Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Tình hình kinh tế xã hội thành phố thái nguyên từ 1986 đến 2002

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.45 MB, 144 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM
---------

"ộ"

--------------------------------------

NGUYỄN THU HUYỀN

tình hình kinh t ê - x ã hội

THÀNH PHỦ thái

nguyên

TỪ 1986 ĐẾN 2002

Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số
60.22.54

LUẬN VĂN THẠC s ĩ LỊCH s ử

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. Tran Bá Đệ

THÁI NGUYÊN - 2004



MỤC LỤC
Tran
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................
C hương 1. Kinh tê-xã hội thành phố Thái Nguyên trước 1986 ....................... 1
1.1.Khái quát vê thành phơ Thái N gun................................................................. ỉ
1.1.1.

Q trình hình thành, điều kiện tự nhiên.....................................................1

1.1.2. Đặc điểm kinh tế-xã hội....................................................................................... 1
1.2. Kinh tế-xã hội thành phô Thái Nguyên trước n ăm l986 ............................2
1.2.1. Tình hình k in h ........................................................................................................ 2
1.2.2. Tinh hình xã h ộ i......................................................................................................3
C hương 2: Tinh hình kinh tế thành phô TN từ 1986 đến 2002 .....................3
2.1. T h àn h p h ô T h ái N guyên trong thời kỳ đ ổi m ớ i.............................................. 3
2.1.1. Bối cảnh lịch sử m ớ i..............................................................................................3
2.1.2 Đường lối đổi mới của Đảng và sự vận dụng của Đảngbộ Thành phố .... 3
2.2. Tình hình kinh tế thành phơ Thái Ngun...................................................... 4
2.2.1. Về công nghiệp, tiểu-thủ công nghiệp............................................................. 4
2.2.2. Về nông nghiệp, lâm nghiệp............................................................................... 6
2.2.3. Về thương mại, dịch vụ, du lịch .............................................. •....................... 7
2.2.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng.........................................................................................7
C h ư ơn g 3: Biến đổi xã hội thành phó Thái Nguyên

từ 1986 đến 2002 .... 8

3.1. T rong lao động, việc là m ........................................................................................á
3.2. T rong thu nhập, đời s ố n g ...................................................................................... í
3.3. Trong văn hố, giáo d ụ c .........................................................................................5

3.4. Trong y tế, môi trư ờ n g .......................................................................................... It
K Ế T L U Ậ N ......................................................................................................................1]
TÀ I L IỆ U THAM K H Ả O ......................................................................................... i :
PHỤ LỤ C




BẢNG CH Ữ V IẾ T TẤ T

BCH

Ban Chấp hành

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CNH,HĐH

Cơng nghiệp hố, hiện đại hố

CĐSP

Cao Đẳng sư phạm

ĐHSP

Đại học sư phạm


HN

Hà Nội

PTTH

Phổ thông trung học

PTCS

Phổ thông cơ sở

TW

Trung ương

TN

Thái Nguyên

THCS

Trung học cơ sở

THSP

Trung học sư phạm

TH


Trung học

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

XHCN

X ã hội chủ nghĩa

3


MỞ ĐẨU
1. Lý do chọn đề tài
Các M ác là người đầu tiên đưa ra định nghĩa khoa học về vị trí của kin
tế trong sự phát triển xã hội. Mác viết: “T oàn b ộ những quan h ệ sản xuất /z(/
thành c ơ cấu kinh t ế củ a x ã hội, thành c ơ s ở hiện thực trên đ ó xây clựng nê
một kiến trúc thượng tầng p h á p lý và chính trị và thích ứng với kiến trú
thượng tầng ấy là những hình thức nhất định củ a ỷ thức x ã h ộ i ” [16;tr.6-7].
Kinh tế là cơ sỏ của mọi quan hệ xã hội và giữ vai trò quyết định tron
sự phát triển xã hội. Bằng chính sách kinh tế, Nhà nước sẽ điều tiết nền sả
xuất vật chất - cơ sở phát triển xã hội. Qua đó xác định triển vọng và nhịp đ
phát triển của xã hội.
ở mọi thời kỳ lịch sử, vấn đề kinh tế Iưôn luôn được quan tâm ch
trọng; vì nó có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình chính trị, a
ninh, quốc phịng, văn hố, giáo dục...K inh tế là vấn đề quyết định hàng đầ
sự sinh tồn và phát triển của mỗi quốc gia. Xác định đúng đắn tình hình kin
tế là yếu tố quan trọng hàng đầu để mỗi quốc gia lựa chọn con đường ph;
triển của đất nước cho phù hợp. Lênin nói: "Những cơ i r ễ sâu x a nhất củ

chính sá ch đ ố i nội cũng như đ ối ngoại củ a N hà nước chủng ta đều d o nhĩa
lợi ích kinh tế, đ ịa vị kinh t ế củ a c á c giai cấ p thống trị ở nước ta quyết định
[52;tr.403-404].
Tình hình kinh tế-xã hội là sự phản ánh rõ nét quá trình phát triển CI
mỗi thời kỳ lịch sử. Nói cách khác, sự tiến bộ của đất nước trong một gi
đoạn nào đó thường được đánh giá trên hai mặt: sự gia tăng về kinh tế và :
tiến bộ về xã hội. Trong đó kinh tế địa phương góp phần không nhỏ vào :
phát triển chung của kinh tế quốc gia. Chiến lược và quy hoạch phát triển kii
tế-xã hội ở Việt Nam trong những năm qua có ý nghĩa rất quan trọng, nên vi
đầu tư phát triển kinh tế địa phương được Đảng ta xác định là một nhiệm

4


quan trọng, làu dài và tất yếu trên bước đường xây dựng, phát triển đất nướ(
Đế có thể xác định rõ bước đi cho quá trình phát triển, việc nghiên cứu tin
hình kinh tế-xã hội giai đoạn đã qua là việc làm rất cần thiết.
Trong nền kinh tế XHCN, kinh tế Trung ương giữ vai trị chủ đạo. Đí
hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI (12/1986), nhấn mạnh: "N hiệm

