Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại của chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.21 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀOTẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHÓ HỊ CHÍ MINH

PHẠM THANH TỪNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYET KHIEU NẠI
CỦA CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN
_ THANH PHO HO CHi MINH

LUAN VAN THAC Si LUAT HOC
Chuyên ngành: Hành chính. Mã số: 60.38.20

TRUONG ĐẠIHt LUẬT TPHCH

TUTHONGTIN-THUVERN

“TT-Thư viện ĐH Luật TP.HCM

G8

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS LÊ MINH THÔNG

TP. HO CHi MINH, NAM 2008


LOI CAM DOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu sử dụng trong luận văn này là chính xác và chưa được sử dụng trong bat


cứ cơng trình nào khác


MUC LUC
PHÀN MỞ ĐẦU..............................-.
--‹‹‹<« Án

at áab 60 SBRG0u201010T-7 1

CHUONG I: NHUNG VAN DE LY LUAN VE QUYEN KHIEU NAI CUA

CONG DAN VA TRACH NHIEM CUA CHU TICH UY BAN NHAN DAN

THANH PHO HO CHi MINH TRONG VIEC GIAI QUYET KHIEU NALS
1.1. Quyền khiếu nại của công dân............................-----veseseseeeteereesrortraresee 5

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền khiếu nại ......................--------:cccccccee 5
1.1.2. Tính chất và mục đích của việc thực hiện quyền khiếu nại của công

1.1.3. Quyền khiếu nại của công dân qua các Hiến pháp của nước ta
1.2. Khái niệm khiếu nại hành chính, phân loại và thủ tục khiếu nại.
1.2.1. Khái niệm khiếu nại hành chính.

1.2.2. Phân loại khiếu nại
LBB TARE Tie ngi AOA

3
MRR

Ge ee 8 CG le ine 14


1.2.4. Quyén, nghia vụ của người khiếu nại .......................--------------cc-ccsccc+ 15
1.3. Vị trí, vai trị và trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh trong việc giải quyết khiếu nại...................................-----«e 16
1.3.1.

Vị trí, vai trị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố trong việc

BIGU AVEC KIICU NẠI c5 1010001001070 560111))-1312315151Á osx520pssprtbnrDxT TT TS. 16

1.3.2. Trách nhiệm giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uy ban nhân dân
THANH DHỔ: ta. s0 (2S EU. 0 Quang Hiasadalil0 TM TUNI 19
1.3.3. Thủ tục giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố
mẽ...
teres eee ere a ater te cee ever
ae arene
Tete 21
CHUONG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYÉT KHIẾU NẠI CỦA CHỦ
UY BAN NHAN DAN THANH PHO HO CHi MINH.

ae
... 28

2.1. Tình hình khiếu nại, giải quyết khiếu nại tại thành phố Hồ Chí Minh..28
2.1.1. Những yếu tố chỉ phối hoạt động khiếu nại và hiệu quả giải quyết
khiếu nại tại thành phố Hơ Chí Minh
wee

2.1.2. Tình hình khiếu nại và giải quyết khiếu nại tại thành phố Hè Chí



2.2. Thực trạng giải quyết khiếu nại của Chú tịch Ủy ban nhân dân thành

phố Hồ Chí Minh

2.2.1. Kết quả giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành
PRO TS

es NANA

EAD

a CE

nh Ai

BAN

Ae

35

2.2.2. Đánh giá về kết quả giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân
GON than PRO) 21c. 201155 0000012017117 S6et1151116xg si 1ospltdirs 36
2.2.3. Một số vướng mắc, bắt cập liên quan đến công tác giải quyết khiếu
nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phô ....................... -..--:-‹:- 45
CHUONG 3: NHUNG GIAI PHAP CHU YEU NHAM NANG CAO HIEU
QUÁ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI CỦA CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DẪN
THANH PHO HO CHÍ MĨNHH
. . . . . . . . oe o ecse se es se se s e eosenscecencseces 54

3.1. Những yêu cầu và định hướng nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố ...................................-...----«e« 54
3.1.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban
HN" GÓH/ THANH DHO
co. n7
211cc Tin Ya r0
ri 54
3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy
00T. TEAN, Q00: TINH DO...
200015 ca ing 1051/20155sssettlbSSsiriott
SP Trrf 36

3.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về khiếu nại ................................----------s 57
3.2.1. Sự cân thiết phải hoàn thiện pháp luật về khiếu nại và quan điểm
DNH HH Da 252,1 A101/0 011.000 :: Tốt là, ,30181-E1/10-‹4teAQ.TEeg 57

3.2.2. Một số giải pháp mang tính định hướng trong việc hoàn thiện quy
định pháp. luật ve RIEU TIGL,

ssscscess izagseecernsesocvobyssecessecosoat
teres nate be 59

3.2.3. Những van dé cu thé cin Noam ign ..cccccccsccccsccccsscsssscssssssssssssessssseee 60
3.3. Các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu
nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố............................. M010

3.3.1. Một số giải pháp mang tính chỉ đạo, điều hành chung
3.3.2. Một só giải pháp cụ thể, mang tính đặc thù của Thành phố...

3.4. Đỗi mới cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính, trong đó cần hồn thiện

mơ hình tài phán hành chính ở nước ta.

