu lỉnh khơng ngoan thì lại có trước đã lâu
rồi” - vậy có thể thấy, “truyện trạng” mà chúng ta biết đến trong các nghiên cứu
của Trương Sỹ Hùng, Nguyễn Ngọc Chiến,… vốn là sự kết hợp giữa “truyện
trạng nguyên nguyên gốc”1 và “truyện về người thông minh láu lỉnh”.
Trở lại với quan điểm của Trương Sỹ Hùng (2018), tại Đông Nam Á, truyện
trạng được xem là thể loại của văn học dân gian, “đã có vị trí nhất định, đã trở
thành tiềm thức ứng xử văn hoá” dân tộc (tr.5) - đơn cử có thể kể đến Việt Nam
với Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Lào với Xiêng Miệng, Campuchia với Th’mênh
1 Theo cách gọi của Vũ Ngọc Khánh, tức những chuyện “người thật việc
thật” - tức viết về những ông trạng nguyên thật.
4
Chây, hay Sỉ Tha Nôn Chay của Thái Lan - phần lớn các tác phẩm lưu truyền
dưới dạng truyền khẩu - về sau được văn bản hoá và rất phổ biến trong nhân dân.
Trong Truyện trạng Đông Nam Á (Trương Sỹ Hùng, 2018), truyện trạng tại
Đơng Nam Á được hình thành để phản ánh “khơng khí lịch sử thực tiễn” thường ra đời trong giai đoạn nhiễu nhương1, “Những ông trạng dân gian mang
một lý tưởng thẩm mỹ do thời đại chi phối” (Nguyễn Chí Bền, 2000, tr.53), đồng
thời có kết cấu đặc trưng gồm một chuỗi nhiều tiểu truyện - vừa có tính liên kết
bởi sự xuất hiện liên tục của nhân vật “trạng”, vừa có thể được thưởng thức như
một tác phẩm độc lập2. Nhân vật trung tâm của truyện trạng là “người thông
minh nghịch ngợm trong nhiều hồn cảnh, nhiều mơi trường sống khác nhau.
[…] giống nhau về sự thơng minh, tài trí, có thể đặt ra nhiều cái bẫy để đối
tượng là những kẻ giàu có, quyền thế nhưng bất tài, kiêu ngạo phải ngậm ngùi
nhận lấy phần thất bại trong tiếng cười chế giễu của người đời.” (Theo Nguyễn
Ngọc Chiến, 2013, tr.31). Lưu ý khái niệm “trạng” được đặt ra bởi các nhà
nghiên cứu Việt Nam trong quá trình đặt các truyện trạng của Việt Nam bên cạnh
các tác phẩm có nội dung và kết cấu tương tự (của cả văn học Việt Nam và văn
học thế giới), các nhân vật Xiêng Miệng (Lào) hay Th’mênh Chây (Campuchia),
… đều không được xưng “trạng” như Việt Nam.
Sở dĩ nhiều nhà nghiên cứu đặt truyện trạng thành một thể loại riêng trong
hệ thống thể loại văn học dân gian là bởi sự tương đồng chính trong đặc điểm thể
loại và sự tương đồng của truyện trạng với các thể loại khác thuộc bộ phận văn
học dân gian. Trong tiểu loại truyện trạng, sự tương đồng rất dễ nhận thấy ở đặc
điểm về nội dung (đả kích những thói hư tật xấu, giới cầm quyền đàn áp nhân
dân, những kẻ kịch giả xấu xa trong xã hội, thể hiện ước mơ của nhân dân) và kết
cấu (nhiều mẩu truyện vừa độc lập vừa liên kết với tổng thể, Trương Sỹ Hùng gọi
1 Trương Sỹ Hùng đã đề cập đến bối cảnh lịch sử ra đời của 3 truyện trạng
Đông Nam Á cụ thể là Trạng Quỳnh (Việt Nam), Xiêng Miệng (Lào) và
Th’mênh Chây (Campuchia) và chỉ ra sự tương đồng.
2 sau này trong các nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Chiến, tác giả cho thấy
các “truyện về nhân vật thơng minh láu lỉnh” trên thế giới cũng có kết cấu
tương tự.
5
đây là tính “đại đồng tiểu dị” đã tạo điều kiện cho truyện trạng dễ dàng lưu
truyền trong dân gian). Những đặc điểm này đã tách biệt truyện trạng khỏi các
loại hình tự sự dân gian khác - mà từng có thời gian truyện trạng đã bị xếp vào
như cổ tích, giai thoại, ngụ ngơn, truyện cười,… (theo Nguyễn Ngọc Chiến,
2019).
Về đặc điểm trong văn phong, truyện trạng thường được xây dựng với lối
viết gần gũi, thân thuộc, dễ tiếp cận, tình tiết gay cấn, có giá trị thẩm mỹ, phản
ánh lịch sử và mang tính giáo dục cao. Mỗi quốc gia sẽ có cách xây dựng hình
tượng trạng có những đặc điểm độc đáo riêng biệt phản ánh những giá trị văn
hố, từ đó phần nào phác hoạ những nét đặc trưng trong căn tính dân tộc. Bên
cạnh truyền khẩu, việc văn bản hố truyện trạng đã đóng góp vào nền văn học, và
góp phần phản ánh những giá trị ngôn ngữ văn chương độc đáo của từng dân tộc.
Truyện trạng ra đời chính là sự đấu tranh tiến bộ trong tư tưởng người dân
mỗi quốc gia. Văn học - từ truyện trạng đã sớm trở thành vũ khí để người dân cất
lên tiếng nói tự do, thẳng thắn của mình trước những rối ren, xấu xa của thời
cuộc. Nhân vật “trạng” được phóng đại lên với tài trí hơn người, mang đậm ước
mơ, khao khát của nhân dân về một xã hội công bằng, tốt đẹp hơn.