V

c ả i tạo XHCN đặt ra ch o chặng đường đầu tiên là kinh tê XHCN với khu vụ
q u ố c d oan h làm nòng cố t, p h ả i giành được vai trò quyết định trong nền kin
t ế q u ố c dân ” [27;tr.59].
Nhiệm vụ đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi phải đổi mới cả kinh tế đị
phương. Kinh tế Trung ương và kinh tế địa phương hợp thành cơ cấu thống nhâ
hoàn chỉnh của nền kinh tế XHCN. Kinh tế địa phương bao gồm: Kinh tế nôn
nghiệp, công nghiệp, tiểu-thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ, thương mại, lu
thông phân phối ở các địa phương và là một bộ phận tất yếu của cơ cấu kinh tế c

nước. Vì vậy, việc đầu tư phát triển kinh tế địa phương rất quan trọng, khơng cl
có ý nghĩa trước mắt mà cịn là chiến lược lâu dài để củng cơ' tiềm lực kinh tế đ
phương; đồng thời góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.
Cách Thủ đô Hà Nội 80km về phía Tây Bắc, thành phố Thái Nguyên
trung tàm hành chính, kinh tế, chính trị, văn hố-xã hội của tỉnh Thái Nguyê:
Nơi đây từng là Thủ phủ Khu Tự trị Việt Bắc, là “chiếc nơi” của cơng nghÍẾ
luyện kim Việt Nam, với Khu công nghiệp Gang Thép được xây dựng
những năm cuối thập kỷ 50 (thế kỷ X X ). Sự ra đời của các khu công nghié
nặng, công nghiệp nhẹ, cùng với nhiều khu mỏ, tạo cho thành phố Th
Nguyên một dáng hình đặc trưng của thành phơ' cơng nghiệp.
Thành phố Thái Ngun có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi, tài nguyt
thiên nhiên khá phong phú, là cơ sở để phát triển một nền kinh tế tồn diệ
Dưới bàn tay và khối óc của những con người năng động, thành phơ' Th
Ngun đã góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế nói chung, kinh
cơng nghiệp nói riêng của đất nước trong quá khứ, hiện tại và cả tươno lai.

5


Thực hiện đường lối phát triển kinh tế của Đảng, trong những năiT
1980-1985, nằm trong tình hình khó khăn chung của cả nước, thành phc
Thái Ngun gặp khơng ít khó khăn về kinh tế-xã hội. Mặc dù Thành phc
đã có nhiều cố gắng phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, các ch
tiêu về công nghiệp, tiểu-thủ công nghiệp đều tăng so với những năm trước
song, tốc độ tăng sản phẩm còn chậm; nhiều cơ sở sản xuất do nhữnị
nguyên nhân khó khăn khác nhau, sản xuất bấp bênh, chưa khai thác hế
tiềm lực hiện có, nên tỷ trọng công nghiệp, tiểu-thủ công nghiệp trong tổnị
thu nhập của Thành phố cịn thấp...
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI (12/1986), đề ra đường lối đổi mới
đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện và sâi

sắc ở nước ta; đặc biệt là sự đổi mới về quan điểm kinh tế. Tư duy mới về kinỉ
tế mà EỊại hội V I đưa ra chính là sự vận dụng đúng đắn Chủ nghĩa Mác-Lênii
vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, phù hợp với quy luật và trình độ phát triểi
của nền kinh tế ở mỗi thời kỳ.
Những năm tiếp theo, trước những thành tựu và khó khăn về kinh tế-x
hội của đất nước, Đảng ta lại tiếp tục đưa ra các chiến lược, mục tiêu phá
triển phù hợp. Điều đó được thể hiện rõ trong Nghị quyết các kỳ Đại hội Đản
toàn quốc lần thứ VII, V III và IX.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, thành phô' Thái Nguyên đã vận dụn
như inố nào iNghỊ quyết các Đại hội lần thứ V I, VII, V III và IX của Đảng và
cuộc sống? Tinh hình kinh tế-xã hội của thành phố Thái Nguyên có chuyể
biến ra sao, đạt được những thành tựu gì và cịn những hạn chế, tồn tại nào cầ
khắc phục?
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề kinh tế-xã hội trong thời kỳ đổi mới là mí
việc làm cẩn thiết; là nhiệm vụ của nhiều ngành khoa học, trong đó có khc
học lịch sử để làm sáng tỏ những vấn đề nói trên, giúp ta thấy được nhữnơ u
điểm để phát huy và những tồn tại để khắc phục, góp phần vào việc xây dựr

6


hoàn chỉnh và phát triển đề án quy hoạch kinh tế-xã hội của Thành phố; từ đó,
tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển của thành phô' Thái Nguyên trong những thập
niên đầu của thế kỷ XXI, tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và truyền thống
quê hương.
Nghiên cứu tình hình kinh tế-xã hội thành phố Thái Nguyên từ 1986
đến 2002, cịn góp phần cung cấp thêm tư liệu cho việc nghiên cứu, biên
soạn lịch sử, cũng như phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục truyền
thống lịch sử.
Theo suy nghĩ đó, chúng tơi chọn: “Tình hỉnh kinh tế-x ã h ội thành

p hố Thái Nguyên từ 1986 đến 2002 ” làm để tài luận văn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tinh hình kinh tế-xã hội cả nước nói chung, ở các địa phương nó
riêng, là một vấn đề được những nhà nghiên cứu ở trung ương và địa phương
quan tâm nghiên cứu dưới nhiều hình thức, góc độ khác nhau. Đặc biệt, từ kh
thực hiện công cuộc đổi mới đất nước theo chủ trương của Đảng, với cách ti
duy mới, chúng ta đã thấy rõ hơn vai trò của kinh tế địa phương đối với SI
phát triển chung của kinh tế cả nước. Điều này được thể hiện rất rõ trong cá(
Văn kiện của Đảng, từ Văn kiện các Đại hội lần thứ III, IV, V, nhất là tronị
các Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII và IX.
Lê Duẩn trong tác phẩm "Nắm vững đường lối cách mạng x ã hội chi
nghĩa tiến lên xây dựng kinh t ế địa phương vững mạnh ”-Nxb Sự thật, Hà Nộ
1968, đã đề cập đến vị trí, vai trị của kinh tế địa phương đối với sự phát triểi
kinh tế đất nước.
Đoàn Trọng Truyến với bài viết "Những vấn đ ề kinli t ế của Việt Nar
bước vào k ế hoạch 5 năm (1986-1990)" trong cuốn "Những vấn đ ề kinh t ế c
bản của thời kỳ quá độ"- Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 1987, đề cập đến nhữn
thành tựu cơ bản mà đất nước đã đạt được trong những năm 1981-1985 và ch
trương, phương hướng có tính chiến lược trong những nãm đầu đổi mới.

7


Trường Chinh trong tác phẩm "Đổi m ới là đ ò i h ỏ i bứ c thiết cảu đất
nước và củ a thời đại"- Nxb Sự thật, Hà Nội 1987, khi phân tích chủ trương
của Đảng đề ra tại các Đại hội IV ,V , trên cơ sở đó khẳng định tính đúng
đắn và những thành tựu đạt được đã chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm,
nguyên nhân của nó, từ đó thấy rõ sự cần thiết phải đổi mới, nhất là đổi mới
tư duy kinh tế.
Nguyễn Văn Linh trong tác phẩm “Đ ổi mới sâu sắ c và toàn diện trên mọt

