Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Đặc trưng văn học Mỹ trong tác phẩm Chữ A màu đỏ của Nathaniel Hawthorne

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.68 KB, 22 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA VĂN HỌC

TIỂU LUẬN
ĐẶC TRƯNG VĂN HỌC MỸ TRONG TÁC PHẨM CHỮ A
MÀU ĐỎ CỦA NATHANIEL HAWTHORNE

2


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ NATHANIEL HAWTHORNE VÀ
TÁC PHẨM CHỮ A MÀU ĐỎ............................................................................3
1.1. Giới thiệu về tác giả...................................................................................3
1.2. Giới thiệu về tác phẩm...............................................................................4
CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG VĂN HỌC MỸ TRONG CHỮ A MÀU ĐỎ.........6
2.1. Màu sắc Thanh giáo...................................................................................6
2.2. Sóng đơi giữa văn minh và hoang dã.......................................................11
2.3. Vấn đề định danh và căn tính dân tộc......................................................13
2.4. Vấn đề biểu tượng....................................................................................14
2.4.1. Hình tượng chữ A màu đỏ...................................................................14
2.4.2. Hình tượng cái bục tội hình.................................................................17
2.4.3. Pearl – hạt ngọc trai của biển cả..........................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................20

3



CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ NATHANIEL HAWTHORNE VÀ
TÁC PHẨM CHỮ A MÀU ĐỎ
1.1. Giới thiệu về tác giả
Năm 1804, cậu bé Nathaniel Hawthorne cất tiếng khóc chào đời ở Salem, bang
Massachusetts trong một gia đình có cha là một thuyền trưởng, mà Hawthorne kể
rằng: “Từ đời cha đến đời con trong hơn một trăm năm đều theo nghề đi biển”
(Hawthorne, 2018, trang 26).
Cũng theo mô tả của Nathaniel Hawthorne, cụ tổ của ông đã đặt chân đến
Massachusetts vào năm 1630 và là “một nhà lập pháp, một quan tịa, một vị cầm
quyền của Giáo hội có tất cả những nét cả tốt lẫn xấu của người Thanh giáo”
(Hawthorne, 2018, trang 24). Như vậy, thực chất cậu bé Nathaniel Hawthorne xuất
thân trong một gia đình Thanh giáo thế phiệt. Chính một phần nguồn gốc xuất thân
này của Nathaniel Hawthorne đã ảnh hưởng đến những sáng tác của ông sau này với
những tác phẩm đậm đặc màu sắc Thanh giáo.
Năm 14 tuổi, cha của Nathaniel Hawthorne không may qua đời. Cái chết của
cha ông đã tác động không nhỏ đến tâm lý của người mẹ. Mẹ của ông đưa cả gia đình
đến một vùng quê hoang dã ở Raymond, xa lánh hẳn với xã hội và mọi cuộc xã giao:
“Nỗi sầu khổ của bà đã tồn tại lâu hơn, thậm chí là cả sức sống của nó và phát triển
thành một thói quen uể oải và buồn bã nhất khi đó” (Lê Đình Cúc, 2007, trang 171).
Chính trong khoảng thời gian này, Hawthorne đã có những trải nghiệm về một đời
sống tách biệt với xã hội và chính điều đó đã trở thành chất liệu khi Hawthorne bước
vào con đường sáng tác văn chương.
Từ năm 1839 đến 1841, ông làm việc trong nhà Thương chính ở Boston. Sau
đó, ơng được tổng thống Pierce bổ nhiệm làm lãnh sự quán tại Liverpool từ năm
1853 đến 1857. Đến năm 1864, ông qua đời tại Plymouth thuộc bang New Hamphire
(An introduction to American Literature (Đại cương văn học Mỹ), 1998, trang 157).
Còn về sự nghiệp sáng tác văn chương, trong khoảng thời gian Nathaniel
Hawthorne học đại học Bowdoin, ông đã tham gia sinh hoạt trong nhóm văn học
Athenaean ở trường. Chàng sinh viên trẻ tuổi đã “học cách viết văn Latinh và đọc
nhiều bằng tiếng Pháp các tác giả kịch như Racine, Molière, Corneille, Voltaire và

Rousseau. Tiếng Latinh và tiếng Pháp của ông đã trợ giúp cho ơng trong việc hình
thành nên văn phong của ơng” (Lê Đình Cúc, 2007, trang 175).

4


Hawthorne đã khởi đầu sự nghiệp sáng tác bằng các phác thảo lịch sử, các
truyện ngụ ngôn với nội dung đề cập đến những cuộc xung đột về luân lý ở New
England. Trong sự nghiệp của mình, ơng đã để lại một gia tài lớn các tác phẩm như
Chú bé lịch lãm (1828), Việc mai táng của Roger Malvin (Roger Malvin’s Burial,
1830), Major Moineux người bà con của tôi (My Kinsman, Major Moineux, 1832),
Chữ A màu đỏ (The Scarlet letter, 1850),... (Lê Đình Cúc, 2007, trang 176)
Nathaniel Hawthorne được xem là người mở đầu cho nền “văn học có bản sắc
Mỹ”. “Ơng đã đặt ra cho mình một nhiệm vụ vinh quanq và nặng nề là tạo dựng một
nền văn học Mỹ từ những cuộc tranh luận mang tính trì trệ khơ cứng của thời đại đó”
(Lê Đình Cúc, 2007, trang 175).
1.2. Giới thiệu về tác phẩm
Xuất bản năm 1850, Chữ A màu đỏ được Hawthorne sáng tác sau khi mất việc ở
phòng thuế quan tại Salem và được đánh giá là một trong những tác phẩm hay nhất
của nền văn học thế giới.
Tác phẩm xoay quanh câu chuyện về Hester Prynne, một phụ nữ trẻ sống ở Boston
– khu định cư của người Thanh giáo vào thế kỷ XVII. Chị bị luật lệ và giáo lý nghiệt
ngã của Thanh giáo kết tội vì có con hoang. Mở đầu câu chuyện, chị được dẫn ra từ
nhà tù thị trấn, trên tay đang ẵm một đứa bé – Pearl chính là con gái của chị với mục

Arthur Dimmesdale – một giáo sĩ trẻ tài năng và cũng là người “chăm sóc phần hồn”
cho Hester Prynne. Hester Prynne đã bị bêu trên bục tội nhân ba tiếng đồng hồ trước
công chúng và phải mang một chữ A (Adultery – tội ngoại tình) màu đỏ cài trên ngực
đến cuối đời. Bên dưới đám đông xuất hiện một người đàn ông tuổi đã xế chiều,
ngoại hình dị dạng, và người đàn ơng đó khơng ai khác chính là chồng của Hester –

một người sống đời sống lang bạt mà trước giờ chị cứ ngỡ ông ta đã bỏ xác trên biển.
Hester chấp nhận sự nhục nhã và từ chối xác định danh tính người cha của con mình.
Người chồng già khi thấy vợ mình bị bơi nhọ, với bản tính “thợ săn”, hắn đã dùng cái
tên giả Roger Chillingworth để săn tìm tình địch của mình hịng thỏa mãn khát khao
chiến thắng. Ơng ta trở thành một thầy thuốc và bắt Hester không được tiết lộ danh
tính thật của mình cũng như khơng cho chị tiết lộ danh tính của tình nhân. Sau đó,
Roger đến sống cùng mục sư Arthur để giúp chàng mục sư trẻ tuổi thoát khỏi những
dằn vặt tâm lý khiến Arthur ngày càng xanh xao, ốm yếu đi. Trong khoảng thời gian
sống cùng Arthur, Roger dần nhận ra mối quan hệ bí mật giữa Arthur và Hester, hắn
thực hiện những hành động báo thù. Còn Hester, sau nhiều năm bị kết tội, chị vẫn cố
gắng sống ở Boston, tự nuôi gia đình bằng nghề may vá. Chị và Pearl bị cộng đồng
xa lánh, họ sống trong một túp lều nhỏ ở ngoại ô.