1.2. Truyện trạng tại Việt Nam
Thời điểm ra đời truyện trạng tại Việt Nam chưa được xác định, theo Vũ
Ngọc Khánh (2005), truyện trạng ra đời từ khi có trạng - mà thông tin học vị
trạng tại nước ta ghi nhận sớm nhất từ thời Tiền Lý nhưng chưa chứng thực
(trạng nguyên Tống Trân, sử thi truyền tụng, tr.5), vậy truyện trạng ra đời từ thời
điểm nào khơng có thơng tin cụ thể. Là một loại hình của văn học dân gian,
truyện trạng được ra đời và phát triển trong nhân dân từ những tiếng cười ca ngợi
ban đầu phát triển đến tiếng cười đả kích, châm biếm. Đồng thời, vì được lưu
truyền rộng rãi trong nhân dân qua phương thức truyền khẩu, nên truyện trạng ít
nhiều có sai lệch, cải biến, có thể thêm bớt, cũng có thể sửa đổi để phù hợp với
đặc điểm từng vùng miền. Có những truyện bị đan xen, chồng chéo lên nhau qua
thời gian lưu truyền, khiến truyện của ông trạng này thành truyện của ông trạng
6
kia, mà theo Vũ Ngọc Khánh (2005), “không cần thiết phải cải chính” - những
đặc điểm này đã đem lại sự đa dạng, màu sắc, đậm chất dân gian cho các chuỗi
truyện trạng hiện c n sưu tầm được ở Việt Nam, có thể xem đây là con đường mà
truyện trạng nguyên bản đã phát triển trở thành truyện trạng dân gian như chúng
ta vẫn quen thuộc ngày nay.
Trong quá trình đi vào dân gian, truyện trạng được sáng tạo và thay đổi rất
nhiều, từ ông trạng thật đến những người khơng phải trạng - có thể là nhà trí thức
không đỗ trạng nguyên nhưng được nhân dân tôn làm trạng, đến cả những người
khơng thuộc giới trí thức nhưng thơng minh tài trí; từ những chuyện thực tế đến
những chuyện có yếu tố ly kỳ, huyền thoại hố. Kho tàng truyện trạng dân gian
Việt Nam thật sự rất lớn, chỉ riêng những Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Trạng Ninh,
Trạng Tộ, Trạng Quét,… với số lượng truyện riêng của từng trạng đã là rất nhiều,
đó là chưa kể đến những ơng trạng ít phổ biến hơn như Trạng Trịnh, Trạng
Khiếu, Trạng Tư Thiên, Trạng Bờ Ao, Trạng Gầu,… mà số lượng này đến nay c
n chưa thống kê hết.
Truyện trạng dân gian Việt Nam ở mỗi chuỗi truyện là những nội dung,
những đặc trưng riêng biệt, nhưng như cách nói của Trương Sỹ Hùng, trong khi
mỗi mẩu truyện nhỏ được đặt trong cái chung lớn của tồn bộ chuỗi truyện, thì tất
cả các truyện trạng Việt Nam đều mang “diện mạo chung” trong tính “đại đồng dị
tiểu” của loại hình truyện trạng. Đó là sự đặc trưng về kết cấu truyện, về nội dung
phản ánh. Chính kết cấu đặc biệt đã “khu biệt kiểu truyện với nhiều thể loại tự sự
dân gian khác” (Nguyễn Ngọc Chiến, 2013, tr.31). Nội dung truyện trạng đa
phần hướng tới đả kích những vấn đề trong xã hội, đả kích giai cấp cầm quyền,
nỗ lực đ i lại công bằng cho nhân dân,…
Trước khi khái niệm truyện trạng ra đời, các truyện trạng dân gian Việt
Nam thường được xếp loại rải rác trong nhiều tiểu loại khác của văn học dân gian
- từ giai thoại (Trạng Quỳnh, Trạng Tộ,…), cổ tích (Trạng Quét, Trạng Khiếu,…)
đến truyện cười, truyện tiếu lâm,… Phát triển từ truyện trạng nguyên - các truyện
trạng dân gian được sáng tạo dựa trên yếu tố gây cười - nhằm mang lại tiếng cười
7
vui vẻ, hóm hỉnh, về sau phát triển thành tiếng cười châm biếm, đả kích xã hội.
Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định truyện trạng có rất nhiều điểm dị biệt và đặc
trưng so với các tiểu loại khác - trong nghiên cứu năm 2019, Nguyễn Ngọc Chiến
đã cụ thể so sánh truyện trạng có tính phân biệt với cổ tích, ngụ ngơn và truyện
cười. Vậy, tuy có những yếu tố có thể xem là tương đồng, như nhân vật trạng của
giai thoại, yếu tố thần kì của cổ tích, tính chất giáo dục của ngụ ngôn và chức
năng gây cười của truyện tiếu lâm - thì truyện trạng vẫn khác biệt và hồn tồn có
thể trở thành một thể loại văn học dân gian riêng biệt. Dù vậy, vẫn c n nhiều điểm
chưa thống nhất để đi đến một đích chung trong việc xác định đúng đắn về loại
hình truyện Trạng.
Đến nay, thể loại truyện trạng Việt Nam vẫn đang trên con đường “chứng
minh tư cách độc lập” của chính nó (theo Nguyễn Ngọc Chiến, 2019). Truyện
trạng đã đi quãng đường rất dài, rất xa từ những chuyện đời thật đến thể loại
truyện trạng dân gian mà nước ta c n lưu giữ được đến ngày nay. Truyện trạng
Việt Nam trong suốt quá trình này vẫn miệt mài phản ánh những giai đoạn lịch
sử, thể hiện ước mơ, căn tính con người Việt Nam trước bối cảnh thời đại.
1.3. Truyện trạng tại Lào
Các nghiên cứu cụ thể về tiểu loại truyện trạng ở Lào khơng nhiều, cá biệt
có nghiên cứu của Nguyễn Thị Lý (2021) - Ảnh hưởng của Phật giáo đối với kiểu
truyện về chú Tiểu thông minh trong truyện cổ Lào đã làm khá rõ những đặc điểm
của truyện trạng Lào trong tương quan ảnh hưởng Phật giáo. Trong phần này,
chúng tôi sử dụng nghiên cứu của Nguyễn Thị Lý làm nền tảng khảo sát truyện
trạng tại Lào.