lĩnh vực hoạt động"- Nxb Sự thật, Hà Nội 1987; Nguyễn Trí Dĩnh, trong sách
“L ịch sử kinh t ế quốc d â n ”, Tập II- Nxb Giáo dục 1994, đã đề cập đến vấn để
kinh tế, chủ trương đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới.
Trần Bá Đệ trong tác phẩm “L ịch sử V iệt N am từ 1858 đến nay"- N xt
Đại học Quốc gia, Hà Nội 1996 và tác phẩm "Lịch sử V iệt N am từ 1975 dếr,
nay-Những vấn đ ề lý luận và thực tiễn của Chủ nghĩa x ã h ội ở V iệt Nam"Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội 1998, đã đề cập đến bối cảnh đất nước và chỉ
trương của Đảng về đổi mới kinh tế, chính trị.
Nguyễn Trọng Phúc trong cuốn “M ột sô'kinh nghiệm củ a Đ ảng C ộn í
sản V iệt N am trong qu á trình lãnh đ ạ o sự nghiệp đ ổ i mới"- Nxb Chính tr
Quốc gia, Hà Nội 2000, đã tổng kết một số chủ trương đổi mới của Đảng vì
những thành tựu tiêu biểu mà chúng ta đã đạt được, từ đó rút ra những kirứ
nghiệm trong lãnh đạo của Đảng...
Về kinh tế-xã hội thành phố Thái Nguyên, Văn kiện các kỳ Đại hộ
Đảng bộ Thành phố lần thứ X, X I, X II, X III, X IV và một sô' tài liệu khác đ;
đề cập đến.
Trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng và các Chỉ thị, Nghị quyết củ
Đảng bộ tỉnh Bắc Thái (1986-1996), tỉnh Thái Nguyên (1997-2002), Văn kiện cá
kỳ Đại hội Đảng bộ Thành phố đã tổng kết đánh giá những thành tựu đạt được V
những thiếu sót, khuyết điểm ở trong nhiệm kỳ trước, đề ra chủ

tr ư ơ n o

phát triển kinh tế-xã hội Thành phố của Đảng bộ trong nhiệm kỳ tiếp theo.

lãnh đạ


Các cuốn "Lịch sử Đủng b ộ thành p h ô T hái Nguyên"- Tập I (19301975), xuất bản năm 1991 và Tập II (1975-2002), xuất bản năm 2003; "Đê án
quy lioạch chung cả i tạo và xây dựng thảnh p h ô Thúi Nguyên", xuất bản năm
1995; "Quy h oạ ch tổng t h ể p h át triển kinh t ế x ã h ội thành p h ô T h ái Nguyên

đến năm 2010", xuất bản năm 1999; "Đề án đ ề nghị công nhận thành p h ô
T h ái Nguyên là đô thị lo ại II", xuất bản năm 2002; "Kỷ yếu 40 năm thành p h ố
T h ái Nguyên (1962-2002)", xuất bản năm 2 002;....đã đề cập đến điều kiện tự
nhiên-xã hội, tiềm năng phát triển; đồng thời khái quát tình hình kinh tế-xã
hội thành phố Thái Nguyên trước và trong đổi mới.
Các báo cáo hàng năm, báo cáo nhiệm kỳ về tình hình kinh tế-xã hội từ
1986 đến 2002 của Tỉnh uỷ, u ỷ ban nhân dân tỉnh, Thành uỷ, Uỷ ban nhân
dân thành phố Thái Nguyên, là sự tổng kết tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh,
Thành phố.
Hệ thống sách, tạp chí, báo cáo, đề án của u ỷ ban nhàn dân Thành phố,
của các sở: Văn hố-Thơng tin, Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn, Thương
mại-Du lịch ..., nhưng những tạp chí, báo cáo này chỉ đi vào nghiên những
khía cạnh mà các sở quản lý.
Hệ thống Niên giám Thống kê của Cục Thống kê tỉnh Bắc Thái (19861996), tỉnh Thái Nguyên (1997-2002) và của Phòng Thống kê thành phố Thá
Nguyên, mang tính chất thống kê lại những số liệu kinh tế-xã hội của các
huyện, thành, thị trong tỉnh (trong đó có Thành phố) và của các xã, phườnị
trong Thành phố, nhưng cịn rời rạc, lẻ tẻ.
Ngồi ra, các bài viết trên báo, đài địa phương của nhiều tác giả; nhưnj
cũng chỉ phản ánh được một phần, một khía cạnh nào đó, mang tính thời sụ
tin tức.
Tất cả các cơng trình trên, do mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu khá
nhau đã đề cập đến chủ trương đổi mới của Đảng, tình hình kinh tế-xã hội củ
thành phố Thái Nguyên ở nhiều khía cạnh khác nhau.

9


Thế nhưng, cho đến nay, chưa có cơng trình nghiên cứu một cách đầy
đủ, hệ thống tình hình kinh tế-xã hội của thành phố Thái Nguyên từ 1986 đến
2002, để qua đó nêu bật vai trị, đặc điểm của kinh tế thành phó Thái Nguyên

thời kỳ đổi mới và thấy được vai trị của nó đối với sự phát triển chung của
tỉnh và của cả nước. Mặc dù vậy, chúng tơi vẫn đánh giá cao các cơng trình
nghiên cứu trên và coi đó là những tài liệu tham khảo quý giúp cho việc
nghiên cứu đề tài này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về tình hình kinh tế -xã hội thành phố
Thái Nguyên từ 1986 đến 2002.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong điều kiện và thời gian cho phép, luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu một số ngành kinh tế chủ yếu, là thế mạnh của thành phố Thái Nguyên,
gồm Công nghiệp, Tiểu-thủ công nghiệp, Thương mại, Dịch vụ, Xây dựng cơ
sở hạ tầng, Nông- lâm nghiệp và những biến đổi xã hội dưới tác động của kinh
tế, trong thời kỳ từ năm 1986 (khi cả nước, trong đó có thành phố Thái
Ngun, chính thức chuyển sang thực hiện đường lối đổi mới) đến năm 2002
(năm kỷ niệm 40 năm (1962-2002) thành lập thành phố Thái Nguyên).
3.3. Nhiệm vụ đ ề tài

Đề tài nghiên cứu một cách khái quát về thành phố Thái Nguyên (quá trinh

hình thành, điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế-xã hội) và điểm sơ qua tình hình
kinh tế-xã hội Thành phơ' trước khi thực hiện đường lối đổi mới (1986).

Nghiên cứu một cách hộ thống, tồn diện q trình chuyển biến kinh tê

của thành phố Thái Nguyên và những biến đổi về xã hội dưới tác động củc
kinh tế từ năm 1986 đến 2002.
Từ nghiên cứu tình hình kinh tế-xã hội thành phơ' Thái Nguyên (1986
2002), rút ra đặc điểm riêng của kinh tế-xã hội Thành phố trong tổnơ thể tint
hình kinh tế-xã hội chung cả nước trong cùng thời gian.