KẾT LUẬN.......... ashe ste HỆ c6 ceecasnsbeasios
TÀI LIỆU THAM KHẢO

15


PHAN MO DAU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, Bác hồ từng dặn
hoặc vì chưa hiểu rõ chính sách của
giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào
lắng đến quyền lợi của họ, do đó

dị: “Đồng bào có oan
Đảng và Chính phủ mà
thấy rõ Đảng và Chính
mối quan hệ giữa nhân

Chính phủ càng được củng cố tốt hơn...”0),

ức mới khiếu nại
khiếu nại. Ta phải
phủ quan tâm lo
dân với Đảng và

Theo nhận định của Bộ Chính trị tại Thơng báo số 130-TB/TW ngày

10/01/2008 thì tình hình khiếu nại vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp; khiếu nại


đông người, vượt cấp lên Trung ương gia tăng, với tính chất gay gắt, quyết

liệt và được tổ chức chặt chẽ hơn. Trong số các vụ khiếu nại, phần lớn có nội
dung liên quan đến đất đai, nhất là đất thu hồi để xây dựng khu cơng nghiệp,

khu đơ thị, cơng trình cơng cộng, làm đường giao thơng; trong khiếu kiện

đơng người, xuất hiện nhiều đồn có tổ chức, có người cầm đầu, chỉ huy và có
sự liên kết giữa các đồn tập trung với số lượng lớn kéo về Trung ương, đáng

chú ý trong một số trường hợp có sự lơi kéo, kích động, xúi giục, hỗ trợ về vật
chất của các thế lực thù địch, bọn phản động và phần tử cơ hội chính trị lợi

dụng dé xuyên tạc, phá hoại...

Bộ Chính trị cũng đã xác định tình hình nêu trên xuất phát từ nhiều

nguyên nhân, mà chủ yếu là do cơ chế, chính sách, pháp luật cịn có những

bắt cập, có điểm chưa phù hợp thực tế; công tác quản lý nhà nước còn nhiều
yếu kém, sai phạm nhất là trong lĩnh vực đất đai, đầu tư xây dựng: công tác
giải quyết khiếu nại cịn có những hạn chế, yếu kém... Từ đó, Bộ Chính trị
xác định cần phải có giải pháp nhằm ngăn ngừa và giải quyết có hiệu quả
khiếu nại của cơng dân.
Thành phó Hồ Chí Minh là một đơ thị lớn của nước ta; một trung tâm

lớn về kinh tế, văn hóa, khoa học cơng nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế có vị
trí quan trọng của cả nước. Hiện nay, Thành phố đang trong quá trình đổi


mới; thực hiện tổng điều chỉnh mặt bằng đến năm 2020, đẩy nhanh tiến độ và
mở rộng quy mơ đơ thị hóa, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, phát triển mạng
lưới giao thông, cơ cấu lại kinh tế theo hướng tăng nhanh các lĩnh vực hoạt

' Dẫn theo Đinh Văn Minh, “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác giải quyết khiếu nại, tố cáo”,

Www.giri.ac.vn/ modules.php?name=News&opcase=detailsnews&mid=308 &meid=216&pid=&menuid=


động dịch vụ... Việc thực hiện các dự án đầu tư, điều chỉnh thu hồi đất theo
quy hoạch đã tác động nhất định đến quyền lợi và sinh hoạt bình thường của

một bộ phận dân cư; giá bồi thường không theo kịp tốc độ tăng giá thị trường,
đã làm phát sinh khiếu nại trong một bộ phận dân cư có đất bị thu hồi. Bên
cạnh đó, những do lịch sử để lại qua thực hiện chính sách quản lý đất đai,

quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa sau ngày giải phóng
như: cải tạo nhà đất cho thuê và diện nhà 2/IV, cải tạo công thương nghiệp tư
bản tư doanh; thực hiện việc đưa đất vào tập đồn sản xuất, sau đó bố trí cho

người trực tiếp sử dụng đất cũng làm phát sinh nhiều việc khiếu nại.

Về công tác giải quyết khiếu nại, Ủy ban nhân dân thành phó Hồ Chí
Minh nhìn nhận tình hình giải quyết khiếu nại hiện nay vẫn cịn một số tồn tại

như số lượng đơn thuộc thẩm quyền giải quyết còn tồn đọng và vi phạm thời

hạn luật định; quan điểm nhận thức pháp luật và áp dụng pháp luật trong giải

quyết khiếu nại của các cấp, các ngành còn khác nhau ảnh hưởng nhất định


đến tiến độ, chất lượng giải quyết của một số vụ việc.

Xuất phát từ tình hình khiếu nại nói chung, tại thành phố Hồ Chí Minh

nói riêng và u cầu phải có giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết

khiếu nại trong thời gian tới theo tinh thần Thông báo kết luận số 130-TB/TW

ngày 10/01/2008 của Bộ Chính trị; tác giả thấy rằng việc nghiên cứu có tính

hệ thống các vấn đề lý luận, quy định pháp luật về khiếu nại và tình hình
khiếu nại tại thành phố Hồ Chi Minh để đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả giải quyết khiếu nại là cần thiết. Và Tác giả quyết định chọn đề tài “Nâng
cao hiệu quả giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều tác giả nghiên cứu về các đề tài liên

quan đến khiếu nại ở nhiều góc độ khác nhau như: Quyền khiếu nại tố cáo của

công dân trong Hiến pháp 1946 và các Hiến pháp Việt Nam (tác giả Lê Bình
Vọng); Người khiếu nại và người bị khiếu nại trong khiếu nại hành chính (tác
giả Nguyễn Thị Thủy); Tăng cường giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo

của cơ quan hành chính nhà nước - giải pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa (tác giả Trần Văn Sơn); Cần sớm khắc phục những hạn chế về giải
quyết khiếu nại, tố cáo (tác giả Mai Trần Dũng); Về tính thống nhất của các



văn bản pháp luật hiện hành về khiếu nại, giải quyết khiếu nại hành chính (tác
giả Nguyễn Anh Tuần và Lê Văn Đức); Hoàn thiện Luật Khiếu nại, tố cáo
trong điều kiện nước ta hội nhập kinh tế quốc tế và Hoàn thiện những quy
định của luật khiếu nại, tố cáo về giải quyết khiếu nại, tố cáo đông người
(cùng của tác giả Trần Văn Sơn); Hoàn thiện pháp luật khiếu nại, tố cáo theo
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (tác giả Ngô Mạnh

Toan); Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố

cáo của công dân (tác giả Trần Văn Truyền); Xây dựng quy trình giải quyết

khiếu kiện hành chính (tác giả Đỉnh Văn Minh)...