Truyện trạng tại Lào khơng có số lượng lớn, các nhà nghiên cứu hiện nay
khi khảo sát tiểu loại này thường chỉ đề cập đến truyện Xiêng Miệng như một tác
phẩm tiêu biểu. Thực tế, đây là kiểu truyện về nhân vật thơng minh, láu lỉnh mà
cụ thể qua hình tượng chú Tiểu thông minh (Nguyễn Thị Lý, 2021). Các truyện
này cũng tương đồng với khái niệm truyện trạng mà các nhà nghiên cứu Việt
Nam đề ra, bên cạnh đó, truyện Xiêng Miệng của Lào cũng trở thành một bộ phận
8
của văn học dân tộc Việt Nam, theo “trường hợp Thơ Mênh Chây và Xiêng
Miệng vốn là hai chuỗi truyện lưu hành ở Lào, Campuchia và hai dân tộc thiểu
số ở Việt Nam là Lào, Khơme. Nó vừa là tài sản riêng của tộc người, vừa là tài
sản chung của ba quốc gia Đơng Nam Á.”.
Truyện Xiêng Miệng có nội dung chính là cuộc đấu trí của nhân vật chú
Tiểu với các nhân vật khác, thơng qua đó, truyện phản ánh được những đặc tính
căn bản của dân tộc, đồng thời cho thấy những đặc trưng ngôn ngữ riêng biệt của
dân tộc Lào. Khơng có thơng tin cụ thể về thời điểm thể loại truyện trạng xuất
hiện trong văn hoá dân gian Lào, Trương Sỹ Hùng (2018) đề cập đến bối cảnh
nước Lào cũng như bối cảnh chung Đông Nam Á từ giữa thế kỷ XVI, khi chế độ
phong kiến ngày càng mục ruỗng, thối nát để “thấy rõ hơn vai tr nhân chứng
của loại hình truyện trạng” (tr.13), tại Lào, Trương Sỹ Hùng cụ thể thời gian của
Xiêng Miệng là vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII - tuy nhiên truyện trạng có
bắt đầu xuất hiện đúng vào thời gian này khơng thì khơng đề cập. Như nghiên
cứu của Vũ Ngọc Khánh (2005), truyện trạng nước ta có thể đã xuất hiện từ rất
lâu, thậm chí sớm nhất có thể từ thời Tiền Lý - vậy khả năng rất cao ở Lào cũng
đã sớm xuất hiện kiểu truyện về chú Tiểu thông minh, láu lỉnh cùng với sự du
nhập Phật giáo.
“Truyện dân gian có bề dày gắn liền với lịch sử ra đời của Đạo Phật ở
Lào” (Nguyễn Thị Lý, 2021) - là một bộ phận của văn học dân gian, các truyện
trạng của Lào thể hiện sự ảnh hưởng Phật giáo sâu sắc. Phật giáo du nhập vào
Lào vào khoảng thế kỷ VIII, từ đó đã trở thành “sự hiện thân của văn hoá và lối
sống của người Lào” (Thích Quảng Tâm, 2022). Phật giáo chi phối mọi mặt đời
sống Lào, trong đó có cả văn học - cùng với những xấu xa , thối nát của giai cấp
cầm quyền, các kiểu truyện trạng (theo định nghĩa của các nhà nghiên cứu ở ta)
hay truyện về nhân vật chú Tiểu ra đời để phản ánh những khát khao, ước vọng
trong đời sống, qua đó cũng cho thấy tư tưởng, giáo lý Phật Giáo chi phối tâm
thức người dân Lào.
9
2. NGUYÊN NHÂN - MỤC ĐÍCH SO SÁNH
2.1. Nguyên nhân ngồi văn bản
2.1.1. Sự tương đồng về hình thái kinh tế - xã hội
Các truyện trạng đều có một đặc điểm chung khi hình thành đó là khả năng
phản ánh khơng khí lịch sử thực tiễn của thời đại, mỗi chuỗi truyện trạng ra đời
trong một giai đoạn lịch sử nhất định “theo một phong cách riêng, hoá thân theo
từng lối sống, nếp nghĩ và nghệ thuật ứng xử của từng tộc người” (Trương Sỹ
Hùng, 2018). Cũng trong Truyện trạng Đông Nam Á, tác giả đề cập đến sự tương
đồng trong hình thái xã hội của ba quốc gia Đơng Nam Á, cụ thể là Việt Nam,
Lào và Campuchia để làm rõ đặt trưng bối cảnh thúc đẩy truyện trạng được sáng
tạo và lưu truyền trong nhân dân.
Nhìn về giai đoạn phong kiến trong lịch sử của hai nước Việt - Lào, bối
cảnh mà Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng đã ra đời, có thể thấy một số điểm tương
đồng nhất định. Đầu tiên, chế độ phong kiến ngày càng xấu xa, thối nát - thể hiện
trên mọi phương diện, mọi mối quan hệ trong xã hội khiến người dân ngày càng
rơi vào cảnh lầm than, khốn khổ, bị bóc lột đủ đường, các thế lực lớn đấu đá,
tranh giành quyền lực (ở Việt Nam là giai đoạn Trịnh - Nguyễn phân tranh, ở Lào
các thế lực cũng xâu xé lẫn nhau sau cái chết của vua Xulinha Vôngxa) - bộc lộ
bản chất xấu xa, độc ác. Các tầng lớp trên từ vua chúa, quan lại đến cả những
chức sắc nhỏ hơn trong xã hội đã không c n nhận được sự tơn trọng, kính u của
nhân dân. Truyện trạng ra đời chính là một nhát cứa lớn xé rách sự tin tưởng, tơn
kính của người dân đối với giai cấp cầm quyền, khi giờ đây họ dùng truyện trạng
để thẳng thắn tỏ rõ thái độ phê phán, thậm chí dám “chửi cha đứa nào “bảo
thái”” (Bảo Thái là niên hiệu của vua Lê, câu này trong Trạng Quỳnh, ý Trạng
Quỳnh chơi chữ để dân có cớ chửi mắng sự hèn yếu của vua Lê). Chính thái độ
thẳng thắn, quyết đốn khi phê phán, lên án đã đem lại cho truyện trạng giá trị lớn
trong nội dung phản ánh thời đại lịch sử.