10


4. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Trong q trình nghiên cứu luận văn chúng tơi đã sử dụng các nguồn tư
liệu sau:
+ Tư liệu thành văn: Các tác phẩm kinh điển của Mác-Ảngghen, Lênin
bàn về vấn đề kinh tế. Các Vãn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, IV,
V, VI, VII, VIII, IX và các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và Nhà nước về kinh
tế-xã hội. Văn kiện, Nghị quyết, báo cáo của Đảng bộ tỉnh, Thành uỷ, Uỷ ban
nhân dân thành phố Thái Nguyên trong thời kỳ 1975-2002, trong đó chủ yếu
là thời kỳ 1986-2002.
Các sổ sách, bảng, biểu thống kê của các sở, ban, ngành liên quan
như Sở Nông nghiệp và Phát triển nơng thơn, Sở Thương mại-Du lịch, Sở
Văn hố-Thơng tin, Sở Giáo dục-Đào tạo, Cục Thống kê tỉnh, Phòng Thống
kê Thành phố...
Những tác phẩm, bài viết, đánh giá vấn đề kinh tế-xã hội của các lãnh
tụ; về quá trình đổi mới, về lịch sử kinh tế-xã hội.
Lịch sử Đảng bộ Tỉnh, Thành phố và nhiều tài liệu khác nói đến vấn đề kinh
tế-xã hội cả nước nói chung và kinh tế-xã hội thành phố Thái Nguyên nói riêng.
Những nguồn tư liệu trên được khai thác chủ yếu ở Kho lưu trữ Văn
phòng Tỉnh uỷ; Trung tâm Lưu trữ Uỷ ban nhân dân tỉnh; Thư viện tỉnh; sở Văn
hố-Thơng tin; Phòng Lịch sử-Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ; Cục Thống kê tính,
Phịng Thống kê Thành phố; sở Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn; Sở
Thương mại-Du lịch; sở Giáo dục-Đào tạo; Văn phòng Thành uỷ; Văn phòng
Uỷ ban nhân dân Thành phô' và nhiều tài liệu, văn bán tự mua, tự lưu trữ trong
nhiều năm của cá nhàn.... Đó là cơ sở, cứ liệu chủ yếu trong nghiên cứu đề tài.
+ Nguồn tài liệu k h ả o sát điền dã: Thực hiện đề tài, chúng tơi cịn khai

thác tư liệu từ nhân chứng, từ điều tra thực địa để đảm bảo tính chính xác và
phong phú hơn cho nội dung đề tài nghiên cứu.

11


4.2. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích của đề tài là nghiên cứu về tình hình kinh tế-xã
hội thành phố Thái Nguyên từ 1986 đến 2002, trên cợ sở nguồn tài liệu đã
nêu, nghiên cứu đề tài này chúng tơi sử dụng phương pháp luận sử học Mácxít, phương pháp lịch sử kết hợp phương pháp lơ-gíc là chủ yếu.
Ngồi ra, chúng tơi cịn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh,
phương pháp định lượng toán học, đối chiếu, phân tích tổng hợp và điền dã, để
từ các sự kiện lịch sử, chúng ta thấy được quy luật vận động bên trong của sự
kiện, rút ra khái quát lý luận, đặc điểm, tính chất của vấn đề nghiên cứu; đồng
thời thấy được nguyên nhân hạn chế của vấn đề.
5. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở nguồn tài liệu sưu tầm được, luận văn trình bày một cách hệ
thống, tương đối đẩy đủ và chân xác về tình hình kinh tế và xã hội của thành
phố Thái Nguyên. Trên cơ sở đó, làm rõ sự chuyển biến và nêu lên đặc điểm,
thành tựu nổi bật và phân tích, làm rõ những nguyên nhân của những thành
tựu, hạn chế về kinh tế-xã hội của Thành phố, từ đó, đề xuất những giải pháp
khắc phục, nhằm phát huy thế mạnh của Thành phố trong giai đoạn tiếp theo.
Luận văn cung cấp thêm nguồn tài liệu phục vụ việc nghiên cứu lịch sử
Thái Nguyên trong thời kỳ đổi mới, làm tài liệu phục vụ giáo dục truyền thống
và giảng dạy, học tập lịch sử địa phương.
6. Kết cấu luận văn
Luận văn ngoài phẩn mở đầu, phần kết luận là 3 chương nội dung:
- Chương 1: Kinh tế-xã hội thành phố Thái Nguyên trước năm 1986.
- Chương 2: Tinh hình kinh tế thành phố Thái Nguyên từ 1986 đến 2002.
- Chương 3: Biến đổi xã hội thành phố Thái Nguyên từ 1986 đến 2002.


12


BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN


CHƯƠNG 1
KINH T Ế -X Ã HỘI THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN TRƯỚC 1986

1.1. Khái quát về thành phô Thái Nguyên
1.1.1. Quá trình hình thành, điều kiện tự nhiên
Thành phố Thái Nguyên là trung tâm hành chính, kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội của tỉnh Thái Nguyên và của cả vùng Việt Bắc.
Thời nhà Đường (từ thế kỷ v m đến thế kỷ IX), thành phố Thái Nguyên
nằm trong đất châu Long và châu Vũ Nga. Thời nhà Lý, Thái Nguyên thuộc châu
Vũ Lặc (thế kỷ XI). Thời Trần, Thái Nguyên là trấn. Tiếp sau là phủ, rồi lại
châu...Năm Quang Thuận tứ 7 (1466), đất Thái Nguyên được đặt là Thái Nguyên
Thừa tuyên. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Thừa Tuyên Thái Nguyên đổi
thành Thừa tuyên Ninh Sóc. Năm Hồng Đức thứ 21 (1490), Thái Nguyên Thừa
tuyên được đổi là Thừa tuyên Thái Nguyên (xứ) và đến thời Gia Long (18021819), Thái Nguyên lại trở thành trấn. Thủ phủ trấn Thái Nguyên (tức thành phố
Thái Nguyên) được đặt tại huyện Thiên Phúc (nay là huyện Sóc Sơn, thành phơ' Hà
Nội). Đến năm Gia Long thứ 12 (1813), Thủ phủ trấn Thái Nguyên được chuyển
đến đặt tại làng Đồng Mỗ, huyện Đồng Hỷ (nay thuộc đất phường Trưng Vương
và một phần nhỏ thuộc phường Túc Duyên-thành phố Thái Nguyên). Năm Minh
Mạng thứ 12 (1831), trấn Thái Nguyên được đổi là tỉnh Thái Nguyên. "Quá trình
xảy diữig cá c c ơ quan cai trị, dịch vụ của thực dân Pháp và chính quyền tay sai,
cùng với sự tăng dân s ố (viên chức, thợ thủ công, dân buôn bán )... đ ã dần dần hình
thành thị x ã T h á i Nguyên vào những năm cuối thếlcỷ XIX’’ [ 13;tr.95].
Thời thuộc Pháp, thị xã Thái Nguyên chủ yếu là nơi các cơ quan hành

chính, quân sự, các quan chức Pháp, Việt chiếm cứ [51 ;tr. 12],
Từ tháng 8 năm 1956, Khu Tự trị Việt Bắc được thành lập (gồm 6 tinh:
Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giano) Thái
Nguyên trở thành Thủ phủ Khu Tự trị Việt Bắc.