Tuy nhiên các cơng trình nghiên cứu nêu trên chủ. yếu nghiên cứu

những vấn đề mang tính lý luận, pháp lý chung về khiếu nại hoặc nghiên cứu
theo một lĩnh vực nhất định (giải quyết tranh chấp, khiếu nại trong lĩnh vực

đất đai theo thủ tục hành chính của tác giả Nguyễn Thiện Thành); cũng có

cơng trình đã nghiên cứu tình hình khiếu nại trên một địa phương nhưng chỉ

trong địa bàn một quận (Đổi mới việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ủy ban

nhân dân Quận - Từ thực tiễn Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh của tác giả

Nguyễn Thị Thanh) mà chưa có cơng trình nào nghiên cứu, đánh giá việc giải


quyết khiếu nại của một cấp giải quyết khiếu nại như Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phó Hồ Chí Minh.

Do vậy, việc nghiên cứu các vấn đề về thẩm quyền; trình tự, thủ tục

giải quyết khiếu nại; tình hình giải quyết khiếu nại và đánh giá kết quả giải
quyết khiếu nại để từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết
khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phó Hồ Chí Minh là cần thiết
và cần được nghiên cứu.

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn

đề lý luận, quy định pháp luật cũng như về thực tiễn giải quyết khiếu nại của

Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phơ Hồ Chí Minh. Qua đó kiến nghị một số

giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban

nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

Về phạm vi đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu về công tác giải quyết
khiếu nại, không Ni, cứu về giải quyết tố cáo; và cũng chỉ nghiên cứu về
công tác giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phó Hồ Chí


Minh với tư cách là một cấp giải quyết khiếu nại. Ngồi ra, đề tài cũng chỉ

nghiên cứu về cơng tác giải quyết khiếu nại của công dân, không đề cập đến
hoạt động giải quyết khiếu nại của cán bộ, công chức đối với quyết định kỷ

luật cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính nhà nước.

4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận, đề tài đã tập hợp, hệ thống tương đối đầy đủ các vấn đề,

quan điểm khoa học liên quan đến khiếu nại như quyền khiếu nại của công

dân, đặc điểm, tính chất và mục đích của việc thực hiện quyền khiếu nại của
công dân; khái niệm khiếu nại hành chính, phân loại khiếu nại, thủ tục khiếu
nại, quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại; góp phần hồn thiện pháp luật về
khiếu nại trong giai đoạn hiện nay ...

Về mặt thực tiễn, đề tài đã nêu lên những ưu điểm cũng như hạn chế
trong hoạt động giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phó,
từ đó đề xuất những giải pháp thiết thực, hiệu quả; góp phần nâng cao hiệu
quả giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phó.
Š. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh; bám sát đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của
Nhà nước nhằm đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn của đề tài.
Trong q trình nghiên cứu, Tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên

cứu cụ thể như phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, phường pháp

tổng hợp, phương pháp so sánh, từ đó rút ra những kết luận cần thiết.
6. Bố cục của đề tài

Đề tài gồm phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và danh mục tài


liệu tham khảo.

Phần nội dung gồm:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về quyền khiếu nại của công dân và
trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trong
việc giải quyết khiêu nại.

Chương 2. Thực trạng giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phố Hơ Chí Minh.
„ Chương 3. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giải
quyet khiêu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phơ Hà Chí Minh.


CHUONG

1

NHUNG VAN DE LY LUAN VE QUYEN KHIEU NAI

CUA CONG DAN VA TRACH NHIEM CUA CHU TICH UY BAN
NHÂN DÂN THÀNH PHĨ HỊ CHÍ MINH TRONG VIỆC GIẢI

QUT KHIẾU NẠI

1.1. Quyền khiếu nại của công dân
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền khiếu nại.

Quyền khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của cơng dân, một


hình thức dân chủ trực tiếp để công dân tham gia quản lý nhà nước, được ghi
nhận trong Hiến pháp của nước ta.

Điều 74 Hiến pháp 1992 quy định: “Cơng dân có quyền khiếu nại,

qun tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyên về những việc làm trái

pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vi vit

trang nhân dân hoặc bắt kỳ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ

quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật qui định... ”.

Cụ thể hóa Điều 74 Hiến pháp 1992, Điều 1 Luật Khiếu nại, tố cáo (đã

sửa đổi, bổ sung) năm 2006 quy định: “Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền
khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước,

của người có thẩm qun trong cơ quan hành chính nhà nước khi có căn cứ
cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyển, lợi ích

hợp pháp của mình ”.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày

14/11/2006 của Chính phủ thì người khiếu nại phải là người có quyền, lợi ích

hợp pháp chịu tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành
chính mà mình khiếu nại.