10
Ngoài những vấn đề trong nội bộ quốc gia, thế lực ngoại bang hăm he đe
doạ cũng là vấn đề cần lưu tâm khi nghiên cứu truyện trạng của Việt Nam và Lào.
Trong thời bình, hai nước vẫn giữ mối quan hệ bình thường với các triều đại của
Trung Quốc, có giao thương và bn bán qua lại. Tuy nhiên do tham vọng của
mình, các hồng đế Trung Quốc vẫn thường xuyên lăm le xâm chiếm các nước
lân bang. Nhiều cuộc chiến tranh giữa Lào - Trung Quốc, Việt Nam - Trung Quốc
suốt chiều dài lịch sử đã minh chứng cho điều này. Bởi vì lẽ đó, trong l ng nhân
dân của cả hai nước đều mang l ng căm ghét Thiên Triều, dù là ở thời bình hay
thời chiến.
Nhờ vào những mẩu truyện ngắn mang đầy tính trào phúng, hiện thực phũ
phàng và tàn nhẫn của một xã hội phong kiến được lột tả trần trụi cùng với sự tố
cáo mạnh mẽ của nhân dân. Ngoài ra, truyện trạng c n giải tỏa những ẩn ức chính
trị tồn tại trong l ng của nhân dân, đó là ham muốn chiến thắng được nước lớn (sứ
Tàu – Trung Quốc) để thể hiện l ng tự tôn dân tộc tồn tại trong mỗi con người.
Nhìn chung, chính vì bối cảnh xã hội có những nét tương đồng như trên mà
truyện trạng đã dần len lỏi vào đời sống tinh thần nhân dân của cả hai nước, mang
đến những giá trị về cả mặt lịch sử và văn hóa.
2.1.2. Giao lưu - ảnh hưởng trong văn học
Các nước Đông Nam Á lục địa, theo Phan Ngọc (2017) gồm Việt Nam,
Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar đều tiếp nhận văn hoá từ một trong hai nền
văn hoá lớn là Ấn Độ và Trung Quốc. Trong khi Việt Nam tiếp nhận văn hoá
Trung Quốc từ hơn nghìn năm nay, từ đó trở thành một quốc gia thuộc vùng văn
hố Đơng Á, thì Lào lại tiếp nhận văn hố Ấn Độ sâu sắc hơn cả. Chính vì vậy
mà điểm tương quan trong văn học của hai nước Việt - Lào không dễ xác định
như sự tương đồng của văn học Việt với các quốc gia Đông Á khác.
Đầu tiên, bắt nguồn từ sự liền kề trên vị trí địa lý, người dân hai nước Việt Lào đã có lịch sử di dân lâu đời. Tại Việt Nam có dân tộc Lào sống ở các miền
núi, là một trong 54 dân tộc anh em ta, tương tự, tại Lào hiện tại cũng có khoảng
hơn 30.000 nghìn người Việt sinh sống. Lịch sử di dân lâu đời đã mang tại cơ hội
11
giao lưu văn hoá, văn học cho hai dân tộc, truyện Xiêng Miệng đơn cử chính là
một tác phẩm vừa thuộc về quốc gia Lào, vừa thuộc về người dân tộc Lào tại Việt
Nam. Quá trình giao thoa này - khả năng rất cao - đã khiến một số nội dung, cốt
truyện được lặp lại trong cả hai sáng tác Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng tuy vẫn có
sự đổi khác ít nhiều theo tâm thức riêng có của từng tộc người. Việt Nam - tuy
thuộc về văn hố Đơng Á nhưng vẫn có những đóng góp chung, những đặc điểm
chung dễ nhận thấy của văn học khu vực Đông Nam Á -“ca dao, tục ngữ, trường
ca, thơ, kịch làm thành nét khu biệt của văn học dân gian khu vực này với toàn
bộ thế giới” (Phan Ngọc, 2017). Yếu tố này phản ánh trong sự tương đồng về
ngôn từ văn học của Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng ở lối nói đối đáp, chơi chữ,…
nhân vật trạng sử dụng để đả kích đối tượng phản diện.
Cuối cùng, cùng với sự tương đồng trong lịch sử bị ngoại bang - cụ thể là
Trung Quốc xâm lược trong suốt chiều dài lịch sử, văn học Việt và văn học Lào ít
nhiều thể hiện “ám ảnh Hán”, đặc biệt là với các thể loại văn học dân gian. Xuất
phát từ tâm thức nhân dân, cả hai nước đều có tâm thế chung đối với Trung Hoa
hơn nghìn năm nay, chính thế mà trong cả Trạng Quỳnh, Xiêng Miệng đều có
những phần nhân vật trạng đấu trí chiến thắng các “sứ Tàu” - đại diện cho thế lực
Trung Hoa. Trong khi Việt Nam “tiếp nhận văn hoá Hán, xây dựng một nhà
nước kiểu Hán chủ yếu để chống lại sự nô dịch của Trung Quốc, có sự chống đối
ngầm để bảo vệ độc lập dân tộc” (Phan Ngọc, 2017), Lào chủ yếu tiếp nhận văn
hoá Ấn Độ nhưng vẫn có sự chống trả lại Trung Quốc với lịch sử bị xâm lược lâu
đời, chính ám ảnh Hán là một trong những nguyên nhân mang lại điểm tương
đồng cho hai nền văn học - khi cùng là những quốc gia ngoại vi xoay quanh một
trung tâm lớn là Trung Quốc.