13


Ngày 19/10/1962, theo Quyết định số 1 14/CP của Hội dồng Chính phú,
thị xã Thái Nguyên trở thành thành phố Thái Nguyên trực thuộc tinh Thái
Nguyên, có 4 khu phố (Hồng Văn Thụ, Trưng Vương, Phan Đình Phùng,
Quan Triều); hai thị trấn (Núi Voi và Trại Cau); 6 xã (Đồng Quang, Gia Sàng,
Cam Giá, Quang Vinh, Đồng Bẩm, Túc Duyẽn); tổng diện tích hơn 100 krrr
[94;tr.l3].
Từ 01/7/1965, 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn sáp nhập thành tỉnh Bắc
Thái, thành phố Thái Nguyên trở thành tỉnh lỵ tỉnh Bắc Thái, với 16 tiểu khu
và 8 xã ngoại thành.
Năm 1976, Thành phơ' tiếp nhận thêm xã Lương Sơn (huyện Phú Bình)
và cắt thị trấn Trại Cau về huyện Đồng Hỷ.
Tháng 4 năm 1985, Thành phố cắt thị trấn Núi Voi và một số xã, khu
phố về huyện Đổng Hỷ; đồng thời, tiếp nhận thêm 7 xã của Đồng Hỷ chuyển
về (Thịnh Đức, Phúc Trìu, Phúc Xn, Thịnh Đán, Tân Cương, Tích Lương,
Phúc Hà).
Ngày 13/02/1987, thực hiện Quyết định số 25-H Đ BT, xã Túc Duyên
đổi thành phường Túc Duyên, phường Tân Thịnh chia thành 2 phường (Tân
Thịnh và Tân Lập) và thành lập phường Quang Vinh.
Ngày 11/7/1994, thực hiện Nghị định số 64-CP của Chính phủ, phường
Đồng Quang tách thành 2 phường (Đồng Quang và Quang Trung).
Từ 01/01/1997, theo Nghị quyết ngày 6/11/1996 của kỳ họp thứ 10,
Quốc hội khoá IX , tỉnh Thái Nguyên được tái lập, thành phố Thái Nguyên là

tỉnh lỵ tỉnh Thái Nguyên.
Ngày 14/10/2002, theo Quyết định số 135/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ, thành phố Thái Nguyên được công nhận là đô thị loại II, trực thuộc
tỉnh Thái Ngun.
Ngày nay, thành phơ' Thái Ngun có diện tích 177,07 krrr, gồm 25
đơn vị hành chính (18 phường và 7 xã).

14


Thành phố Thái Nguyên nằm trong khu vực toạ độ từ 2 ì" 2 9

đơn

2L°37’ độ vĩ bắc, từ 105°43’ đến 105°55’ độ kinh đơng; phía Đơng, Đơng
Bắc giáp huyện Đồng Hỷ; phía Tây giáp huyện Đại Từ và Phổ Yên; phía Bắc
giáp huyện Phú Lương, Đại Từ; phía Nam giáp huyện Phú Bình và thị xã
Sơng Cơng.
Cách Hà Nội 80km, thành phố Thái Nguyên là cửa ngõ phía Bắc của
Thủ đô Hà Nội, là trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, khoa học kỹ
thuật, giáo dục, là đầu mối giao thông vận tải và giao lưu kinh tế giữa Thủ đơ
Hà nội và các tỉnh miền núi phía Bắc.
Thành phố Thái Nguyên có Quốc lộ số 3 chạy qua, nối Hà Nội với Bắc
Kạn, Cao Bằng; Quốc lộ 1B đi Lạng Sơn; Quốc lộ 13 và 16 đi Phú Thọ, Hà
Giang, Tuyên Quang; Quốc lộ 37 đi Bắc Giang. Nối liền với trung tâm thành
phố là các tuyến đường đi các huyện, thị trong tỉnh. Ngoài ra, Thành phố cịn
có tuyến đường sắt Thái Ngun - Hà Nội; Lưu Xá (Thái Nguyên) - Kép (Bắc
Giang) - Uông B í (Quảng Ninh), rất thuận tiện cho giao lưu phát triển kinh tế.
Là tỉnh lỵ tỉnh Thái Nguyên, lại là cẩu nối giữa Thủ đô Hà Nội với các
tỉnh trong khu Việt Bắc, thành phố Thái Nguyên có điều kiện hết sức thuận lợi

để mở rộng giao lưu kinh tế, văn hoá với các huyện, thành, thị trong tỉnh, với
nhiều tỉnh, thành phố trong khu vực miền núi phía Bắc, với Thủ đô Hà Nội và
các tỉnh đồng bằng.
Thành phố Thái Ngun có 2 sơng lớn cháy qua, đó là sông Cầu và
sông Công (đoạn chảy qua Thành phố của sông Cầu dài 25km, của sông Công
dài 15km), giữ vị trí quan trọng cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt.
Thành phố có 2 cơng trình thuỷ nơng là đập Thác Huống và đập hồ Núi Cốc
cung cấp nước tưới cho gần 50 ngàn ha cây trồng (lúa, cây hoa mầu và các cây
công nghiệp khác như chè, lạc...), cùng với hàng trãm cơng trình trung tiểu
thuỷ lợi phục vụ sản xuất công nghiệp và nước sinh hoạt cho 100 ngàn dân ở
trung tâm thành phố.

15


Hàng năm, sơng Cơng và sơng Cầu cịn cung cấp một lượng cát, sỏi khá
lớn, đủ đáp ứng cho nhu cầu xây dựng của toàn Thành phố.
Thành phố Thái Nguyên nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa biến
tính, với 2 mùa rõ rệt, mùa nóng mưa nhiều, mùa lạnh ít mưa. Nhiệt độ bình
quân năm là 23°c, độ ẩm bình quân 80%.
Nhìn tổng thể, địa hình thành phố Thái Nguyên tương đối bằng phẳng
so với các huyện, thị khác trong tỉnh, nhưng xem chi tiết chúng ta sẽ thấy địa
hình nơi đây cũng đa dạng, có những vùng đất bằng phẳng, nhưng cũng có
những đồi núi thoai thoải. Thành phố Thái Ngun có rừng, nhưng diện tích
khơng nhiều.
Đất canh tác trong khu vực Thành phố có hai loại chủ yếu. Loại Feralft
màu vàng, thích hợp với trồng cây chè và các loại cây ăn quả. Loại đất này
phẩn lớn tập trung ỏ các xã Lương Sơn, Thịnh Đức, Thịnh Đán, Thành Cơng
(nay thuộc thị xã Sơng Cơng), Tích Lương, Phúc Xuân, Đồng Quang, Cam
Giá, Gia Sàng. Đất phù sa do sự bồi đắp thường xuyên của sông Công và sông