5


Sự giày vò tâm lý trong Arthur Dimmesdale ngày càng sâu sắc khiến anh tìm đủ
mọi cách để tra tấn, trừng phạt chính mình. Trong khi đó, những việc làm từ thiện và
sự khiêm tốn thầm lặng của Hester đã giúp chị dần thoát khỏi sự khinh miệt của cộng
đồng. Hester nhận ra tình trạng của Arthur đang trở nên tồi tệ, chị quyết định can
thiệp. Hester đến gặp Roger và yêu cầu chồng mình đừng làm cho Dimmesdale tự
dằn vặt bản thân thêm nữa nhưng Roger đã từ chối.
Không thể thuyết phục Roger, chị quyết định hẹn gặp chàng mục sư trẻ trong
rừng để tiết lộ danh tính thật sự của vị “lương y như từ mẫu” kia và cả hai lên kế
hoạch bỏ trốn đến châu Âu, nơi họ có thể sống với Pearl như một gia đình. Một ngày
trước khi lên tàu, Arthur thực hiện một buổi thuyết giảng trước các con chiên của
mình. Trong khi đó, Hester biết được rằng người chồng của mình đã nhận ra kế
hoạch bỏ trốn của chị và
Arthur nên cũng đã đặt một chỗ trên chuyến tàu “giải thoát” của họ. Mọi thứ như sụp
đổ.

Sau khi thực hiện xong bài thuyết giảng, Arthur tìm đến chỗ của Hester nhưng
chàng lại thấy chị cùng Pearl đang đứng cạnh đoạn đầu đài. Sức mạnh của tình u
đơi lứa, sức mạnh của tình phụ tử làm đòn bẩy cho chàng mục sư quyết định cơng
khai thú nhận mọi tội lỗi của mình. Sau đó, Arthur ngã xuống chết – một cái chết
nhục nhã nhưng chiến thắng.
Một năm sau, Roger cũng chết. Hester và Pearl rời khỏi Boston, không một ai
biết họ đã đi đâu. Nhiều năm sau, Hester trở lại Boston một mình và vẫn đeo chữ A
màu đỏ trên ngực. Nhưng giờ đây chữ A đã mang một ý nghĩa khác – Angel (thiên
thần). Chị vẫn sống trong ngôi nhà cũ và tiếp tục cơng việc từ thiện của mình. Cịn
Pearl thì đã có gia đình riêng. Khi Hester chết, chị được chơn cất bên cạnh một ngôi
mộ cũ đã lún xuống. Cả hai ngơi mộ chỉ có chung một bia mộ duy nhất khắc “TRÊN
MỘT NỀN, MÀU ĐEN, ĐÂY CHỮ A, MÀU ĐỎ”.
Qua tác phẩm Chữ A màu đỏ của Nathaniel Hawthorne, người đọc nhận thấy
đặc trưng văn học Mỹ qua các vấn đề như màu sắc Thanh giáo, sự sóng đơi giữa
hoang dã và văn minh, định danh và căn tính dân tộc và vấn đề biểu tượng...

6


CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG VĂN HỌC MỸ TRONG CHỮ A MÀU
ĐỎ
2.1. Màu sắc Thanh giáo
Thanh giáo được xem là “chiếc cầu bắc qua đại dương” (Trần Thị Thuận,
2015), bởi lẽ một bộ phận tín đồ Cơ đốc ở Anh ý thức được việc khơng thể thay đổi
được sự độc đốn của giáo hội Anh nên đã thành lập một tôn giáo riêng chịu sự chi
phối của thần học Calvin để di chuyển đến Tân thế giới, với một niềm tin rằng tại đó,
họ sẽ được thực hành tơn giáo theo ý nguyện riêng của họ (Trần Thị Thuận, 2015).
Trong tác phẩm Chữ A màu đỏ, Hawthorne đã khắc họa một bức tranh Thanh
giáo với những vấn đề liên quan đến tội lỗi và sự trừng phạt, bắt nguồn từ việc người
Thanh giáo luôn xem trọng đời sống tinh thần. Đối với người Thanh giáo, tinh thần

“vừa là mục đích, vừa là phương tiện để tích lũy kinh nghiệm và trau dồi kỹ năng
nhận thức của mình” (Trần Thị Thuận, 2015). Do đó, trong tác phẩm, khơng khó để
thấy được hình ảnh các buổi thuyết giảng với con chiên ngoan đạo của những mục sư
nhận nhiệm vụ “chăm sóc tâm hồn” như Dimmesdale,...
Với Dimmesdale, việc “chăm sóc phần hồn” cho các tín đồ là bổn phận mà anh
phải thực hiện. Vì anh là một mục sư, là sợi dây liên lạc giữa tín đồ với Chúa, là
người phát ngơn của Thượng đế và “truyền đạt những lời răn dạy, quở trách và yêu
thương của Người” (Hawthorne, 2018, trang 194), cho nên, Dimmesdale ln được
coi trọng và ngưỡng mộ. Chính những cống hiến của anh trong việc săn sóc đời sống
tinh thần của các tín đồ đã giúp Dimmesdale giữ vị thế quan trọng trong cộng đồng
Thanh giáo Boston. Những người Thanh giáo ở đây xem trọng anh đến nỗi từ hành
động đến lời nói của anh cũng được họ “thần thánh hóa”. Họ xem tiếng nói của
Dimmesdale là “tiếng nói của một luồng tư tưởng tươi mát, ngát hương thơm và
thanh khiết như giọt sương mai ... tác động đến họ như lời nói của một thiên thần”
(Hawthorne, 2018, trang 98). Ngay cả khi Dimmesdale dùng những lời ám chỉ để tự
phê phán chính mình: “Tơi, mục sư của các người, mà các người tơn kính và tin
tưởng đến thế, tơi hồn tồn chỉ là một vật ơ uế, một kẻ dối trá!” (Hawthorne, 2018,
trang 195) thì mọi người càng thêm kính trọng anh hơn. Những con chiên ngoan đạo
dường như tin tưởng tuyệt đối vào lời nói của người mục sư coi sóc tâm hồn cho họ.
Từ đó, chúng ta thấy được người Thanh giáo xem trọng việc nuôi dưỡng đời sống
tinh thần. Họ xem đời sống tinh thần là cõi thiêng liêng mà mọi người phải chú ý đến
và những người thực hiện việc chăn dắt phần hồn cho người khác là những người
mang một thiên chức cao cả với đầy sự đáng kính.

7


Thế nhưng, người mục sư trẻ hàng ngày đứng trên bục thuyết giảng, truyền đạt
ý Chúa cho tín đồ, giáo dục tín đồ giữ đúng phép tắc của Thanh giáo lại làm trái ý
của Thanh giáo. Mặc dù anh là người làm gương cho tín đồ nhưng Dimmesdale lại