Từ những quy định nêu trên, Tác giả cho rằng quyền khiếu nại của
công dân là một khái niệm pháp lý, thể hiện qua việc công dân đề nghị người
có thẩm quyền theo quy định của Luật Khiếu hại, t6 cdo xem xét lại quyết

định hành chính, hành vi hành chính mà họ cho rằng quyết định, hành vi đó

là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Từ khái niệm này, Tác giả nhận thấy quyền khiếu nại có một số đặc điểm sau:


Thứ nhất, quyền khiếu nại là một biểu hiện của hình thức dân chủ trực
tiếp để nhân dân tham gia quản lý nhà nước.

Về phương diện lý luận, khiếu nại là một “kênh thông tin ngược chiều
trực tuyến” từ xã hội, từ công dân đến Nhà nước. Việc xử lý và phát huy yếu
tố tích cực của nó phụ thuộc vào cơ chế, biện pháp bảo đảm dân chủ của thể

chế chính trị. Về phương diện pháp lý, Nhà nước đã ban hành các văn bản
pháp luật để giải quyết tốt nhất những khiếu nại của công dân, nhưng việc tiếp
nhận, đáp ứng nó đến đâu cịn phụ thuộc vào nhiều điều kiện cụ thẻ.

Thực tiễn thực hiện quyền khiếu nại là một trong những biểu hiện phản
ánh trực diện, thường xuyên môi quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Khiếu
nại tạo nên một cơ chế kiểm soát rộng lớn, một hệ thống báo động dự phòng
thường trực trong xã hội. Bởi lẽ, công dân khắp mọi nơi, mọi lúc gắn với
những điều kiện kinh tế - xã hội, là nơi mà chính sách, pháp luật được áp

dụng vào thực tiễn cuộc sống. Thông qua quyền dân chủ trực tiếp, nhân dân
có thể tự mình phát hiện cho Nhà nước những vấn đề khiếm khuyết của cơ


chế, chính sách để Nhà nước xem xét điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với

thực tiễn, giúp cho công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội ngày càng hiệu
quả hơn, yêu cầu cơ quan nhà nước giải quyết những quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.

Quyền khiếu nại của cơng dân là một biểu hiện của hình thức dân chủ
trực tiếp liên quan đến việc thực hiện các quyền cơ bản khác của cơng dân.
Nó là phương tiện được cơng dân sử dụng để bảo vệ lợi ích của mình; đồng

thời việc thực hiện tốt quyền khiếu nại cịn góp phần tăng cường sự nhất trí về
mặt chính trị, tư tưởng giữa người dân với các cơ quan Đảng và Nhà nước.

Thứ hai, công dân thực hiện quyền khiếu nại của mình bằng việc đề

nghị cơ quan có thâm quyền xem xét một việc mà mình khơng đồng ý, cho là
trái pháp luật hay không hợp lý.
Hiểu một cách đơn giản hơn, khiếu nại là việc công dân đề nghị xem
xét lại một sự việc hoặc một quyết định mà mình khơng đồng ý. Qua đây,

chúng ta thấy rõ một điều là: công dân thực hiện quyền khiếu nại thường xuất

phát từ nhận thức chủ quan. Bởi vì sự “khơng đồng ý” của công dân đối với

một việc làm hay một quyết định của cơ quan nhà nước là cơ sở để công dân


sử dụng quyền khiếu nại. Do đó, quyền khiếu nại của cơng dân cần được nhìn
nhận như một phương tiện hữu hiệu để cơng dân tự bảo vệ mình.


Xuất phát từ đặc điểm tâm lý của người thực hiện quyền khiếu nại là
mong muốn được cơ quan, cấp có thẩm quyền giải quyết sự việc theo ý

nguyện của mình một cách nhanh chóng, từ đó chủ thể của quyền khiếu nại đã

cố gắng chứng minh sự vi phạm của phía có việc làm, quyết định sai trái —
theo nhận thức chủ quan của họ. Chính vì thế, q trình cơng dân thực hiện

quyền khiếu nại là quá trình cung cấp tài liệu, chứng cứ về sự vi phạm lợi ích

của chủ thể của quyền khiếu nại. Và đến lượt mình, các cơ quan, cấp có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, một mặt sử dụng tài liệu, chứng .cứ tiếp nhận từ

chủ thê của quyền khiếu nại, mặt khác thu thập tài liệu, chứng cứ từ những

nguồn khác nhau để làm cơ sở cho việc giải quyết khiếu nại một cách khách
quan, chính xác.
1.1.2.

Tính chất và mục đích của việc thực hiện quyền khiếu nại của

công dân.

Như chúng ta đã biết, hoạt động khiếu nại của cơng dân đóng vai trị rất

quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ. Chính vì thế, mọi hành

vi xâm phạm đến các quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, hay bat cứ hành
vi nào trái với chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều có thể dẫn

đến sự khiếu nại của công dân. Hành vi khiếu nại của cơng dân có mối liên hệ

trực tiếp với trình độ nhận thức của chủ thể và khơng ít trường hợp, hành vi

khiếu nại còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của tính vụ lợi của chủ thể. Chính vì
thế, trong khi giải quyết khiếu nại, các cơ quan có thẩm quyền cần có sự phân
loại tính chất của các đơn khiếu nại làm cơ sở cho việc giải quyết được nhanh
chóng và đúng đắn.
Mặt khác, chúng ta cũng thấy rằng, sự tồn tại với tư cách là quyền chủ

thể và việc cơng dân thực hiện quyền khiếu nại của mình đồng thời làm nảy

sinh nghĩa vụ tương ứng đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức hữu quan. Do

vậy, tính hiện thực, mức độ bảo đảm thực thi quyền khiếu nại của công dân
tùy thuộc rất nhiều vào khả năng nghiên cứu giải quyết thực tế những vấn đề
nảy sinh từ khiếu nại. Xuất phát từ đây, một vấn đề đặt ra là hiệu quả xét, giải
quyết khiếu nại của công dân phải đặt trong mối liên hệ với một cơ chế bắt
buộc, hợp lý và hữu hiệu. Chừng nào chưa giải quyết được vấn đề đó thì cơng


tác xét, giải quyết khiếu nại của cơng dân khó tránh khỏi sự trì tré, tắc trách,
kém hiệu quả, xâm phạm đến quyền khiếu nại của công dân.