Cầu, phần lớn nằm ở xã Tân Cương và các xã Quang Vinh, Cao Ngạn, Túc
Duyên, Cam Giá. Loại đất này ở độ phì nhiêu tương đối cao so với các vùng
trong tỉnh, rất thuận lợi cho việc trồng lúa, các loại rau, hoa màu.
Khống sản của Thành phơ' chủ yếu là than: Than Quan Triều (thuộc xã
Phúc Hà có trữ lượng rất lớn)... Thành phố có vị trí sinh khống nằm trong vùng
sinh khống Đơng Bắc-Việt Nam, thuộc vành đai sinh khống Thái Bình Dương.
Với địa hình, đất đai và tài ngun, khống sản như vậy, thành phó Thái
Ngun khơng những có điều kiện thuận lợi để phát triển các loại cây lương
thực, thực phẩm, cây công nghiệp mà cịn có nhiều thuận lợi cho việc phát triển
cơng nghiệp, tiểu-thủ công nghiệp, giao thông vận tải và thông tin liên lạc.
Ngồi ra, thành phố Thái Ngun cịn có điều kiện để phát triển du
lịch. V ì, trên địa bàn Thành phố có Khu cơng nghiệp Gana Thép, các di tích
lịch sử (Khởi nghĩa Thái Ngun năm 1917), các cơng trình văn hố truyền

16


thống đặc sắc của các dân tộc (Bảo tàng Văn hố các dân tộc, Bảo tàng Qln
khu I), lại gần hồ Núi Cốc (huyện Đại Từ), hàng năm thu hút khá đông khách
tham quan.
Như vậy, so với các huyện, thị khác trong tỉnh, thành phố Thái Nguyên
có nhiều thuận lợi hơn để phát triển một nền kinh tế tương đối toàn diện.
1.1.2. Đặc điểm kinh tế-xã hội
* Đ ặc điểm kinh t ế
Ngoài đặc điểm chung của cả nước, thành phố Thái Ngun có ưu thê
hơn để phát triển cơng nghiệp. Sự ra đời của Thành phố gắn liền với sự ra đời
của Khu công nghiệp Gang Thép Thái Nguyên-đứa con đầu lịng của ngành
cơng nghiệp luyện kim Việt Nam. “Ngày 29/11/1963, m ẻ gang đầu tiên ra lò,
m ở ra một hướng ph át triển mới củ a nền kinh t ế đất nước g iai đ oạn đầu tiên
lên chủ-nghĩa x ã h ộ i ” [95].

Thái Nguyên được mệnh danh là “Thành phố Thép”, với trên 400
doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp dân doanh,
công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã tiểu-thủ công nghiệp, công ty liên
doanh và công ty cổ phần. Trong đó có nhiều cơng ty, xí nghiệp của Trung
ương như: Công ty Luyện kim màu, Công ty Xây lắp và sản xuất công nghiệp,
Công ty Cơ điện và luyện kim, Công ty 472, Công ty Việt Bắc, Nhà máy giấy
Hồng Văn Thụ, Cơng ty Gang Thép với 19 nhà máy, xí nghiệp thành
viên...Tính đến năm 2002, thành phố Thái Ngun có 1.484 cơ sở sản xuất
cơng nghiệp [22;tr.99]. Khu công nghiệp Gang Thép-Lưu Xá chiếm khoảng
2/3 giá trị sản lượng công nghiệp của cả tỉnh Thái Nguyên.
Những ngành công nghiệp chủ đạo của Thành phố gồm có: Cơng nghiệp
luyện kim (chủ yếu ở phía Nam Thành phố); cơng nghiệp khai khống (phát
triển ở một số điểm phía Bắc, chủ yếu là khai thác than và các khoáng sản vật
liệu xây dựng); công nghiệp dệt, may, thêu ren, đồ mộc và công nghiệp chế
biến lương thực, thực phẩm, đồ uống (tập tr i/ if J n S o d ii^ 'ib g E M f o h phố).

17


Trong đường lối đổi mới kinh tế đất nước, Đảng ta rất chú trọng đối
mới cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu thành phđn kinh tế. Cơ cấu kinh tế thành
phố Thái Nguyên chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công
nghiệp, tiểu-thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Năm 1991, cơ cấu công
nghiệp-xây dựng của Thành phố là 45,11% ; năm 1994 là 48,54% ; năm 2002
là 47,1% . Cơ cấu thương mại-dịch vụ năm 1991 là 38,08% ; năm 1994 là
39,00% ; năm 2002 là 46,6% ; đồng thời giảm dần tỷ trọng các ngành nônglâm nghiệp (từ 16,81% năm 1991, xuống 12,46% nãm 1994 và 8,3% năm
2002). Điều đó chứng tỏ xu thế phát triển kinh tế của Thành phố đã đi đúng
hướng, phù hợp quy luật khách quan của kinh tế thị trường, nó giữ vai trị quan
trọng. Bởi vì, cơ cấu kinh tế như một cơ thể sống của nền kinh tế, nếu nó hài
hồ hợp lý thì sẽ thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và ổn định. Đó cũng chính là

chủ trương tập trung phát triển ngành kinh tế mũi nhọn, thế mạnh, xây dựng
một cơ cấu kinh tế phù hợp, có khả năng mang lại hiệu quả kinh tế cao theo
hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố của tỉnh Thái Ngun.
Thực hiện Quyết định 802/QĐ-TTg ngày 30/10/1996 của Thủ tướng
Chính phủ, thành phố Thái Nguyên đã quy hoạch chi tiết 4 khu chức năng,
gồm: Khu trung tâm (trung tâm Thành phố và xung quanh đảo trịn Gang
Thép); khu phía Bắc (trung tâm là cụm cơng nghiệp Tân Long); khu phía Nam
(trung tâm là khu công nghiệp Gang Thép Thái Nguyên) và khu phía Tây
Thành phố (gồm 6 xã ngoại thành). Khu vực các xã phía Tây có diện tích tự
nhiên trên 9.000 ha, chủ yếu là sản xuất, kinh doanh chè.
Hoạt động thương mại-dịch vụ của Thành phố đã phát triển thành một
thị trường rất sôi động bao gồm đủ các thành phần quốc doanh, tập thể và tư
thương; hàng hoá phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và
chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của Thành phố. Đến năm
2002, Thành phố có 35 khách sạn với 500 phịng nghỉ, 27 chợ với hơn 7 .000
hộ kinh doanh [107;tr.6].

18


Tổng diện tích đất của Thành phố là 17.707,52 ha, Irong đó
c ó .8 7 4,54 ha đất nơng nghiệp, 3 .006,37 ha đất lâm nghiệp [64;tr. 1], chú
yếu ở các xã. Bình qn diện tích đất nơng nghiệp của Thành phố là
2 5,55m 2/người. Diên tích đất nơng nghiệp của Thành phố phần lớn là gieo
trồng các loại cây lương thực (lúa, ngô, khoai lang, sắn); cây công nghiệp
và cây thực phẩm, rau xanh, hoa quả...... sản xuất nông nghiệp chủ yếu
phục vụ nhu cẩu tiêu dùng của Thành phố.
Thành phố Thái Ngun cịn có chè Tân Cương, nổi tiếng khơng chỉ
trong tỉnh, trong nước mà cịn ở cả nước ngoài. Cùng với hoa quả, cây chè đã
và đang phát triển dần theo hướng sản xuất hàng hoá.