mang tội lỗi. Và tội lỗi của anh chính là tội ngoại tình với Hester.
Do đó, trong suốt nhiều năm, nỗi day dứt và hối hận cứ gặm nhấm tâm hồn của
chàng mục sư Dimmesdale. Việc mắc phải tội lỗi khiến tâm hồn anh khơng cịn thanh
khiết. Mặc dù Dimmesdale là người coi sóc đời sống tinh thần cho tín đồ nhưng anh
khơng thể chăm sóc cho phần hồn của mình. Sức khỏe của anh ngày càng yếu đi một
phần do những chất vấn tội lỗi cứ mãi xuất hiện trong đầu Dimmesdale, một phần
anh cảm thấy tâm hồn mình khơng cịn trong sạch, thanh khiết như những gì mà một
người Puritan hướng đến. Với bản tính tơn thờ sự thật, anh khơng thể chấp nhận việc
“lừa mình dối người” trong suốt khoảng thời gian qua bởi ngay lúc ấy, Dimmesdale
chưa đủ bản lĩnh để bộc bạch tội lỗi. Và mặc dù tội lỗi của anh không bị cộng đồng
Thanh giáo phát giác nhưng lương tâm của anh không ngừng lên án bản thân: “Anh
kinh tởm cái bản thân khốn nạn của anh hơn bất cứ gì khác” (Hawthorne, 2018, trang
196).
Bên cạnh đời sống tinh thần bị dằn vặt, anh còn tự trừng phạt thân thể bằng
những thực hành tôn giáo trái ngược, sai lạc với “quan điểm chính thống của giáo hội
đã dưỡng dục anh từ khi sinh ra đến nay” (Hawthorne, 2018, trang 196). Anh đã
dùng roi để tự đánh vào mình, nhịn ăn một cách khắc nghiệt, thức đêm liên tục để hối
lỗi (Hawthorne, 2018, trang 197). Những hành động của anh đi ngược với ý niệm
thực hành tôn giáo mà Thanh giáo hướng đến. Nếu như người Thanh giáo thực hiện
việc nhịn ăn để tìm đến một thể xác thanh khiết thì anh xem đó chỉ như một hình thức
tự hành xác bản thân để chuộc tội. Và vì khơng thể sống trong tội lỗi, anh khơng thể
chịu được “hàm răng độc của nỗi đau cắn xé và gặm nhấm trên thể xác của anh”
(Hawthorne, 2018, trang 201) cho nên Dimmesdale đã chọn cách đến bục tội hình
vào ban đêm trong trang phục mà mình hay mặc để thuyết giảng trước các tín đồ và
thực hiện một cuộc thú tội trong bóng tối. Cuộc thú tội bí mật này có thể xem là
“cuộc diễn tập” cho ý định tự thú công khai của anh diễn ra ở cuối tác phẩm. Về mặt
tơn giáo, đó là biểu hiện hành vi chuộc tội của một người phụng sự Chúa đã làm vấy
bẩn những giáo lý mà Thanh giáo muốn hướng đến, nói cách khác là sự sám hối
trước cơng chúng khi anh – người mang sứ mệnh dẫn đường lại làm trái với đời sống
tâm hồn lý tưởng của người Puritan.

Về sau, Dimmesdale đã chọn cách thú tội công khai, mặc dù trước đó anh đã
cùng Hester lên kế hoạch bỏ trốn sang châu Âu và anh cũng không biết kế hoạch đi
theo anh và Hester của Roger Chillingworth. Dường như Dimmesdale nhận ra rằng

8


dù anh và Hester có trốn chạy như thế nào thì tội lỗi của anh và Hester vẫn cịn đó,
vẫn mãi là một vết nhơ trong khu định cư Thanh giáo và trong chính tâm hồn
Dimmesdale. Đối với anh, tội lỗi chỉ có thể chấm dứt khi anh đối diện với nó, phơi
bày nó để chuộc tội, chứ khơng thể là hành động chạy trốn để chối bỏ tội lỗi của
mình. Đó là lí do mà sau khi thú tội, mặc dù Dimmesdale chết – nhưng theo tác giả –
đó là một cái chết ơ nhục nhưng chiến thắng.
Cịn về Hester, cũng giống như Dimmesdale, việc chị ngoại tình là một hành
động sai trái không chỉ đối với lương tâm của chị mà còn làm tổn hại đến cộng đồng
Thanh giáo – những người xem trọng đời sống tinh thần. Do đó, với bổn phận là một
tín đồ Thanh giáo, vì vi phạm sự thanh khiết trong tâm hồn (có con hoang), Hester đã
phải chịu nhục nhã trên bục tội hình và mang trên ngực chữ A màu đỏ để phân biệt
mình với những người phụ nữ cịn lại. Đó chính là hình phạt mà Thanh giáo dành cho
chị như để nhắc nhở tâm hồn chị khơng cịn trong sạch và đã gây ảnh hưởng đến giáo
lý Thanh giáo – coi trọng sự thanh khiết trong đời sống tinh thần.
Trong suốt khoảng thời gian đeo trên ngực chữ A màu đỏ, chị đã phải chịu cảnh
miệt thị, xa lánh bởi những người xung quanh. Ngay cả khi chị dùng tài năng thêu
thùa một cách tinh xảo và điêu luyện như một nghệ nhân thực thụ để kiếm sống và
giúp đỡ người khác thì uy quyền của chữ A màu đỏ vẫn lấn át hơn cả. Người ta
không phủ nhận tài năng của chị nhưng các cô dâu vẫn tránh nhờ đến tay nghề của
người đàn bà ngoại tình ấy như để tránh cái nhơ nhớp của hành động ngoại tình. Dù
Hester có cố gắng làm lụng và đóng góp cho cuộc đời đến đâu đi chăng nữa thì trong
một khoảng thời gian dài, người ta vẫn không khoan nhượng cho lỗi lầm của người
đàn bà đã phá vỡ đạo đức Thanh giáo về mặt gia đình.

Chấp nhận sống trong sự phân biệt do bản án Thanh giáo đề ra, thay vì tuyệt
vọng, chán nản, Hester lại dùng tấm lịng thiện lương của mình để cứu vớt đời sống
của những người bất hạnh, kể cả những người đã từng chì chiết nàng. Tâm hồn tội lỗi
của người đàn bà ấy vẫn ánh lên một màu sắc thiện lương, mong muốn giúp đỡ đời
sống tinh thần và vật chất cho những người nghèo khổ, bất hạnh thuộc khu định cư
Thanh giáo. Hành động của “Bà Phước” Hester, người như “một nguồn suối nhân
tình hiền dịu, khơng bao giờ cạn đối với mọi u cầu chính đáng, và khơng hề biết
mệt mỏi trước những đòi hỏi to lớn nhất” (Hawthorne, 2018, trang 217) đã lay động
lòng người. Mặc cho những hành động bạc đãi của công chúng đối với chị, Hester đã
cam chịu và nhẫn nhịn, lựa chọn cách sống hi sinh cho mọi người một cách âm thầm
lặng lẽ mà khơng địi hỏi bất cứ sự công nhận nào, bởi lẽ chị hiểu được rằng việc chị
phạm phải tội ngoại tình là một việc sai trái và đã khiến cho cái tên Puritan (nhằm để
chỉ người Thanh giáo) khơng cịn giữ được đúng nghĩa “pure” (thanh khiết) của nó.

9


Do đó, Hester chấp nhận bản án có phần khắt khe của chính quyền Thanh giáo như
một cách chuộc tội trước cơng chúng. Dần dần, nhờ tình u thương vơ vụ lợi, Hester
đã được mọi người công nhận.
Bên cạnh việc người Thanh giáo đề cao đời sống tinh thần, tác giả còn đề cập
đến khát khao tri thức và nỗ lực vươn lên về trí tuệ của họ. Trong tác phẩm Chữ A
màu đỏ, nhà văn đã xây dựng nhân vật Roger Chillingworth – chồng cũ của Hester là
một nhà thông thái dành cả cuộc đời “xê dịch” khắp nơi với khát khao tri thức mãnh
liệt. Roger đã giãi bày về quá khứ: “một con người chỉ sống với suy tưởng, một con
mọt sách giam mình trong những thư viện lớn, đã cống hiến những năm tháng tươi
đẹp nhất cuộc đời cho khát vọng kiến thức” (Hawthorne, 2018, trang 107). Chính
giáo lý Thanh giáo đã gieo vào đời sống tinh thần của tín đồ sự tự ý thức về sức
mạnh của tri thức đối với đời sống của họ.
Có thể nói, tri thức là một trong những yếu tố giúp con người có thêm kinh