Nhìn chung, văn học Việt Nam và Lào, trên cả cơ sở địa lý và văn hoá, có
những điểm tương đồng nhất định, từ đó tạo nền tảng để so sánh hai tác phẩm
Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng trong loại hình truyện trạng của văn học dân gian
hai nước.
12
2.2. Sự tương đồng về kết cấu và nội dung phản ánh
2.2.1. Kết cấu truyện
Truyện trạng có kết cấu rất đặc biệt - chính yếu tố này đã khu biệt truyện
trạng khỏi các thể loại văn học dân gian khác. Cụ thể, truyện trạng gồm nhiều tiểu
truyện - có thể khác nhau hồn tồn, thậm chí khơng có liên hệ với nhau về mặt
nội dung - được liên kết với nhau bởi một “sợi chỉ xuyên suốt” duy nhất, chính là
sự xuất hiện của nhân vật trạng. Các tiểu truyện có thể được thưởng thức độc lập
- nghĩa là chính bản thân tiểu truyện đã đầy đủ nội dung mở, thân, kết mà không
cần bổ sung từ các tiểu truyện liền kề. Bên cạnh đó, các truyện đảm bảo mở đầu
(thời kì nhân vật trạng c n nhỏ) và kết thúc (cái chết của nhân vật trạng), phần
giữa sẽ là hành trình của nhân vật. Nội dung của cả Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng
đều được đảm bảo theo kết cấu này.
Kết cấu của từng tiểu truyện trong truyện trạng rất chặt chẽ, gãy gọn và đầy
đủ, theo Nguyễn Ngọc Chiến (2019), mỗi tiểu truyện đều đảm bảo bốn phần:
“Thắt nút để tạo mâu thuẫn; Phát triển: Lập mưu; Cao trào: Thực hiện mưu kế;
và Mở nút: Nhân vật Trạng thắng c n đối thủ bị hạ bệ.” (tr.24). Đây là kết cấu
thường thấy của hầu hết các tiểu truyện, chỉ trừ tiểu truyện cuối cùng của Xiêng
Miệng đã kết thúc bằng sự thua cuộc của nhân vật này.
Sự tương đồng về kết cấu là một đặc điểm quan trọng trong việc xác định
những truyện dân gian thuộc loại hình truyện trạng. Riêng với các truyện trạng tại
Việt Nam đã có rất nhiều truyện không được gắn với danh xưng “trạng” như
truyện Ba Phi, truyện ơng Ĩ, truyện thằng Cuội,… Đối với văn học nước ngoài,
cụ thể với Lào - quốc gia này khơng có truyền thống khoa bảng và học vị trạng
ngun, chính vì thế mà trong văn học Lào khả năng cao không tồn tại khái niệm
truyện trạng - nghiên cứu của Nguyễn Thị Lý (2021) gọi đây là “kiểu truyện về
chú Tiểu thơng minh”. Chính vì thế, khi xem xét Xiêng Miệng trong đặc trưng thể
loại, kết cấu là đặc điểm quan trọng cần lưu tâm giúp xác định Xiêng Miệng thuộc
loại hình truyện trạng, từ đó có thể nghiên cứu đối chiếu với các truyện trạng của
Việt Nam - mà cụ thể trong nghiên cứu này là Trạng Quỳnh.
13
2.2.2. Nội dung phản ánh
Truyện trạng gồm nhiều tiểu truyện khác nhau nhưng có một đặc điểm
chung xuyên suốt, đó là sự xuất hiện liên tục của nhân vật trạng trong tất cả các
tiểu truyện. Theo Nguyễn Ngọc Chiến (2013), nếu thay đổi tên nhân vật, các tiểu
truyện này có thể trở thành một truyện cười đơn, cũng tức là phá vỡ liên kết của
chuỗi truyện - chính vì vậy ở truyện trạng, đặc trưng lớn là đặt các tiểu truyện
trong một chỉnh thể và giữ nguyên nhân vật trung tâm. Vì thế truyện trạng mang
đến “những niềm vui chiến thắng liên tục của trí tuệ con người” - phản ánh sự
thơng minh, tài trí trong sự lý tưởng hố của tinh thần con người thời đại. Cả
Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng đều xây dựng một nhân vật vừa tài giỏi, uyên bác
nhưng cũng vừa gần gũi, dung dị.
Khi nghiên cứu truyện trạng Đông Nam Á, Trương Sỹ Hùng (2018) đã đề
cập đến sự tương đồng trong bối cảnh xã hội dưới sự cai trị của chế độ phong
kiến độc đoán, xấu xa dẫn đến sự phát triển truyện trạng như một cách thể hiện
“tư tưởng yêu tự do, yêu cuộc sống lao động, u chính nghĩa, […] thẳng thắn
nói lên tiếng nói độc đáo của mình để bảo vệ chân lý” (tr.12). Những chuỗi
truyện trạng ra đời trong thời gian này đã cất lên tiếng nói bộc trực, thẳng thắn
của nhân dân lao động, thể hiện khát khao kẻ xấu phải bị trừng trị thích đáng.
Nhân vật trạng cũng chính là đại diện cho tinh thần của nhân dân - thẳng tay, quả
quyết đả kích cái xấu, khơng chùn bước dù trước bao mưu mô quỷ kế của kẻ ác,
thậm chí dám đứng lên chống lại thần quyền. Nhân vật trạng chính là “sản phẩm
tinh thần của một thời đại” - được sinh ra trong nhân dân, được nhân dân ni
dưỡng, bồi đắp để trở thành hình tượng lý tưởng trong nỗ lực chống trả của nhân
dân với chế độ cầm quyền hà khắc, thối nát. Từ một nhân vật có thật ban đầu
(Trạng Quỳnh) hay là sản phẩm hư cấu nên (Xiêng Miệng), các truyện trạng đều
đại diện cho tinh thần, cá tính của nhân dân - hay lớn hơn là cá tính tộc người, thể
hiện sâu sắc những khát vọng căn nguyên nhất của con người thời đại.