Công dân thực hiện quyền khiếu nại trước hết là nhằm mục đích bảo vệ
lợi ích của mình bởi những việc làm, những quyết định của các cơ quan, nhân

viên nhà nước và tổ chức xã hội. Điều đó cũng có nghĩa rằng, khiếu nại là
công cụ để người dân tự bảo vệ mình, dùng nó để đấu tranh trực tiếp với
những việc làm, quyết định mà họ cho rằng việc làm, quyết định đó xâm

phạm đến lợi ích của họ.

Thơng qua quyền khiếu nại, người dân tham gia vào hoạt động giám sát
hoạt động của cơ quan nhà nước, người có trách nhiệm; từ đó buộc các cơ

quan phải tự soi xét lại mình để hạn chế khiếu nại và ln hồn thiện để
khơng lập lại sai lầm. Đó cũng là một trong những tiêu chí để đánh giá hoạt
động của cơ quan mình và thơng qua việc xem xét, giải quyết khiếu nại của
cơng dân sẽ trực tiếp góp phần quan trọng vào việc xây dựng và củng cố lòng

tin của người dân đối với Đảng, đối với Nhà nước. Điều đó càng trở nên có ý
nghĩa khi mà chủ nghĩa xã hội đang trải qua thời kỳ đầy biến động phức tạp,
khi mà chúng đang có gắng thiết lập một trật tự xã hội theo đường lối đổi mới
của Đảng. Chính vì vậy địi hỏi phải có nỗ lực từ cả hai phía để bảo đảm tính

khách quan, kịp thời và có hiệu quả trong việc thực hiện quyền khiếu nại và
giải quyết khiếu nại.
Ngồi ra, thơng qua việc giải quyết khiếu nại, cơ quan nhà nước phát

hiện được những lỗ hồng, những bất hợp lý của pháp luật để từ đó có giải
pháp hồn thiện phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
1.1.3. Quyên khiếu nại của công dân qua các Hiến pháp của nước ta.

Theo Hiến pháp nước ta (1946, 1959, 1980, 1992), quyền và nghĩa vụ

của công dân có thể chia làm 3 nhóm chính:

- Các qun và nghĩa vụ cơ bản trong lĩnh vực chính trị và xã hội:
quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; quyền bầu cử, ứng cử,
quyền khiếu nại, tố cáo, quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc; quyền tự do ngơn

luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do biểu tình.

- Các quyên và nghĩa vụ cơ bản trong lĩnh vực văn hóa - kinh tế xã hội

như: quyền và nghĩa vụ lao động; quyền được bảo vệ sức khỏe, quyền được


bảo đảm vật chất và bảo hiểm xã hội, quyền tự do kinh doanh; quyền về nha
ở; quyền và nghĩa vụ học tập, nghiên cứu khoa học, phát minh sáng chế...

- Các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong đời sống riêng như: quyền bất

khả xâm phạm về thân thé, về chỗ ở, thư tín, quyền tự do đi lại và cư trú;

quyền bình đẳng trước pháp luật và bình đẳng nam nữ; quyền tự do tín
ngưỡng...
Hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản nêu trên là những quyền chủ

thể của cơng dân, thể hiện những lợi ích riêng của cá nhân công dân được

pháp luật bảo hộ, bảo đảm cho cơng dân hoạt động sáng tạo, có ích, là một sự

hài hịa, thống nhất giữa lợi ích chung của tồn xã hội và lợi ích riêng của mỗi

người; để thỏa mãn những yêu cầu xã hội và yêu cầu riêng của mỗi công dân.

Trong số các quyền cơ bản của công dân, quyền khiếu nại được Hiến

pháp ghi nhận thể hiện địa vị pháp lý của công dân, nó được xác lập như một


phương tiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân trên mọi lĩnh

vực của đời sống xã hội. Quyền khiếu nại cũng được từng bước phát triển

hoàn chỉnh, phù hợp với địi hỏi của q trình hồn thiện Hiến pháp và hệ

thống pháp luật nước ta và yêu cầu của một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã xác định việc

bảo đảm các quyền dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản của Hiến

pháp. Với 18 điều luật về quyền, Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận 26 quyền

cơ bản của công dân. Mặc dù quyền khiếu nại chưa được ghỉ nhận chính thức

trong những điều luật riêng, nhưng thể chế dân chủ mà Hiến pháp này tạo
dựng nên đã là nền tảng cơ bản hình thành quyền khiếu nại của công dân trên
thực tê.

Quyền khiếu nại của cơng dân chính thức được ghi nhận trong Hiến

pháp năm 1959, tại Điều 24 quy định: “Cơng đân có quyền khiếu nại, tố cáo
với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm vi phạm pháp luật
của cán bộ và nhân viên cơ quan nhà nước. Các khiếu nại, tố cáo phải được

xem xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại có quyền được bôi
thường”.
Việc ghi nhận quyền khiếu nại của công dân là một trong những bước
phát triển quan trọng của Hiến pháp năm 1959 trên nền tảng cơ bản của Hiến


pháp năm 1946. Về thực chất, đây là một sự hoàn thiện cả về hệ thống các


10

quyền công dân và cả về cơ chế thực hiện các quyền đó. Việc quy định quyền
khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân đã củng cố thêm

một bước địa vị pháp lý của công dân trong xã hội, khẳng định vai trò tham

gia quản lý nhà nước của công dân.