nghiệm trong việc nhìn nhận các vấn đề của đời sống. Hơn thế nữa, tri thức cịn là
phương tiện để người Thanh giáo được cơng nhận vị trí của mình trong xã hội, bởi lẽ
người nào tìm thấy ánh sáng của tri thức, đạt đến sự sâu sắc về mặt trí tuệ thì khao
khát chạm đến sự thanh khiết trong tâm hồn đối với họ là điều khơng cịn là điều q
nan giải. Thế nên khi
Dimmesdale xuất hiện – một “con người từ một trường đại học lớn của nước Anh”
(Hawthorne, 2018, trang 97) đến khu định cư Thanh giáo như “mang theo tất cả
những hiểu biết của thời đại vào miền đất núi rừng hoang dã này” (Hawthorne, 2018,
trang 97), người hết sức được sùng bái và trọng vọng, bởi lẽ “[n]ghề nghiệp của con
người, trong thời đại ấy, là thứ nghề nghiệp thể hiện năng lực trí tuệ lớn hơn rất nhiều
so với nghề làm chính trị” (Hawthorne, 2018, trang 316).
Hay trong cách giáo dục Pearl của Hester, chúng ta cũng có thể nhận thấy tầm
quan trọng của tri thức trong tư duy của người Thanh giáo. Mặc dù là kẻ mang tội,
nhưng Hester lại là một người am hiểu Thanh giáo. Nàng xuất thân trong một gia
đình ngoan đạo, được giáo lý Thanh giáo nuôi dưỡng, thế nên, chị ý thức rất rõ về
sức mạnh của tri thức đối với đời sống người Thanh giáo. Đó là lí do mà ngay từ giai
đoạn Pearl cịn non nớt và chập chững, chị đã ni dạy cơ bé bằng vốn kiến thức
Thanh giáo mà mình có được. Vì thế, cơ bé Pearl chỉ mới ba tuổi “đã thu được một
vốn kiến thức rộng đến nỗi bé có thể qua trót lọt được một cách vẻ vang một cuộc thi
kiểm tra không thiên vị về
Sách Kinh vỡ lòng miền Niu Inglơn, hoặc về mục thứ nhất của Sách Giáo lý vấn đáp
Westminter, mặc dù bé không hề biết hình thức hai cuốn sách nổi tiếng ấy như thế
nào” (Hawthorne, 2018, trang 154).

10


Không chỉ thể hiện màu sắc Thanh giáo trong sáng tác của mình, nhà văn
Hawthorne cịn chỉ ra sự khắc nghiệt, khô cứng của Thanh giáo với dụng ý phê phán:
Thứ nhất, các tín đồ Thanh giáo tuân thủ các tín lý Thanh giáo một cách cực

đoan cho nên mọi tội lỗi đều bị nghiêm trọng hóa lên “[d]ù trường hợp nào đi nữa,
thái độ của công chúng vẫn mang một vẻ trang trọng giống nhau ... các biện pháp xử
lý nhẹ nhất và nghiêm khắc nhất đều được xem là đáng tôn trọng và đáng kinh sợ
như nhau” (Hawthorne, 2018, trang 77). Dường như sức mạnh của Thanh giáo lúc
bấy giờ sánh ngang cả luật pháp chi phối đời sống và quy tắc ứng xử của con người,
bất kỳ sự sai phạm dù lớn hay nhỏ cũng đều bị đem ra xử phạt công khai. Cộng đồng
người Thanh giáo trong tác phẩm được Hawthorne mô tả là những con người “xem
tôn giáo và luật pháp hầu như chỉ là một” (Hawthorne, 2018, trang 77). Điều này thể
hiện rõ ở cuối tác phẩm, trong ngày hội bầu cử đông đúc và sôi nổi, Hawthorne đã
miêu tả sự đối lập giữa những người da đỏ hoang dã, những thủy thủ hào sảng với nét
kệch cỡm và phô trương với những người thuộc cộng đồng Thanh giáo đầy gị bó, e
dè và phép tắc đến mức cực đoan. Chẳng hạn khi mô tả gã thuyền trưởng mang bộ
cánh lòe loẹt với những tua dải rực rỡ, cổ đeo dây chuyền vàng, tác giả đã đặt ra giả
thiết rằng: “Nếu là một người dân trên đất liền thì hầu như khơng thể mang bộ cánh
ấy và giơ cái bộ mặt ấy ra mà không tránh khỏi một cuộc hỏi cung nghiêm khắc trước
một vị quan tịa, và có thể bị một khoản tiền phạt hoặc vào tù, hoặc có lẽ, một vài giờ
bị cùm giơ mặt trên bục bêu” (Hawthorne, 2018, trang 311).
Thứ hai, trong sự so sánh thế hệ Thanh giáo ở Mỹ với các thế hệ trước ở Anh,
tác giả đã chỉ ra điểm khác biệt nổi bật giữa họ. Nếu đời cha ông họ biết thế nào là
vui chơi hoan lạc, thì họ lại là “lớp người mang sắc thái tối tăm nhất của chủ nghĩa
Thanh giáo, và do đó làm u ám bộ mặt quốc gia đến độ tất cả những năm về sau
không thể nào làm tươi sáng lại bộ mặt đó” (Hawthorne, 2018, trang 309). Và
Hawthorne cũng khẳng định nguyên do cho màu sắc tối tăm ấy chính là sự kìm kẹp
của Thanh giáo: “Đặc điểm của thời đại ấy là mọi tâm tính và tập quán đều nhuốm
một màu ảm đạm hoặc đen tối” – điều mà khi sinh ra, họ “khơng mang tính u sầu của
chủ nghĩa Thanh giáo di truyền trong dòng máu của mình”. Nghĩa là khi sinh ra và
chưa tiếp xúc với bầu khí quyển Thanh giáo, họ vẫn cởi mở và vui tươi, nhưng cho
đến khi gia nhập vào cộng đồng Thanh giáo, họ bị chính nó gị ép, dần trở nên héo
hon, u sầu và ảm đạm. Vì thế, đời sống khổ hạnh và bầu khơng khí ảm đạm của cộng
đồng Thanh giáo Boston chỉ được xóa bỏ vào đúng một ngày duy nhất ở ngày hội

miền New England, khi mà “[n]hững người Thanh giáo tập trung dồn hết vào ngày
hội này trong năm mọi niềm hân hoan nào mà họ cho là bản chất đầy khuyết tật của

11


con người có thể được phép biểu lộ - tập tục của họ lâu nay là vậy và vẫn tiếp tục như
vậy trong gần hai thế kỷ” (Hawthorne, 2018, trang 306).
Ngoài việc nêu lên những mảng sáng, tối của Thanh giáo, Hawthorne còn chất
vấn lại lý tưởng mà Thanh giáo hướng đến khi ông cho rằng “xét theo quan điểm về
sự thanh khiết vơ hạn của Thượng đế, thì tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi”
(Hawthorne, 2018, trang 343). Theo Hawthorne, ông phủ định cái gọi là “sự thanh
khiết vô hạn” mà
Thanh giáo luôn răn dạy con người ta đạt đến, và ông khẳng định rằng chúng ta – đã
là con người – dù ít hay nhiều, đều khơng tránh khỏi tội lỗi. Vì vậy, với tác giả, điều
quan trọng không phải là tội lỗi của con người mắc phải mà chính là cách con người
đối mặt và cứu chuộc tội lỗi của mình. Khi tội lỗi được cứu rỗi, điều ấy khơng chỉ
cứu thốt họ mà còn giúp tâm hồn họ trở nên sâu sắc hơn, nhãn quan được rộng mở
hơn: “[K]ết quả của sự chịu đọa đày của kẻ tử vì đạo sẽ gột sạch tâm hồn cho thấy sự
trong trắng đã mất đi được thay thế bằng một sự trong trắng khác mang tính thánh
thiện hơn” (Hawthorne, 2018, trang 115). Chẳng hạn, qua việc Hester dùng tấm lịng
thiện lương của mình để chuộc tội đã giúp chị mở ra chiều sâu về tâm hồn và chiều
rộng nhãn quan, chị dường như có thể nhìn thấy được tội lỗi bên trong người khác
hay như hành động đối diện tội lỗi, thú tội trước công chúng của mục sư Dimmesdale
đã khiến anh chết một cái chết dẫu ô nhục nhưng chiến thắng (Hawthorne, 2018,
trang 314).
Như vậy, màu sắc Thanh giáo đã được Nathaniel Hawthorne khắc họa rõ nét qua
Chữ A màu đỏ ở nhiều phương diện. Tác giả khơng hồn tồn chỉ phê phán, phá vỡ
tính hẹp hòi, cố chấp của chủ nghĩa Thanh giáo mà ơng cịn nhìn thấy những điểm
sáng mà Thanh giáo mang lại cho đời sống tinh thần của các tín đồ ngoan đạo, từ đó