Là hai tác phẩm thuộc hai nền văn học khác nhau, ta vẫn nhận thấy ở Trạng
Quỳnh và Xiêng Miệng những đặc điểm tương đồng trong nội dung phản ánh.
14
Tựu trung lại, kết cấu và nội dung có sự tương đồng nhất định đã giúp định hình
hai tác phẩm trong thể loại truyện trạng, và từ đó làm căn cứ để có thể tiến hành
nghiên cứu, đối chiếu hai nhân vật với nhau.
2.3. Mục đích so sánh
Từ những yếu tố đã nêu trên, có thể xác định cả Trạng Quỳnh và Xiêng
Miệng đều thuộc loại hình truyện trạng, thậm chí chính trong bản thân hai tác
phẩm cũng có những tiểu truyện nội dung tương tự nhau, vậy nên việc đặt hai tác
phẩm trong quan hệ so sánh là cần thiết. Cùng thuộc về loại hình truyện trạng, cả
hai tác phẩm giống nhau một số điểm cơ bản như kết cấu, mục tiêu và nội dung
phản ánh, nhưng với đặc trưng riêng của mỗi nước trong những giai đoạn lịch sử
nhất định đã tạo ra hai biến thể khác nhau dù vẫn nằm trong phức hợp loại hình
chung. Nghiên cứu so sánh Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng dựa trên hướng đối
chiếu nhân vật trạng không chỉ phần nào làm rõ mối quan hệ giữa văn học Việt
Nam với văn học Lào, mà c n làm sáng rõ hơn bản chất của từng nền văn học.
3. ĐỐI CHIẾU NHÂN VẬT TRẠNG QUỲNH VÀ XIÊNG MIỆNG
3.1. Đặc điểm kiểu nhân vật trạng trong loại hình truyện trạng
Là nhân vật trung tâm xuất hiện xuyên suốt các tiểu truyện của chuỗi, nhân
vật trạng là kiểu nhân vật đặc biệt phản ánh đầy đủ đặc điểm loại hình truyện
trạng - từ những vấn đề kết cấu, ngơn ngữ cho đến motif, hình tượng,… Là sản
phẩm sáng tạo của văn học dân gian, nhân vật trạng từ “các ơng trạng ngun” mà theo Nguyễn Chí Bền (2000), là hình mẫu, là khởi hình lịch sử (tr.52) để từ
đó, nhân dân phát triển thêm, sáng tạo thêm, biến nhân vật trở thành đại diện cho
tinh thần chung, cho tiếng nói chung, và cho tâm thức chung của tộc người. Theo
cách nói của Trương Sỹ Hùng, nhân vật trạng chính là “sản phẩm tinh thần của
một thời đại” - dân gian đã xây dựng hình tượng nhân vật trạng mang đầy đủ
những giá trị biểu hiện cho căn tính dân tộc. Nhân vật trạng có sự gắn bó mật
thiết với một thời kì lịch sử nhất định - như Trạng Quỳnh thời vua Lê - chúa
Trịnh, hay truyện Ba Phi thời chống Mỹ giải phóng dân tộc,… phản ánh tinh thần
15
của con người thời đại trong từng giai đoạn. Nhân vật khơng chỉ thể hiện ước mơ,
khao khát, hồi vọng của nhân dân, mà c n là chính nhân dân - chính những đức
tính tốt đẹp, những tài năng, khả năng mà nhân dân đề cao, trân trọng - trở thành
lý tưởng thẩm mỹ, lý tưởng xã hội của dân tộc.
Nghiên cứu về Sự vận động của truyện trạng trong khơng gian và thời gian,
Nguyễn Chí Bền (2000) cho rằng đặc điểm khu biệt nhân vật trạng khỏi các kiểu
nhân vật khác (trong các tiểu loại văn học dân gian giai thoại, cổ tích, truyện
cười,…) chính là tính định danh (tr.56) - truyện trạng luôn gắn với một nhân vật
cụ thể. Trong quá trình rất nhiều người tham gia vào sáng tạo truyện trạng, tính
định danh giữ cho các sáng tạo nằm trong một mẫu chung lớn là chuỗi truyện.
Tính định danh không khiến nhân vật trạng trở thành kiểu nhân vật giai thoại của
tiểu loại giai thoại dân gian, truyện trạng được sáng tạo, phát triển liên tục bởi
cộng đồng người - “q trình dân gian hố khiến cho nhân vật có tính định danh
mà vẫn là nhân vật của văn học dân gian” (Nguyễn Chí Bền, 2000, tr.57). Mặt
khác, tính định danh tách nhân vật trạng khỏi những thể loại văn học dân gian
khác như truyện cười, truyện cổ tích, truyện ngụ ngơn - nhân vật trung tâm ln
là kiểu nhân vật phiếm chỉ - tức khơng có danh tính rõ ràng, dù một số nhân vật
vẫn có tên riêng nhưng “những tên riêng ấy đã hoà tan vào cái ta” (Nguyễn Chí
Bền, 2000, tr.58). Trong khi đó, nhân vật trạng dù đã đi vào dân gian và trở thành
nhân vật của văn hoá dân gian nhưng vẫn giữ đúng danh tính ban đầu của nhân
vật.
Tiếp đến, tính cách của nhân vật trạng chính là yếu tố gây cười của truyện
trạng, Nguyễn Chí Bền gọi đây là sự khác biệt giữa tính hài của tính cách trong
truyện trạng và tính hài của cảnh ngộ, tình thế trong truyện cười. Khi quan sát
các tình huống có vấn đề trong chuỗi truyện trạng, chính tính cách, hành động,
ngơn ngữ của nhân vật trạng mang đến tiếng cười hóm hỉnh, trào lộng cho tác
phẩm. Nhân vật trạng đặt trong đối kháng với các thế lực xấu xa đã trở thành vũ
khí sắc bén - đại diện cho tinh thần đấu tranh của nhân dân.