Về lâm nghiệp, trước những năm đổi mới hầu hết là đồi núi trọc; những
năm gần đây thực hiện chủ trương của tỉnh và của Đảng bộ Thành phố, những
đồi trọc đã trở thành những đồi cây xanh tốt. Tuy nhiên, diện tích đất lâm nghiệp
khơng nhiều, rừng trồng là những loại gỗ tạp (chủ yếu chỉ là những loại gỗ từ
nhóm 5 đến nhóm 8, tre, nứa...), đem lại lợi ích mơi trường hơn là kinh tế.
Phía Tây thành phố Thái Nguyên gần Khu du lịch hồ Núi Cốc của
huyện Đại Từ, khách tham quan hồ Núi Cốc hầu hết đều đi qua và lưu lại
thành phố Thái Nguyên. V ì vậy, cùng với các điểm di tích lịch sử, văn hố ở
trung tâm Thành phố, khu cơng nghiệp Gang Thép ở phía Nam, thành phố
Thái Ngun có điều kiện để phát triển du lịch. Mặc dù những năm gần đây
đã có sự đẩu tư xây dựng, nhưng tài nguyên du lịch ỏ' thành phố Thái Nguyên
mới chỉ đang ở dạng tiềm năng, địi hỏi có sự đầu tư, mở rộng liên doanh, liên
kết với vùng du lịch (Khu di tích lịch sử văn hố An tồn khu (A TK) Định
Hố, Khu du lịch Tam Đảo-Vĩnh Phúc và Ba Bể (Bắc Cạn), Cao Bằng, Lạng
Sơn...) để phát triển hiệu quả nhiều hơn nữa.
Thành phố Thái Nguyên đã và đang có nhiều chính sách khuyến khích
các thành phần kinh tế phát triển; đặc biệt là các ngành kinh tế mũi nhọn như
công nghiệp, thương mại, dịch vụ, tạo đà cho sản xuất tăng nhanh thúc đẩy

19


nền kinh tế chung của Thành phố phát triển mạnh mẽ, xã hội ngày một ơn
định, góp phần to lớn vào sự phát triển chung của tỉnh, đưa tỉnh Thái Nguyên
trở thành một trong những tỉnh giầu có và phồn vinh nhất miền Bắc nước ta
như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời.
Mặc dù kinh tế thành phố Thái Nguyên đã có sự định hướng và phát triển
đúng đắn, tập trung vào khai thác và phát huy các ngành kinh tế mũi nhọn và thu
được nhiều kết quả đáng kể, nhất là từ khi thực hiện chủ trương đổi mới theo tinh
thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986); song, thực tế cho thấy tốc độ

phát triển chưa vững chắc, dây chuyền công nghệ sản xuất công nghiệp, trước hết
là luyện kim và cơ khí cịn lạc hậu, năng suất thấp, chất lượng chưa cao; nhiều
sản phẩm của Thành phố chưa chiếm lĩnh được thị trường trong nước và xuất
khẩu. Hơn nữa, đội ngũ các nhà kinh doanh, quản lý giỏi cịn ít, nguồn vốn hợp
tác đầu tư chưa nhiều để phát huy các lợi thế của địa phương như sản xuất sản
phẩm khai khống, vật liệu xây dựng và chế biến nơng, lâm sản....
Như vậy, Thái Nguyên vừa là một thành phố công nghiệp, một đầu mối
giao thông quan trọng, trung tâm giáo dục đào tạo của các tỉnh miền núi, chủ
yếu là miền núi phía Bắc, Thái Ngun cịn là tỉnh lỵ tỉnh Thái Nguyên, giữ vị
trí quan trọng trong lịch sử phát triển kinh tế, với một nền kinh tế đa dạng,
điểm nổi bật nhất và mang tính đặc thù hơn cả của kinh tế là công nghiệp,
tiểu-thủ công nghiệp, dịch vụ. Trong hiện tại và tương lai, thành phố Thái
Nguyên không chỉ là một trung tâm công nghiệp lớn của vùng trung du miền
núi phía Bắc, mà sẽ là của cả nước với các sản phẩm có ý nghĩa chiến lược
trong nền kinh tế quốc dân như thép, điện, kim loại mầu, vật liệu xây dựng và
công nghiệp chế biến nơng, lâm sản.
Đặc điểm riêng đó vừa mang lại cho thành phố Thái Nguyên những lợi
thế hơn các địa phương khác để phát triển kinh tế theo hướng cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá theo chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước; đồng thời
cũng cho ta thấy một số điểm tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong quá trinh
phát triển kinh tế, ổn định đời sống xã hội những năm tiếp theo.

20


* Đ ặc điểm x ã hội
Dân số Thành phố năm 1962 (khi mới thành lập) có 6 0.000 người và
tiếp tục được tăng lên qua các thời kỳ.
Bảng: Dân sô thành phô Thái Nguyên


Dân số (người)

1962

1985

1991

1994

2002

60.000

110.000

178.600

187.887

225.740

[56]; [64]; [66]
Trong tổng sơ' 225.740 người (tính đến năm 2002) thì 164.016 người cư
trú nội thị, 61.724 người sống ở ngoại thành và nông thôn. Mật độ dân số
1.275 người/km2 [64;tr.2-3].
Do đặc điểm địa lý, thành phố Thái Nguyên trở thành điểm hội tụ của
các tộc- người. Đông nhất là dân tộc Việt, với nhiều bộ phận hợp thành (dân
bản địa, dân phu và những người dân phiêu bạt, di cư từ các tỉnh đồng bằng
lên kiếm sống...). Tiếp đến là dân tộc Tày, Nùng, Sán Dìu, Dao...Các dân tộc

đều dễ hồ nhập, ln gắn bó, đồn kết trong chiến đấu bảo vệ quê hương và
phát triển kinh kế- xã hội.
Nhân dân các dán tộc Thái Nguyên từ làu đời đã vốn có truyền thống
đấu tranh kiên cường, bất khuất chống thiên nhiên để sinh tồn và chống giặc
ngoại xâm để bảo vệ quê hương đất nước.
Từ thời xa xưa, dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, nhãn dân
các dân tộc Thái Nguyên đã góp phần đánh đổ ách thống trị của nhà Hán. Thế
kỷ X I, Dương Tự Minh (người làng Quan Triều), đã có cơng trong đánh giặc
Tống bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia vùng biên cương phía Bắc Đai Viêt
Thế kỷ XV , nhân dân Thái Nguyên tham gia nghĩa quân "Áo đỏ" đánh giặc
Minh, gày cho chúng nhiều tổn thất. Đặc biệt năm 1884, giặc Pháp cho quân
đánh chiếm thành Thái Nguyên, quàn đội thành Thái Nguyên đã kiên cườno
chiến đấu, buộc chúng phải ba lần tấn công mới chiếm đươc thành