chất vấn lại và đề xuất một cách nhìn nhận mới về sự thanh khiết trong đời sống tâm
hồn mà Thanh giáo xem là lý tưởng.
2.2. Sóng đôi giữa văn minh và hoang dã
Mỹ là một quốc gia đa dạng về chủng tộc do sự di cư lớn từ nhiều quốc gia trên
thế giới. Chính vì thế, Tân thế giới trở thành trung tâm va chạm giữa các nền văn
hóa. Cùng với lãnh thổ rộng lớn trải dài từ bờ Đông sang bờ Tây, nội tại nước Mỹ
luôn tồn tại những đặc trưng riêng của hai miền Nam – Bắc. Nếu như miền Bắc nước
Mỹ đi theo hướng của hiện đại, năng động, phát triển thì Nam Mỹ lại tìm kiếm bản
sắc, mong muốn quay về truyền thống. Do đó, sự xung đột giữa văn minh và hoang
dã, giữa hiện đại và truyền thống trở thành một đặc trưng dễ nhận thấy trong văn học
Mỹ.

12


Trong Chữ A màu đỏ, có thể nhận ra sự sóng đơi giữa văn minh và hoang dã
qua nhân vật Roger Chillingworth – người chồng đứng tuổi của Hester. Đầu tiên,
Roger Chillingworth để lại ấn tượng ở độc giả là hình ảnh một người đàn ơng da
trắng “khốc một bộ trang phục kỳ dị, pha trộn kiểu văn minh với kiểu man rợ”
(Hawthorne, 2018, trang 90). Ngay từ vẻ ngoài dị dạng, Roger đã thể hiện sự pha
trộn giữa văn minh và hoang dại, mang tính đại diện cho một bộ phận người Mỹ định
cư đang trên con đường tìm kiếm bản sắc của mình. Trong một lần phiêu bạt để thỏa
khát vọng chinh phục kho tàng tri thức, Roger đã đến vùng đất của những người da
đỏ, ông ta đã bị giam giữ ở đây và khi Roger trở về lại khu định cư Thanh giáo – nơi
mà Hester chịu trừng phạt, ông đã tự giãi bày rằng ông vừa thực hiện một cuộc hành
trình rời khỏi “khu rừng bao la tăm tối để bước tới khu định cư của những con người
văn minh” (Hawthorne, 2018, trang 107). Hành trình này cũng có thể hiểu như là
hành trình của những người Thanh giáo rời khỏi bóng tối của sự độc tài, chuyên
quyền ở Giáo hội Anh để tìm đến một miền đất hứa, nơi những người hành hương tin
rằng họ sẽ sống trong sự soi sáng của văn minh, của sự tự do trong ý niệm thực hành

tôn giáo của họ.
Hay khi nói về tài năng của Roger, tác giả không phủ nhận Roger “là một con
người tài giỏi về mọi phương thức chữa bệnh bằng khoa học tự nhiên của người văn
minh, đồng thời cũng thông thạo tất cả những gì mà dân các bộ lạc man rợ có thể dạy
người ta về các thứ cây thuốc trong rừng” (Hawthorne, 2018, trang 102). Ở đây,
Roger cũng giống như nước Mỹ, trong cùng một đất nước nhưng tồn tại song song
hai màu sắc văn hóa riêng (Bắc – Nam) cũng như trong cùng một con người tồn tại
song song hai mã văn hóa (văn minh – hoang dã). Trong cách chữa bệnh của Roger,
hắn công nhận những thứ thuốc của người da đỏ hoang dã cũng có cơng hiệu ngang
ngửa “kho tàng dược liệu của nền văn minh châu Âu” (Hawthorne, 2018, trang 165).
Như vậy, ngay từ trong nhận thức của Roger, người da đỏ chính là đại diện cho sự
man rợ, vô minh, là những kẻ chưa được khai hóa, và những thứ cây cỏ mà Roger
học từ họ - cũng chính là những sản phẩm hoang dã, hoàn toàn khác biệt với cái mà
hắn gọi là “kho tàng dược liệu” – tượng trưng cho khoa học, cho văn minh và chân
lý. Có thể nói, việc hắn bộc lộ vẻ ngồi hỗn tạp cũng như khơng hề giấu giếm cách
chữa bệnh kết hợp giữa hoang dã và văn minh đối với người bệnh đã thể hiện rằng
hắn chấp nhận sự sóng đơi giữa văn minh và hoang dã trong chính con người mình,
khơng bài trừ cũng như khơng thiên vị cho bất cứ bên nào mà công bằng đón nhận
văn minh và hoang dã cùng một lúc.
Bên cạnh nhân vật Roger, cô bé Pearl cũng là nhân vật bộc lộ sự sóng đơi giữa
văn minh và hoang dã. Pearl chính là đứa trẻ hoang dã được kết tinh từ hai đại diện
của sự văn minh – mục sư Dimmesdale và nàng Hester. Thứ nhất, với Dimmesdale,

13


chàng là vị mục sư am hiểu sâu sắc Thanh giáo, được xem là người phát ngôn cho
Thượng đế, được cả xã hội công nhận là một đỉnh cao được ngưỡng vọng nhờ sự trí
tuệ, tri thức, văn minh. Thứ hai, với Hester, mặc dù mang tội nhưng nàng cũng là
người am hiểu Thanh giáo, dạy cho Pearl giáo lí từ nhỏ. Thế mà Pearl – ngay từ khi

sinh ra – đã mang đặc tính hoang dã, đồng bóng, dị biệt, vơ phép và có mối liên kết
đặc biệt với thiên nhiên, khiến cho người mẹ Hester đã nhiều lần đặt câu hỏi: “Bé
Pearl có phải là một đứa trẻ của lồi người khơng?” (Hawthorne, 2018, trang 130).
Có thể nói, Pearl dường như đồng nhất bản thân với thế giới hoang dã. Cơ và
thiên nhiên như hịa làm một, cơ bé xem mình bình đẳng với vạn vật trong khu rừng
mà cơ có dịp đến. Ở đó, Pearl chơi với chị gà gơ, anh chim cu, chú sóc, chàng cáo, cả
một gã sói cũng “giơ cái đầu dữ tợn ra cho bé vuốt ve”, bởi “tất thảy đều nhìn nhận ở
đứa bé này của lồi người một tính chất hoang dã như thể cùng họ hàng bà con với
chúng” (Hawthorne, 2018, trang 274). Đối với cô bé, việc được sắm vai thành “nữ
thần sơng núi, hay nữ thần rừng tí hon, hay là bất kỳ một thứ nhân vật thần thoại nào
đó gắn liền với núi rừng trong những truyền thuyết cổ” (Hawthorne, 2018, trang 275)
như là cách cô bé giải phóng năng lượng hoang dã trong con người. Có thể nói, nếu
như đời sống văn minh kìm hãm sự tự do của Pearl thì đời sống hoang dã lại cho
Pearl khơng gian bộc lộ bản thân.
Ngồi ra, hình tượng khu rừng trong tác phẩm cũng tượng trưng cho tính hoang
dã, sự vơ minh. Theo dịng lịch sử văn học Mỹ, các bộ tộc người da đỏ cũng sinh
sống trong những khu rừng, họ tự tạo lập đời sống văn minh của riêng họ bằng những
luật lệ nằm ngoài luật pháp chung của nước Mỹ. Nếu như luật pháp tượng trưng cho
tính văn minh thì việc sống ngồi luật pháp là một biểu hiện của tính hoang dại.
Trong Chữ A màu đỏ, khi sự kì thị của cộng đồng đẩy Hester và Pearl vào bước
đường cùng, Hester đã lánh khỏi xã hội văn minh để đến sống ở túp lều nhỏ gần cánh
rừng che phủ phía Tây
– dấu hiệu của sự hoang dã. Thế nhưng, dù chọn sống ở rìa văn minh, nương mình
vào chốn hoang dã nhưng bản thân Hester lại khơng hồn tồn biến mình thành một
kẻ ngoại đạo cách ly khỏi văn minh. Điều đó thể hiện ở tài may vá của Hester – nghề
nghiệp mà chị lao động để ni sống bản thân và Pearl. Chính cái nghề nghiệp ấy là
dấu hiệu của tri thức văn minh mà chị được học hỏi qua nhiều thế hệ để phục vụ cộng
đồng. Do đó, Hester có nét giống Roger ở chỗ là chị chấp nhận sự sóng đơi giữa văn
minh và hoang dã.
Có thể thấy, trong tác phẩm Chữ A màu đỏ, tác giả đã thể hiện sự sóng đơi giữa

hoang dã và văn minh thơng qua biểu tượng khu rừng, nơi ở của Hester, cùng với
hình tượng nhân vật Roger và Pearl. Từ đó, có thể thấy được sự va chạm văn hóa