- Hiến pháp năm 1980 tiếp tục cụ thể hóa quyền khiếu nại. Tại Điều 73

quy định: “Cơng đân có quyền khiếu nại, tố cáo với bắt kỳ cơ quan nào của

Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào thuộc các

cơ quan, tổ chức và đơn vị đó”.
So với Hiến pháp năm

1959, quy định của Hiến pháp năm

1980 về

quyền khiếu nại đã có một bước phát triển cao hơn. Trước hết về đối tượng bị
khiếu nại, nếu như ở Điều 29 Hiến pháp năm 1959 chỉ quy định đối tượng bị
khiếu nại là “những hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên cơ quan nhà


nước” thì Điều 73 Hiến pháp năm 1980 đã mở rộng đối với “những việc làm

trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vã trang nhân

dân hoặc của bất cứ cá nhân thuộc các cơ quan, tổ chức đó ”. Như vậy, theo

Hiến pháp năm 1980, đối tượng bị khiếu nại đã được mở rộng rất nhiều. Có
thể nói, quy định của Hiến pháp năm 1980 về quyền khiếu nại đã kế thừa và
phát triển một cách nhất quán phương hướng xây dựng một Nhà nước của
dan, do dân và vì nhân dân.

Tại Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, những quy
định về quyền cơ bản của công dân và mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và
công dân được xác lập đầy đủ hơn. Quyền tự do, dân chủ của cơng dân được

coi trọng, có cơ chế đảm bảo thực hiện. Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy
định: “Cơng dân có quyền khiếu nại, quyền tơ cáo với cơ quan nhà nước có

thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bắt cứ cá nhân nào. Việc khiếu
nại, tô cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn

pháp luật quy định. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyên và lợi
ích hợp pháp của tổ chức và của cơng dân phải được kịp thời xử lý nghiêm
mình. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hôi
danh dự. Nghiêm cắm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng
quyền khiếu nại, tố cáo dé vu khống, vu cáo, làm hại người khác ”.



11

Trong quy định này tính pháp chế được thể hiện rõ: nếu như các Hiến

pháp năm 1959, 1980 quy định cho công dân được khiếu nại với bất cứ cơ

quan nhà nước nào thì Hiến pháp năm 1992 quy định cơng dân có quyền
khiếu nại với cơ quan nhà nước có thâm quyền. Như vậy, một mặt trong hệ
thống các cơ quan nhà nước phải có sự phân định rõ thâm quyền giải quyết
các khiếu nại của công dân theo từng ngành, từng cấp. Mỗi cơ quan nhà nước

đều xác định được trách nhiệm cụ thể của mình trong việc giải quyết các
khiếu nại của công dân. Mặt khác, khi thực hiện quyền khiếu nại của mình,
cơng dân cũng phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về

khiếu nại. Quy định này nhằm tăng cường hiệu quả giải quyết khiếu nại, tăng

cường pháp chế trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, loại
trừ việc lợi dụng quyền khiếu nại để làm hại uy tín, danh dự của người khác.
Như đã trình bày ở trên, quyền khiếu nại là quyền hiến định. Thực tế,
hầu hết các đạo luật đều có các điều khoản ghi nhận quyền khiếu nại đi kèm
như một chế định đảm bảo cho quyền, lợi ích của các bên khi họ tham gia vào

quan hệ pháp luật mà đạo luật đó điều chỉnh. Điều này hoàn toàn phù hợp với
thực tiễn xây dựng pháp luật. Bản chất của pháp luật là xác lập và điều chỉnh
các mối quan hệ giữa các chủ thể. Mối quan hệ đó suy cho cùng khơng ngồi
những vấn đề về quyền, nghĩa vụ, lợi ích của các bên liên quan mà Nhà nước

và pháp luật dự liệu, bảo vệ. Do vậy, mỗi khi có sự vi phạm các qun, lợi ích


nào đó thì pháp luật cũng quy định cho các bên được dùng quyền khiếu nại, tố
cáo để tự bảo vệ thông qua sự can thiệp của Nhà nước.

1.2. Khái niệm khiếu nại hành chính, phân loại và thủ tục khiếu nại
1.2.1. Khái niệm khiếu nại hành chính.
Khiếu nại là “sự phản ứng tự giác của con người trước một quyết định,

một hành vi nào đó mà người khiếu nại cho rằng quyết định, hành vi đó là
trái pháp luật, khơng phù hợp với các quy tắc chuẩn mực trong đời sống cộng

đồng, xâm phạm tới quyên và lợi ích hợp pháp cia minh”,

Theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo thì “khiếu nại là việc công
dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy

định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định
? Dẫn theo Nguyễn Thiện Thành (2007), “Giải quyết tranh chấp, khiếu nại trong lĩnh vực đất đai theo thủ tục
hành chính (từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh)”, Luật văn thạc sĩ Luật học.


12

hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ,
có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi hành chính đó là
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình ". Đây là một quy
từ quy định này, đã có nhiều quan niệm, nhiều cách hiểu khác
nại hành chính.

cơng chức khi
trái pháp luật,

định chung và
nhau về khiếu

Theo quan điểm của Tiến sĩ Trần Văn Sơn, “khiếu nại hành chính là

việc cơng dân, cơ quan, tổ chức u câu cơ quan hành chính nhà nước, người
có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước xem xét lại quyết định
hành chính, hành vì hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước mà người khiếu nại cho rằng
quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm đến qun và lợi ích hợp

pháp của mình "®). Từ khái niệm trên đây cho thấy Tiến sĩ Trần Văn Son chi
đề cập đến khái niệm khiếu nại hành chính thuộc phạm vi giải quyết của cơ
quan hành chính nhà nước.

Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra định nghĩa về khiếu nại hành

chính như sau: “khiếu nại hành chính là việc cá
quan hành chính nhà nước xem xét, sửa chữa
hành chính mà họ cho là quyết định hoặc hành
gây thiệt hại hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyên và

nhân hay tổ chức đề nghị cơ
một quyết định hay hành vi
vi đó khơng đúng pháp luật,
lợi ích hợp pháp của họ... 249)

- Quan niệm này xuất phát từ việc xem xét khái niệm khiếu nại hành chính

dưới góc độ là quyền chủ quan của cơng dân. Vì vậy, theo cách định nghĩa


này, các quy định pháp luật về khiếu nại hành chính sẽ hết sức thuận lợi, cởi
mở để cá nhân, tổ chức có thể thực hiện quyền khiếu nại hành chính.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, người có thẩm

quyền giải quyết khiếu nại hành chính khơng chỉ là các cơ quan hành chính

nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước. Vì vậy
các khái niệm trên vẫn chưa được coi là khái niệm đầy đủ. Từ đó, Tác giả

hồn tồn đồng tình với quan điểm cho rằng: “Khiếu nại hành chính là việc
cá nhân, cơ quan, tổ chức theo thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành

chính đề nghị chủ thể có thẩm quyên giải quyết khiếu nại hành chỉnh xem xét
lại các quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán
3 Dẫn theo Nguyễn Thị Thủy (2007), “Người khiếu nại và người bị khiếu nại trong khiếu nại hành chính”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số (03).
* Dẫn theo Nguyễn Thị Thủy (2007), “Người khiếu nại và người bị khiếu nại trong khiếu nại hành chính”,

Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. Số (03).


13

bộ, cơng chức khi họ có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó trái pháp

luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình "°. Bởi lẽ khái niệm

này đã chỉ rõ được bản chất của khiếu nại hành chính, người khiếu nại, người
bị khiếu nại, đối tượng khiếu nại cũng như thủ tục khiếu nại và giải quyết


khiếu nại hành chính.

1.2.2. Phân loại khiếu nại.

Việc phân loại khiếu nại góp phần giúp cho cơ quan nhà nước có thấm

quyền giải quyết khiếu nại được nhanh chóng và đúng đắn. Ngồi ra, việc
phân loại khiếu nại cịn giúp cho cơ quan quản lý nhà nước có thể đánh giá

được tình
nhà nước
thuộc vào
khiếu nại

hình khiếu nại diễn ra trên thực tế để có những chính sách quản lý
cho phù hợp, hiệu quả. Có nhiều cách thức phân loại khiếu nại, tùy
tiêu chí phân loại. Trong đề tài này, Tác giả chỉ nêu lên một số loại
chủ yếu thơng qua một số số tiêu chí sau:

Thứ nhất, theo lĩnh vực quản lý chung, khiếu nại có thể được diễn ra

trên trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Có thẻ nói

rằng, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và trong mọi hoạt động của

các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội... đều tiềm ân khả
năng hoạt động khiếu nại.

Thứ hai, theo lĩnh vực cụ thể, khiếu nại có thể được phân loại theo các


lĩnh vực: quản lý đất đai (đối tượng khiếu nại gồm quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong quản lý đất đai như quyết định giao đất, cho thuê
đất, thu hồi đất; quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định
cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyết định xử lý vi
phạm hành trong lĩnh vực dat dai ...), quản lý nhà (đòi lại nhà do Nhà nước

đã quản lý trong q trình thực hiện chính sách cải tạo hoặc chính sách nhà
nước trước ngày 01/7/1991; quyết định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực quản lý nhà; việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử

dụng đất ở...), lĩnh vực quản lý đô thị (việc cấp phép xây dựng, xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực xây dựng...), lĩnh vực bảo vệ môi trường, ...

Thứ ba, theo đối tượng khiếu nại, có thể phân ra thành khiếu nại hành
vi hành chính hoặc khiếu nại quyết định hành chính.
Ÿ Xem: Nguyễn Thị Thủy (2007), “Người khiếu nại và người bị khiếu nại trong khiếu nại hành chính”, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, Số (03).


14

Thứ tư, chúng ta cũng có thể dựa vào chủ thể khiếu nại, chủ thể bị
khiếu nại, lần khiếu nại để phân loại khiếu nại. Chẳng hạn, dựa vào chủ thể
khiếu nại, có thể phân thành khiếu nại của cơng dân, của cơ quan, tổ chức
hoặc của cán bộ, công chức.

Ngồi ra, chúng ta cũng có thể phân loại khiếu nại thành khiếu nại đơn
lẻ, khiếu nại tập thể hay khiếu nại đông người (dựa vào số lượng người khiếu
nại). Mặc dù, Luật Khiếu nại, tố cáo chưa có quy định về vấn đề khiếu nại

đông người, nhưng thực tiễn cho thấy hoạt động khiếu nại đông người đã,
đang và sẽ còn tồn tại, nhát là khi chúng ta mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa,
xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề khiếu nại cần phải được quy định
cụ thể trong Luật Khiếu nại, tố cáo.
2.1.3. Thủ tục khiếu nại.