16
Cả hai nhân vật Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng đều là những nhân vật rất
đặc trưng cho kiểu nhân vật trạng trong văn học dân gian của Việt Nam, Lào nói
riêng và văn học dân gian Đơng Nam Á nói chung. Phần tiếp theo của nghiên cứu
sẽ so sánh đối chiếu hai nhân vật qua một số nội dung, từ đó chỉ ra điểm tương
đồng và dị biệt của hai tác phẩm truyện trạng hướng đến làm rõ đặc trưng bản
chất của từng nền văn học.
3.2. Đối chiếu hai nhân vật Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng
3.2.1. Mở đầu và kết thúc
Cả chuỗi truyện Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng đều xoay quanh một nhân
vật chính là người thơng minh, láu lỉnh. Mở đầu chuỗi truyện là sự xuất hiện của
Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng. Họ đều được giới thiệu là con trai nhà nghèo và từ
nhỏ đã sớm bộc lộ những phẩm chất thần đồng, có trí thơng minh khác biệt với
người thường. Chuỗi truyện khép lại với cái chết nhuốm màu bi kịch của cả hai
nhân vật.
Nếu trong Xiêng Miệng của Lào, xuất thân của nhân vật Xiêng Miệng
không được đề cập rõ ràng, chỉ biết rất mơ hồ là Khăm sinh ra trong một gia đình
rất nghèo và phải làm con ni cho nai bản, thì Trạng Quỳnh lại đề cập khá rõ
ràng rằng Quỳnh là người xứ Thanh Hóa, từ nhỏ đã “nổi tiếng học giỏi và đối
đáp nhanh” (Trương Sỹ Hùng, 2018, tr.101).
Sự sáng tạo trong cách gọi tên, xuất thân của nhân vật phần nào cũng thể
hiện sự khác biệt trong lối tư duy của nhân dân hai nước. Tuy cùng là nhân vật
thông minh láu lỉnh trong khi Xiêng Miệng là truyện mà nhân vật khơng có thành
phần, địa vị xã hội, q qn rõ ràng, chỉ được gọi bằng cái tên thông thường kèm
theo những tr nghịch ngợm, ranh ma,… thì Trạng Quỳnh lại được xem là ơng
trạng xứ Thanh Hóa dù khơng đỗ đầu trong kỳ thi Đình do triều đình tổ chức.
Thơng qua hình tượng ơng trạng khơng cờ, biển, cân đai, người Việt đã khéo léo
thể hiện ước mơ về mẫu người thơng minh, tài trí.
Cũng giống như xuất thân, cái chết của Xiêng Miệng khá mơ hồ, không rõ
ràng. Truyện chỉ đề cập “người ta không thấy Xiêng Miệng đâu nữa” (Trương Sỹ
17
Hùng, 2018) sau một lần chơi khăm quá đáng với một chú tiểu. Sau khi biết mình
bị chơi khăm, chú tiểu đã tức giận bỏ Xiêng Miệng lại rừng gai mây và Xiêng
Miệng “không tài nào ra được nữa” (Trương Sỹ Hùng, 2018). Thông qua cái
chết của Xiêng Miệng, nhân dân Lào muốn truyền tải quan niệm về trí thơng
minh phải đi liền với tình thương. Chỉ có như vậy, người ta mới có thể trở thành
người duy trì cơng lý cho nhân dân. Xiêng Miệng tuy thông minh, nhưng lại thiếu
tình thương, xử sự phách lối nên cuối cùng cũng có ngày bị người thơng minh
hơn hại.
Cái chết của Trạng Quỳnh được kể rất rõ ràng, chi tiết. Do “bị Trạng
Quỳnh coi thường nhiều phen” nên chúa rất căm giận và muốn giết Trạng Quỳnh
để tránh những hậu họa về sau. Cụ thể, chúa đã “sai nhà bếp bỏ độc vào thức
ăn” và mời Quỳnh đến dự yến tiệc. Vốn biết chúa rất ghét mình, nay bỗng dưng
lại được chúa mời yến tiệc, ơng đã đốn trước có chuyện chẳng lành nên “bèn
gọi vợ con đến, dặn d cẩn thận rồi ra đi”. Trạng dự yến tiệc xong liền cáo từ về
ngay. Về đến nhà, Trạng thấy “người nôn nao, khó chịu, vội lên võng nằm, và
sau đó tắt thở”. Chờ mãi mà chưa thấy nhà Trạng có động tĩnh gì, chúa bèn sai
người qua xem thì thấy Trạng vẫn c n sống nên bèn vội về tâu lại với chúa. Chúa
cho rằng thuốc độc khơng có cơng hiệu nên liền tự mình thử thức ăn đã đem mời
Trạng. Lát sau, chúa bị ngấm độc, lăn ra chết. Khi phủ chúa phát tang thì người
nhà Trạng mới phát tang theo lời Trạng dặn. Hai người cùng chết trong một ngày,
dân kinh kỳ mới bảo nhau: “Trạng chết chúa cũng băng hà/ Dưa gang đỏ đít thì
cà đỏ trơn”.
Khi được chúa bày dự yến tiệc, Trạng biết mình khơng thể tránh khỏi cái
chết. Nhưng Trạng đã “tương kế tựu kế” khiến chúa cũng ăn phải đồ có độc mà
chết theo mình. Cả cuộc đời Trạng Quỳnh là một cuộc đấu tranh liên tục không
ngừng nghỉ, ngay đến cả khi chết Trạng cũng chưa hết tiến công vào vua chúa.
Trạng dùng chính cái chết để đấu tranh. Điều này đã thể hiện cho tinh thần, ý
thức chiến đấu chống phong kiến bền bỉ và gay gắt đến tận cùng của nhân dân.