14


trong nội tại nước Mỹ khiến họ không ngừng băn khoăn, trăn trở trong hành trình tìm
kiếm bản sắc văn hóa của mình.
2.3. Vấn đề định danh và căn tính dân tộc
Căn tính là câu hỏi lớn mà người da trắng gốc châu Âu, người da đỏ bản địa và
cả người da đen (từ châu Phi bị mua bán nô lệ) ở Mỹ đều đi tìm. Với người da trắng,
họ từ Anh quốc hành hương sang vùng đất hứa (Mỹ) với mong muốn ly khai với quê
hương của họ - nước Anh, vì sự chuyên quyền của giáo hội Anh không cho phép họ
tự do với hoạt động thực hành tơn giáo của mình. Thế nhưng mong muốn tách ly
khỏi Anh quốc của họ liệu có thể thực hiện một sớm một chiều được chăng, hay suy
cho cùng, trong họ vẫn tồn tại những căn tính Anh mà họ khơng thể nào chối cãi?
Hay người da đỏ bản địa, họ bị người da trắng xâm chiếm, đánh đuổi vào rừng đã
khiến căn tính của họ bị thui chột ít nhiều. Còn với người da đen từ châu Phi trở
thành hàng hóa vận chuyển đến Mỹ, họ phải sống kiếp nơ lệ lang thang vô xứ, mất
gốc gác, mất quê hương, trở thành kẻ phục tùng cho người da trắng. Riêng với Chữ A
màu đỏ, việc tìm kiếm căn tính được Hawthorne tập trung thể hiện ở những người da
trắng gốc Anh trong khu định cư Boston, bằng việc ông thường xuyên để nhắc nhớ
về Anh quốc.
Chẳng hạn, khi đối chiếu lớp đàn bà ở khu định cư Boston với lớp đàn bà ở Anh
quốc cổ, tác giả viết: “Về tinh thần cũng như thể xác, lớp đàn bà con gái ấy thuộc
dòng dõi và lễ giáo của người Anh xưa, mang tính chất thơ lỗ hơn [...] với những đặc
điểm thể chất đã chín từ hồi cịn trên hịn đảo nước Anh cổ xa xôi, hầu như chưa phai
nhạt đi tí nào trong bầu khơng khí của Niu Inglơn” (Hawthorne, 2018, trang 78).
Nghĩa là ở đây, Hawthorne cho rằng những người đàn bà sống ở khu định cư Boston
vẫn mang những đặc tính di truyền về mặt sinh học với thế hệ đàn bà sống ở Anh

thời trước. Từ cả thể xác lẫn tinh thần, tác giả đều nhận ra điểm tương đồng “chưa
phai nhạt tí nào” của những người Thanh giáo ở Boston so với những người ở nước
Anh cổ.
Hay trong khoảnh khắc khi Hester đứng trên bục bêu, cơ bỗng nhìn thấy tồn
cảnh của q khứ, chị nhìn thấy lại làng q mình, bên nước Anh cổ. Cơ nhớ về gia
đình mình, về một vùng q xa xơi, về những kí ức thơ trẻ khi cơ cịn ở Anh quốc.
Có thể nói, khi con người ta đang đứng trên bờ vực của sự hoang mang, đau khổ,
tuyệt vọng, điều mà họ nghĩ đến ngay khi ấy, chắc hẳn phải là điều rất thiêng liêng.
Hester cũng tương tự, khi bị bêu công khai trước dân chúng và bị chỉ trích, phỉ báng
về tội lỗi của mình, trong một khoảnh khắc, nàng lại nhớ về chốn thân thuộc nước
Anh, nơi mà nàng đã từng sống, từng hy vọng, từng xem là quê hương mình.
Cả khi miêu tả kiến trúc trong căn nhà của Thống đốc Bellingham, độc giả cũng
có thể thấy được cách tác giả đối sánh giữa Mỹ với Anh quốc: “Đồ bày biện trong

15


phòng [...] đều là thứ thuộc thị hiếu thời nữ hoàng Elizabeth I [...] như để biểu thị
rằng tinh thần mến khách của nước Anh cổ không bị để quên lại bên kia”
(Hawthorne, 2018, trang
145). Thế nên có thể thấy, mặc dù đã chọn Mỹ làm miền đất hứa, nơi mà những
người Anh nghĩ họ sẽ có đời sống tự do khi cắt lìa phần Anh quốc u ám kia đi, thì
thực ra, họ vẫn mang phần gốc gác, phần văn hóa, phần căn tính từ Anh quốc. Điều
này cũng là biểu hiện của tính lưỡng phân trong văn học và văn hóa Mỹ, khi một
mặt, họ khao khát đến Mỹ để tìm kiếm lý tưởng của việc thực hành tơn giáo để cắt bỏ
hồn tồn phần Anh quốc trong họ, nhưng một mặt khác, họ vẫn nhớ về Anh quốc,
vẫn thừa hưởng phơng nền văn hóa từ nước Anh cổ, vẫn mang cốt cách và dáng vẻ
của người Anh. Chính điều này sẽ dẫn đến câu hỏi mà họ phải lựa chọn: họ là ai trên
cuộc hành trình xác định căn tính này? Họ là người Mỹ, hay là người Anh?
Ngoài ra, Hawthorne cũng đặt câu hỏi cho Hester, rằng tại sao Hester không trở

về nơi “chôn rau cắt rốn” để ẩn tích mai danh dưới một bề ngồi đổi mới mà lại chọn
đất Mỹ - nơi mà chị bị chỉ trích để sống và thậm chí cịn gọi mảnh đất ấy là xứ sở của
mình, quyết ở đấy và chỉ ở đấy mà thơi? Ở đây, ngồi việc nhắc nhớ về Anh quốc,
tác giả cũng bộc bạch nỗi lòng của những người da trắng di cư đến Mỹ: họ muốn
được hưởng tự do, họ muốn được thực hành Thanh giáo theo ý niệm riêng của mình,
và do đó, họ có những mong cầu nhất định về vùng đất mà họ tin là vùng đất hứa.
Thế cho nên, lí do Hester chọn khu định cư Boston để chấp nhận bị chì chiết khơng
chỉ là vì đó là nơi cơ gây ra tội lỗi, và cô phải cứu chuộc tội lỗi ngay trên mảnh đất
này, mà hơn thế nữa, vì Boston (hay Mỹ nói chung) – đối với Hester hay những
người da trắng đều mang một ý nghĩa thiêng liêng. Đó là một khát vọng, một mong
mỏi, một sự tin tưởng mà họ đã quyết định cắt lìa cố hương của mình để tìm đến
vùng đất mới.