Đối với khiếu nại lần đầu, Điều 30 Luật Khiếu nại, tố cáo quy đinh:
Người khiếu nại lần đầu phải khiếu nại với người đã ra quyết định hành chính

hoặc cơ quan có cán bộ, cơng chức có hành vi hành chính mà người khiếu nại

có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền,
lợi ích hợp pháp của mình. Người khiếu nại có thể thực hiện khiếu nại bằng

đơn hoặc đến khiếu nại trực tiếp; đồng thời, pháp luật khiếu nại cũng quy định

người khiếu nại có thể tự mình khiếu nại hoặc khiếu nại thông qua người đại

diện.

Trường hợp việc khiếu nại được thực hiện bằng đơn thì trong đơn khiếu

nại phải ghỉ rõ ngày, tháng, năm khiếu nại, tên, địa chỉ của người khiếu nại;
tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại; nội dung, lý do khiếu
nại và yêu cầu của người khiếu nại. Đơn khiếu nại phải do người khiếu nại ký
tên. Trường hợp người khiếu nại đến khiếu nại trực tiếp thì cán bộ có trách
nhiệm phải hướng dẫn người khiếu nại viết thành đơn hoặc ghi lại nội dung
như nêu trên và phải có chữ ký của người khiếu nại.

Trường hợp việc khiếu nại được thực hiện thông qua người đại diện thì

người đại diện phải có giấy tờ chứng minh tính hợp pháp của việc đại diện và
việc khiếu nại phải thực hiện theo đúng thủ tục quy định tại khoản 1 và khoản

2 Điều 33 Luật Khiếu nại, tố cáo. Trường hợp này, Chính phủ đã quy định cụ
thể như sau:


iS

Trường hợp người khiếu nại là người chưa thành niên, người bị bệnh

tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi

của mình thì cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột có năng lực hành vi

dân sự đầy đủ hoặc người giám hộ là người đại diện để thực hiện việc khiếu
nại; nếu khơng có người đại diện thì Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường,

thị trấn nơi người đó cư trú cử người đại diện để thực hiện việc khiếu nại; Khi
thực hiện việc khiếu nại, người đại diện phải có giấy tờ hoặc xác nhận của Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người khiếu nại cư trú để chứng minh
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đại diện hợp pháp của mình;
Trong trường hợp Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trần cử người
đại diện để khiếu nại thì phải có văn bản nêu rõ lý do, trách nhiệm của người

đại diện.

Trường hợp người khiếu nai 6m dau, già yếu, có nhược điểm về thể

chất hoặc vì lý do khách quan khác mà khơng thẻ tự mình khiếu nại thì được


ủy quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên, anh, chị, em ruột hoặc

người khác có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đẻ thực hiện việc khiếu nại.
Người được ủy quyền chỉ thực hiện việc khiếu nại theo đúng nội dung được

ủy quyền. Việc ủy quyền phải bằng văn bản và phải có xác nhận của Ủy ban

nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người uỷ quyền cư trú.

Đối với khiếu nại lần hai, Điều 40 Luật Khiếu nại, tố cáo quy định:
Người khiếu nại phải gửi đơn kèm theo bản sao quyết định giải quyết khiếu
nại lần đầu và các tài liệu liên quan (nếu có) cho người giải quyết khiếu nại
lần hai.
2.1.4. Quyên, nghĩa vụ của người khiếu nại.

Theo quy định của pháp luật về khiếu nại thì người khiếu nại có các
quyền sau đây:

Tự mình khiếu nại; trường hợp người khiếu nại là người chưa thành

niên, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình thì người đại diện theo pháp luật của họ thực
hiện việc khiếu nại; trường hợp người khiếu nại ốm đau, già yếu, có nhược

điểm về thể chất hoặc vì lý do khách quan khác mà khơng thể tự mình khiếu
nại thì được ủy quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị em ruột, con đã thành


16

niên hoặc người khác để khiếu nại; Nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật trong

quá trình khiếu nại;

Được biết các bằng chứng để làm căn cứ giải quyết khiếu nại; đưa ra
bằng chứng về việc khiếu nại và giải trình ý kiến của mình về bằng chứng đó;
Nhận văn bản trả lời về việc thụ lý để giải quyết khiếu nại; biết théng tin, tài
liệu của việc giải quyết khiếu nại; nhận quyết định giải quyết khiếu nại;
Được khôi phục quyền,

lợi ích hợp pháp đã bị xâm

hại, được bồi

thường thiệt hại theo quy định của pháp luật; Khiếu nạitiếp hoặc khởi kiện vụ

án hành chính tại Tịa án theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo va
pháp luật về tố tụng hành chính.

Ngồi ra, người khiếu nại cịn có quyền rút khiếu nại trong q trình

giải quyết khiếu nại.

Bên cạnh các quyền trên đây, người khiếu nại có các nghĩa vụ: Khiếu

nại đến đúng người có thâm quyền giải quyết; Trình bày trung thực sự việc,
cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm
trước pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp thơng tin, tài liệu đó;
Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp
luật.


1.3. Vị trí, vai trị và trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân

thành phố Hồ Chí Minh trong việc giải quyết khiếu nại

1.3.1. Vị trí, vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành pho trong việc

giải quyết khiếu nại.

Điều 94 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân quy định
Uy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm “?ổ chức, chỉ đạo công tác thanh tra
nhà nước, tổ chức tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cơng
dân theo quy định của pháp luật `.

Ngồi ra, theo quy định của Luật này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân là
người lãnh đạo và điều hành công việc của Ủy ban nhân dân và chịu trách
nhiệm về hoạt động của Ủy ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân cùng cấp
và trước cơ quan nhà nước cấp trên. Như vậy, với vị trí là người đứng đầu,

thay mặt cho Ủy ban nhân dân thành phố; Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành

phơ có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại của công



×