21


Đêm 30 rạng 31/8/1917, tại thị xã Thái Nguyên, Đội Cấn và Lương
Ngọc Quyến đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Đây là cuộc khởi nghĩa
lớn nhất và có tiếng vang lớn trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở
Việt Nam.
Trong cách mạng tháng 8/1945, nhân dân thành phố Thái Nguyên đã
hăng hái xuống đường biểu tình, thị uy, ủng hộ và tham gia Việt Nam Giải
phóng qn do đồng chí Võ Ngun Giáp chỉ huy bao vây, đánh quân Nhật,
giải phóng thị xã Thái Nguyên, thành lập Ưỷ ban nhân dân cách mạng lâm
thời tỉnh.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, nhân dân thị xã Thái Ngun đã
tích cực tham gia "diệt giặc đói", "diệt giặc dốt", "tiêu thổ kháng chiến", phục
vụ chiến đấu và trực tiếp chiến đấu, góp phần vào chiến thắng chung của cả
dân tộc.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), đặc biệt trong thời
gian cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ vào thành phố Thái Nguyên
(17/10/1965-27/12/1972), quân và dân Thành phố đã chiến đấu rất anh dũng,
góp phần cùng lực lượng phịng khơng của Bộ, Qn khu và tỉnh bắn rơi 22
máy bay Mỹ. Thành phố ln hồn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu huy
động lương thực, thực phẩm phục vụ chiến đấu.
Do có những cống hiến xuất sắc vào 2 cuộc kháng chiến vĩ đại của dân
tộc, năm 1998 nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân thành phố Thái
Nguyên đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân thời kỳ chống Mỹ; một số đơn vị trực thuộc gồm: Công an thành phố
Thái Nguyên và các phường Gia Sàng, phường Hồng Văn Thụ; cán bộ cơng
nhân và lực lượng tự vệ Công ty Gang Thép Thái Nguyên; Nhà máy điện Thái
Nguyên (nay là Điện lực Thái Nguyên); Ty Bưu điện (nay là Sở Bưu điện tỉnh
Thái Nguyên) cũng được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ; cán bộ, công nhân và lực lượng tự vệ

22


Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực
lượng vũ trang thời kỳ chống Pháp.
Thành phố Thái Nguyên có 20 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; 3 Anh hùng
lực lượng vũ trang; 119 cán bộ lão thành cách mạng; 198 cán bộ tiên khởi
nghĩa; 1.724 thương, bệnh binh; 1.697 gia đình liệt sỹ [94;tr.63].
Do cư dân được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, nên thành phố
Thái Ngun có nền văn hố dân tộc mang nhiều mầu sắc phong phú và đa
dạng. Bên cạnh những phong tục, tập quán, những sinh hoạt văn hoá đậm đà
bản sắc của đồng bào các dân tộc thiểu sô Sán Dìu, Tày, Nùng, cịn có làn
điệu chèo, những cảnh hát hội, đình đám của đồng bào Bắc Bộ khá đặc sắc.
Tuy mỗi dân tộc mang nét đặc trưng văn hoá riêng, nhưng đều chứa đựng nội

dung tư tưởng và tình cảm giống nhau.
Cũng như các huyện, thị khác trong tỉnh, thành phố Thái Ngun có 2
tơn giáo (2 đạo) chính là đạo Phật (Phật giáo) và đạo Cơng giáo (Thiên Chúa
giáo). Đạo phật ỏ thành phố Thái Nguyên có các hội: Hội Thiện duyên, hội
Thiện phúc, tổ chức khá chặt chẽ [9;tr.l].
Thành phố có nhiều đền, đình, chùa, nổi lên là các chùa Phủ Liễn,
Đồng Mỗ được xây dựng từ những thế kỷ trước; chùa Đán (phường Tân
Thịnh) và chùa Làng Cả (xã Thịnh Đán) được tôn tạo năm 2002.
Đạo Cơng giáo, Thành phố có 2 xứ đạo (Xứ Thành phố và xứ Tân
Cương). Các sinh hoạt tôn giáo của quẩn chúng tín đồ phát triển mạnh. Bà con
giáo dàn là người lao động, có tinh thần yêu nước và cách mạng, đặt niềm tin
vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ. Những hoạt động của họ có nhiều đóng
góp cho việc phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Tuy nhiên, lợi dụng lòng tin
của giáo dân, kẻ xấu trong chức sắc tơn giáo đã có hành vi xúi giục giáo dân
không tôn trọng pháp luật, nên có lúc, có nơi giáo dân có nhiều hành vi đối
lập với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, ảnh hưởng không nhỏ
đến đời sống sản xuất và trật tự xã hội...

23


Thành phố Thái Nguyên có nguồn lao động khá dồi dào. Theo số liệu
thống kê, dân số trong độ tuổi lao động luôn chiếm trên 50% dân số. Thành phổ
hiện có 136.667 người ở độ tuổi lao động, đa số có trình độ phổ thơng trung học,
nhiều người tốt nghiệp đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Nhũng
người lao động Thành phố gồm cán bộ, công nhân, viên chức, giáo chức, những
người buôn bán và sản xuất nông nghiệp, tiểu-thủ cơng nghiệp, dịch vụ.
Thái Ngun có điều kiện thuận lợi phát triển văn hoá, giáo dục. Thành
phố Thái Nguyên là trung tâm đào tạo lớn thứ 3 của cả nước (sau thủ đô Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh). Trên địa bàn Thành phố có Đại học Thái

Nguyên, với 5 trường thành viên (Đại học Sư phạm, Đại học Kỹ thuật công
nghiệp, Đại học Y khoa, Đại học Nông-lâm và trường Công nhân kỹ thuật),
tập trung trên 100 giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ và hơn 700 thạc sỹ, cùng hàng
trăm cán bộ đang theo học và nghiên cứu sinh ở trong và ngoài nước, thu hút
nhiều học sinh, sinh viên của khắp các tỉnh từ khu IV trở ra, chủ yếu là vùng
núi phía Bắc đến học tập, nghiên cứu; tạo ra một nguồn lực tri thức lớn cho
thành phố Thái Nguyên và nhiều địa phương khác, góp phần thúc đẩy kinh tế
xã hội phát triển. Trên địa bàn Thành phơ' có 18 trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, 11 trường phổ thông trung học, 60
trường trung học cơ sở và tiểu học, 36 trường mẫu giáo.
Các trường phổ thông trung học, trung học cơ sở, tiểu học và mầm non
thường xuyên duy trì tốt, đáp ứng nhu cầu học tập của con ern các dân tộc
Thành phố. Trường phổ thông trung học Lương Ngọc Quyến, Trường phổ
thông trung học Năng khiếu, Trường vùng cao Việt Bắc, Trường Văn hoá Bộ
cơng an, Trường Thiếu sinh qn Qn khu I....CĨ uy tín cao về chất lượng
giáo dục đào tạo và là nịng cốt trong cơng tác giáo dục của Thành phố.
Thành phố Thái Ngun có rất nhiều di tích lịch sử, văn hố phản ánh
khá đầy đủ q trình phát triển của Thành phô' trong 4, 5 thế kỷ trở lại đây.
Đền thờ các danh nhân thời Lý (Đền Xương Rồng), đền thờ Mẫu (Quán

24


×