2.4. Vấn đề biểu tượng
Theo TS. Nguyễn Văn Hậu, biểu tượng “là một hình ảnh tượng trưng mang tính
chất thơng điệp được sử dụng trong tác phẩm nghệ thuật nhằm chỉ ra một ý nghĩa nào
đó, theo một quan hệ ước lệ giữa sự vật trong thơng điệp và sự vật ngồi nó”.
(Nguyễn Văn Hậu, n.d.).
Trong tác phẩm Chữ A màu đỏ, Hawthorne đã dùng lối diễn đạt ngụ ý, phóng
dụ cùng hình ảnh tượng trưng để đi sâu miêu tả nội tâm nhân vật đồng thời gửi gắm
những ý nghĩa sâu xa.

16


2.4.1. Hình tượng chữ A màu đỏ
Ngay từ nhan đề, nhà văn đã sử dụng hình tượng chữ A màu đỏ để định danh
cho tác phẩm. Chính cái tên Chữ A màu đỏ gợi sự tò mò ở độc giả, khiến người đọc
chú ý đến những chi tiết liên quan trong tiểu thuyết.
Trước hết, màu đỏ biểu trưng cho sự cấm đoán, sự cảnh báo mọi người về nguy

hiểm. Do đó, khi đeo chữ A màu đỏ, Hester được xem là mối nguy hiểm, sự cấm kị
của cộng đồng Thanh giáo.
Ban đầu, chữ A màu đỏ biểu hiện cho tội lỗi của Hester. Người phụ nữ trẻ vì tội
ngoại tình đã phải đứng trên bục tội hình hàng tiếng đồng hồ trước công chúng và
phải mang chữ A màu đỏ trên ngực đến cuối đời. Chữ A màu đỏ lúc này được hiểu
theo nghĩa “Adultery” – tội ngoại tình, tượng trưng cho thiết chế khắc khe của Thanh
giáo đang trừng phạt kẻ đã vi phạm nó. Việc Hester đeo trên ngực chữ A màu đỏ,
tuân theo bản án mà Thanh giáo định đoạt cho chị chẳng khác nào muốn tước đoạt
danh tính của chị, tách chị khỏi cộng đồng như cái cách Chúa đánh dấu lên Cain (con
cả của Adam và Eva phạm tội giết Abel – em trai) để không ai nhận ra và làm hại hắn
cũng như biến Cain thành một kẻ lang thang, chạy trốn khắp nơi trên trái đất và bị
loại khỏi gia đình (Mai Hương, 2022).
Hình ảnh chữ A màu đỏ “với những đường thêu thùa kỳ diệu rạng rỡ trên ngực
chị” (Hawthorne, 2018, trang 82) lại khơng phải là món trang sức tơ điểm cho vẻ đẹp
của chị mà nó được xem giống như một dấu sắt nung đỏ khảm sâu vào da thịt chị
khiến cho chị cảm nhận sâu sắc tội lỗi của mình mỗi khi chạm vào nó.
Có thể nói, chữ A màu đỏ có sức sát thương to lớn, đặc biệt, khi gã thầy thuốc
gí nó vào người Hester, “tức thì cái dấu hiệu ơ nhục dường như phát sức nóng cháy
bỏng ngực trên Hester, như thể nó là sắt nung đỏ” (Hawthorne, 2018, trang 106). Từ
khi đeo chữ A màu đỏ trên ngực, Hester cảm nhận rõ sự cách li của xã hội, nỗi tủi
nhục mà chị phải chịu đựng, chị trở thành đối tượng để bị phỉ báng, thuyết giảng, răn
đe trong nhà thờ “chị sẽ thành một biểu tượng chung để cho những vị thuyết pháp và
những nhà đạo đức có thể trỏ tay vào và giải thích và minh họa một cách sinh động
những hình ảnh mà họ nêu ra về sự yếu đuối của đàn bà về đam mê tội lỗi”
(Hawthorne, 2018, trang 120). Một xã hội khắc nghiệt, chỉ chằm chằm vào những tội
lỗi của con người mà phớt lờ hết mọi khía cạnh tốt đẹp khác của họ (Trước đây,
Hester có thể là một cơ gái đảm đang, tháo vát, có thể là một người vợ tốt, có thể là
một người đàn bà đẹp nhất vùng. Nhưng từ nay cho đến chết, chị vĩnh viễn là một
người đàn bà ngoại tình). Xã hội Thanh giáo khắc nghiệt khiến người ta như chết
chìm trong vũng sình lầy tội lỗi của đời mình mà khơng có cơ hội cải biến, hoàn

lương.

17


Từ người thường đến mục sư, từ người lớn đến trẻ nhỏ đều cảm thấy khó chịu
khi nhìn thấy chữ A màu đỏ trên ngực Hester đến nỗi, bọn trẻ con cịn q ít tuổi để
hiểu được lý do tại sao chị đeo chữ A màu đỏ, “khi nhìn thấy chữ A màu đỏ trên
ngực chị, chúng vội ù té chạy với một nỗi kinh hoàng kỳ dị lây lan ra cả bọn”
(Hawthorne, 2018, trang 116). Như vậy, chính tính khắt khe của Thanh giáo đã dán
nhãn tội danh cho một con người và tạo nên nỗi khiếp sợ cho những người xung
quanh. Chữ A màu đỏ buộc chặt vào thể xác của Hester, khiến người phụ nữ này
luôn sống trong nỗi ám ảnh của tội lỗi.
Đau đớn hơn, khi chữ A màu đỏ, thứ định tội Hester lại trở thành đặc điểm nhận
dạng mẹ của Pearl. Chữ A màu đỏ in hằn trong trí óc của trẻ thơ, cái đầu tiên trong
đời Pearl nhận thức được chính là chữ A màu đỏ trên ngực Hester, “cô bé giơ bàn tay
tí xíu, bé chộp lấy cái chữ ấy, mỉm cười, không phải là cái mỉm cười mơ hồ, mà với
một nét quả quyết ánh lên trong đôi mắt” (Hawthorne, 2018, trang 135). Hành động
của Pearl như thể đứa trẻ đang chạm tay vào nỗi ô nhục của chị. Chữ A dày vị tâm
hồn người mẹ, khiến chị khơng thể nào tận hưởng trọn vẹn niềm vui của việc làm mẹ.
Chị thấy xấu hổ, tự ti, không thoải mái trước ánh nhìn của đứa con thơ vào chữ A
màu đỏ trên ngực mình.
Khi ở trong rừng, Hester đã tháo chữ A màu đỏ và vứt nó ra xa trên đám lá vàng
úa (Hawthorne, 2018, trang 270). Chị cứ ngỡ mình đã thoát khỏi sức nặng của tội lỗi
đang đè lên trái tim nhưng nào ngờ Pearl khó chịu, bé chỉ thẳng vào ngực mẹ - nơi
chữ A biến mất khiến Hester phải đến nhặt lại chữ A và cài nó lên ngực (Hawthorne,
2018, trang 273). Như vậy, giờ đây sự trừng phạt lớn nhất khơng cịn xuất phát từ xã
hội, chữ A biểu tượng của tội lỗi lại trở thành điểm nhận diện mẹ mình của đứa bé
ngây thơ và chính hành động giận dỗi, bắt mẹ mang lại chữ A là sự trừng phạt đau
đớn nhất mà Hester phải gánh chịu.