Tuy nhiên, cái chết của Trạng đồng thời cũng thể hiện sự bế tắc trong cuộc chiến
18
đấu mạnh mẽ nhưng khơng có lối thốt ấy. Có thể nói, trong các truyện cổ dân
gian, Trạng Quỳnh là một trong số ít những sáng tác đạt đến mức độ phản phong
đỉnh cao.
3.2.2. Đối tượng đả kích
Đối tượng bị đả kích trong truyện trạng được xác định bằng địa vị xã hội
của nhân vật và thường được chia thành 2 tầng lớp là tầng lớp trên và tầng lớp
bình dân. Trong đó, tầng lớp trên bao gồm giai cấp thống trị, thần quyền. Tầng
lớp này thường được mô tả có trí tuệ kém cỏi, tham lam, độc ác, lộng quyền, là
đối tượng mà nhân vật trạng nhắm đến để lật đổ và cũng là đối tượng bị đả kích
chính trong truyện trạng. Tầng lớp bình dân là dân thường nhưng có những thói
hư tật xấu như kiêu căng, đanh đá,... Với đối tượng này, nhân vật trạng chỉ chơi
khăm, xỏ xiên để họ ý thức được và bỏ đi tính xấu.
Trong Tìm hiểu về truyện trạng Việt Nam, Triều Nguyên (2014) cho rằng
đối tượng bị đả kích được chia thành 6 loại, gồm có: dân thường (tầng lớp bình
dân), chức sắc làng – tổng, quan lại, vua chúa, sứ và quan chức tàu, chúa sơn lâm
(hổ), quỷ thần. Các đối tượng bị đả kích trong Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng cũng
được tạo ra dựa trên cách phân loại này. Tuy nhiên, khơng phải truyện trạng nào
cũng có tất cả các loại - mỗi truyện sẽ có sự sáng tạo, điều chỉnh khác nhau để
phù hợp với bối cảnh xã hội, văn hóa mỗi nước. Từ đó dẫn đến sự tương đồng và
khác biệt trong cách xây dựng, phát triển tính cách, đối tượng, mục đích đấu tranh
của nhân vật trạng ở mỗi quốc gia. Qua đó thể hiện ý chí, ước nguyện, khát khao
của người dân gửi gắm vào hai nhân vật.
Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng đều là biểu tượng của dân, do dân sáng tạo để
“lấy cớ chửi bới, lên án, hạ uy thế giai cấp thống trị đã lỗi thời. Các kiểu, các
cấp quan chức, từ địa vị tầm cỡ quốc gia xuống tỉnh, huyện, làng, xã,... đều
không tránh mặt vào đâu được” (Trương Sỹ Hùng, 2018, tr.8). Dựa vào cách
phân loại của Triều Nguyên thì sự tương đồng về đối tượng bị đả kích trong
Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng đa phần là tầng lớp trên có nhiều thói hư, tật xấu.
Ngồi ra, cả hai nhân vật c n cùng đả kích một đối tượng là nước Tàu. Thế lực
19
ngoại bang này thường tỏ ra trịch thượng, gây khó dễ cho đất nước Việt, Lào. Do
đó, việc Trạng Quỳnh và Xiêng Miệng phản kháng đối tượng này đã chứng tỏ
tinh thần tự lực tự cường dân tộc của hai nước trong việc chống lại sự thần phục
quốc gia phong kiến phương Bắc.
Ngoài đối tượng chủ yếu là Pha Nha và các nhà sư, Xiêng Miệng c n đả
kích chẩu mường, Pha Nha mường khác, những người có tính nết xấu như Xiêng
Nhan. Sở dĩ Xiêng Miệng đả kích cả những nhà sư vì họ đã bị biến chất, chỉ chăm
chăm lợi dụng Phật giáo để trục lợi, ra oai. Từ đó có thể thấy được, mũi dùi đấu
tranh của người dân Lào hướng đến giai cấp thống trị trong nước hơn thói hư tật
xấu trong xã hội, thế lực áp bức ngoài nước. Ngoài ra, kết cục của Xiêng Miệng
và lời của chú tiểu trong truyện cuối có thể thấy rằng nhân vật trong truyện trạng
Lào này cũng là một đối tượng bị đả kích bởi có tài nhưng khơng có đức, khơng
có tình thương. Cách thức hạ bệ giai cấp thống trị của Xiêng Miệng khiến đối
tượng khẩu phục nhưng tâm không phục, thường sử dụng lối chơi chữ cắt nghĩa,
những mánh khóe và hành động. Đặc biệt là khơng có l ng bao dung với kẻ dưới
bị buộc phải làm theo lệnh kẻ trên và ra tay đánh đập họ để chơi khăm Pha Nha
(cung nữ trong Lên nát bàn, Y lệnh mà làm), liên lụy cả người vơ tội (người nhà
Pha Nha trong Chia trí khơn). Nhân vật Xiêng Miệng không chỉ mang thông điệp
về sự đấu tranh, đại diện cho người dân mà c n là lời nhắc nhở chỉ người tài đức
vẹn toàn mới có thể mang lại sự đấu tranh tồn diện, đứng đắn và có được kết cục
tốt.
So với truyện Xiêng Miệng, thì Trạng Quỳnh có dung lượng lớn hơn, đồ sộ
hơn, nên số lượng nhân vật bị đả kích cũng nhiều hơn, đa dạng hơn từ dân
thường, chức sắc làng - tổng, quan lại, vua chúa, người Tàu, đến cả quỷ thần.
Nhìn chung, truyện Trạng Quỳnh có đủ các đối tượng bị đả kích từ tầng lớp bình
dân đến giai cấp thống trị, thần linh. Đối tượng dân thường bị Trạng đả kích bao
gồm bọn trí thức kiêu căng, bọn chua ngoa, trọc phú, bọn tu hành giả dối, bọn
làm nghề mại dâm, bọn t m nhiều chuyện. Đối tượng quan lại bao gồm hệ thống
quan lại nói chung: quan trường, quan thị/quan hoạn, quan võ. Trạng Quỳnh
20