Hình ảnh chữ A màu đỏ khơng chỉ biểu hiện cho tội lỗi mà còn biểu hiện cho sự
cứu chuộc. Chữ A như là cái soi chiếu ánh sáng của thiên lương, dẫn đường cho
những người đói khổ, cưu mang những kẻ bần cùng.
“Khơng ai sẵn lịng bằng chị trong việc bớt ra một phần trong số của cải ít ỏi
của mình để cứu trợ cho một nhu cầu quẫn bách của kẻ bần cùng, dù rằng con
người nghèo đói mang nặng trong tim nỗi đắng cay có khi lại buông lời chế
giễu đáp lại công ơn chị mang miếng ăn đến cửa nhà họ đều đặn hàng ngày
hoặc khâu vá quần áo cho họ bằng đôi bàn tay xứng đáng dành cho công việc
thêu thùa những tấm áo bào vương giả. Khơng ai tận tụy qn mình bằng chị
khi bệnh dịch hoành hành trong thành phố.” (Hawthorne, 2018, trang 217)
Chữ A màu đỏ của Hester lúc này biểu tượng cho lòng nhân ái, cho chỗ dựa,
cho ánh sáng của tình thương. Mọi người dần nhìn nhận chị với một cái nhìn thiện

18


cảm. “Họ bảo rằng chữ A ấy có nghĩa là Abel 1, bởi lẽ sức mạnh của một người đàn
bà thôi, mà Hester Prynne mạnh mẽ xiết bao.” (Hawthorne, 2018, trang 218). Giờ
đây, chữ A trở thành điểm nhận dạng tích cực của Hester. Từ dân thường đến các bậc
cầm quyền đều
“thừa nhận tác động của những đức tính tốt từ Hester Prynne” (Hawthorne, 2018,
trang 219).
Chị sống khổ hạnh, chịu thương chịu khó. Dành cho đứa bé những điều tốt đẹp
nhất. Tấm áo chị mặc được làm từ chất vải thơ nhất cịn bộ cánh của đứa trẻ thì kĩ
xảo kì lạ đến độ kì diệu. Ngồi số tiền để săn sóc cho con, chị dành hết tiền bạc mình
kiếm được cho từ thiện (Hawthorne, 2018, trang 119). Hành động của Hester ở đây
có thể là ý thức tự hành xác để hối lỗi, có thể là sự tự nguyên hi sinh để cống hiến
cho công việc. Chữ A là tấm hộ chiếu “cấp phép” cho Hester khám phá những chiều
sâu tâm hồn “Chữ A màu đỏ là tấm hộ chiếu để chị đi vào những địa hạt mà những
người phụ nữ khác không dám bước tới” (Hawthorne, 2018, trang 267). Chữ A đôi

lúc cho chị một giác quan mới, đó là nhận biết được tội lỗi giấu kín trong lòng người
khác, thỉnh thoảng, chị ngửi được mùi tội lỗi khi đi qua một vị mục sư, một quan tòa
đáng kính, mẫu mực của lịng ngoan đạo và cơng lý. Như vậy, khơng một ai là khơng
có tội, con người không thể tránh khỏi tội lỗi, chỉ khi chúng ta đối diện với tội lỗi
mới trở nên sâu sắc hơn.
Ngoài ra, chữ A màu đỏ khiến Hester mất đi thuộc tính, bản năng giới của chị
“dường như khơng cịn gì trên khn mặt của Hester cho tình u say đắm”
(Hawthorne, 2018, trang 221). Chị giấu đi vẻ ngoài đẹp đẽ của mình bằng lối ăn mặc
xuềnh xồng, giấu đi cả mái tóc – một trong những đặc điểm tự hào của người phụ
nữ. Chữ A màu đỏ làm nhân dạng của chị héo mịn, hút đi sức sống của tình yêu đôi
lứa trong chị.
Về sau, hành động vứt chữ A màu đỏ trên ngực mình của Hester như là sự tự
giải thoát cho sự trừng phạt trong suốt bảy năm của mình “chị giật chiếc mũ cho tóc
rớt xuống” (Hawthorne, 2018, trang 271) để cởi trói cho bản năng, thiên hướng giới
của mình.
Chữ A khơng chỉ ám ảnh lấy cuộc đời Hester mà còn dày vò cả mục sư
Dimmesdale. Chàng mục sư trẻ nhìn thấy chữ A thấp thống hiện trên bầu trời trong
màu sắc của thứ ánh sáng mờ đục (Hawthorne, 2018, trang 210).
Như vậy, chữ A màu đỏ vừa biểu hiện cho tội lỗi vừa cứu chuộc cho người phụ
nữ mang tội ngoại tình. Chữ A đi từ ý nghĩa Adultery – tội ngoại tình đến Angel,

1 Abel. – Con trai thứ hai của Ađam và Eva (kinh thánh). Theo kinh Tân ước – New Testament -, Abel được
xem là kẻ đầu tiên trong những người chính trực, có sức mạnh của đạo đức, đã chết vì đức tin của mình.

19


Abel – chỉ sự thiên lương, trong sáng trong tâm hồn. Chữ A màu đỏ phản chiếu vẻ
đẹp tâm hồn của Hester – một người phụ nữ giàu đức hi sinh và tình yêu.
2.4.2. Hình tượng cái bục tội hình

Bên cạnh chữ A màu đỏ, bục tội hình cũng là một trong những biểu tượng của
sự trừng phạt. Đây là nơi mà Hester bị dẫn đến chịu tội, bị bêu xấu trước cơng chúng
và chính nơi này đã khiến Hester bị cắt đứt sợi dây liên lạc với cộng đồng, mở ra một
dấu mốc mới trong cuộc đời chị – chị bị cách ly khỏi đồng loại.
“Trên bục, sừng sững cái giàn gông của thứ công cụ trừng phạt ấy, được đóng
góp theo cách như thế nào đó để kìm chặt lấy cái đầu người có tội, nhếch cái
đầu ấy ngẩng lên cho cơng chúng nhìn rõ” (Hawthorne, 2018, trang 84)
Đứng trên bục tội hình, Hester phải chịu đựng “hàng ngàn con mắt đổ dồn vào
người có tội, như muốn xuyên thủng ngực chị” (Hawthorne, 2018, trang 85). Chính
nghi thức trừng phạt công khai này đã khiến Hester phải chịu nhiều tổn thương.
Bảy năm sau, bục tội hình cũng chính là nơi mục sư Dimmesdale thú nhận và
giãi bày tội lỗi. Ở nơi đây, Dimmesdale đã công khai tội lỗi bí mật của mình, anh đã
gọi Hester và Pearl đến bục bêu cùng mình và thốt lên những lời thú tội trước cơng
chúng. Bục tội hình giờ đây như sân khấu của cuộc đời, vị mục sư trẻ đứng trước
những tín đồ mà hàng ngày anh thuyết giảng giáo lý Thanh giáo và nói ra tất cả
những sai trái mà mình đã phạm phải. Như vậy, bục tội hình khơng chỉ là nơi trừng
phạt mà nó cịn là thánh đường cứu chuộc Dimmesdale, Hester, Pearl. Cả gia đình họ
chỉ thực sự được đồn tụ một cách danh chính ngơn thuận trên bục tội hình mà hàng
ngàn tín đồ Thanh giáo cho rằng nơi đây chỉ dành cho những kẻ tội lỗi chịu sự trừng
phạt có phần làm nhục của Thanh giáo.
Hơn thế nữa, bục tội hình cũng là nơi cứu chuộc Roger, người đàn ơng cố tình
tước đi danh tính của mình, quên đi quá khứ tươi đẹp để gia nhập vào một cuộc đi
săn danh tính nhân tình của vợ nhằm trả thù và lấy lại danh dự cho bản thân. Thế
nhưng, cuộc đi săn đã phải dừng lại khi con mồi tự thú nhận tội lỗi trước nhiều
người, vì thế, mục tiêu đi săn của Roger biến mất một cách bất đắc dĩ khiến ông ta
phải thốt lên rằng: “Ngươi đã thoát khỏi tay ta” (Hawthorne, 2018, trang 339) trong
sự thẫn thờ, vơ hồn, khơng cịn sự sống. Nếu như trước đây, mục tiêu sống của Roger
là khát vọng đi phiêu bạt khắp nơi để tiếp thu kiến thức của nhân loại thì giờ đây,
mục tiêu sống của ơng ta chính là tìm được người ngoại tình với vợ cũ và đem hắn ra
bêu xấu trước mọi người để thỏa mãn sự chiến thắng trong việc lấy lại danh dự cho

bản thân. Tuy nhiên, Roger đã không làm được điều đó. Và ở bục tội hình, ngay khi
Dimmesdale thú nhận tội lỗi cũng chính là lúc mục tiêu sống của Roger biến mất.

20



×