Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.87 KB, 99 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

NGUYỄN THỊ KHÁNH LY

PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ KHÁNH LY
KHOÁ: 43
MSSV: 1853401020142
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THS. ĐẶNG QUỐC CHƯƠNG

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2023


LỜI CẢM ƠN


Khoá luận tốt nghiệp với đề tài: “Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam” là nội dung nghiên cứu tôi đã chọn để tốt
nghiệp sau năm năm theo học tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Q
trình thực hiện Khoá luận đã tạo tiền đề pháp lý vững chắc cùng các kỹ năng nền tảng
để tơi có thể hồn thiện bản thân mình. Trong q trình nghiên cứu, tôi đã nhận được
rất nhiều sự quan tâm và giúp đỡ từ thầy cơ, gia đình và bạn bè. Đây là thành quả đặc
biệt quan trọng và có ý nghĩa nhất đối với tơi. Do đó, để có thể thực hiện và hồn
thành Khố luận này, trước tiên tơi xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh và đội ngũ cán bộ giảng viên tại
Trường, đặc biệt là các thầy cô Khoa Thương mại đã tạo điều kiện cho tôi được lựa
chọn và thực hiện đề tài. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình và các
bạn bè đồng khố đã ln hỗ trợ, động viên, giúp đỡ tơi trong q trình tìm kiếm
nguồn tài liệu và nghiên cứu Khố luận.
Tơi xin đặc biệt gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Giảng viên hướng dẫn – Thạc sĩ
Đặng Quốc Chương, người đã tận tâm hướng dẫn, hỗ trợ và đồng hành cùng tôi trong
suốt quá trình thực hiện và hồn thiện Khố luận.
Vì kiến thức chun mơn cịn nhiều hạn chế và bản thân cịn thiếu kinh nghiệm
thực tiễn nên nội dung của Khoá luận khơng tránh khỏi những thiếu xót, hạn chế. Do
đó, tơi rất mong nhận được những lời góp ý, nhận xét từ phía Thầy, Cơ để có thể hồn
thiện cơng trình nghiên cứu của mình một cách tốt nhất.
Một lần nữa, tơi xin chân thành cảm ơn và kính chúc tồn thể Thầy Cô cùng
các bạn sinh viên thật nhiều sức khoẻ, hạnh phúc và thành cơng.
Trân trọng./.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 6 năm 2023
Ký tên

Nguyễn Thị Khánh Ly


LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Đặng Quốc Chương, đảm
bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này”.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 6 năm 2023
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Khánh Ly


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

ABBank

Ngân hàng Thương mại Cổ phần An Bình

ACB

Ngân hàng Cổ phần thương mại Á Châu

BIDV

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

CTKLM


Cạnh tranh không lành mạnh

DongA Bank

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Á

HĐNH

Hoạt động ngân hàng

LCT

Luật Cạnh tranh

Luật CTCTD

Luật Các tổ chức tín dụng

Luật NHNNVN

Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Nam A Bank

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Á

NCB

Ngân hàng Quốc Dân


NHNNVN

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Sacombank

Ngân hàng Sài Gịn Thương Tín

SCB

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn

Southern Bank

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Nam

TCTD

Tổ chức tín dụng

VPBank

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thịnh
Vượng


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH

TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG TẠI
VIỆT NAM................................................................................................................. 8
1.1. Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt
Nam ............................................................................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh ........................................................... 8
1.1.2. Đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh .................................................... 11
1.1.3. Khái quát về hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam ..................... 14
1.2. Tổng quan về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
ngân hàng tại Việt Nam .......................................................................................... 19
1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân
hàng ........................................................................................................................... 19
1.2.2. Tác động của cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng và sự cần
thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật tại Việt Nam .................................................... 29
1.2.3. Nội dung pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân
hàng tại Việt Nam ...................................................................................................... 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 40
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC NGÂN
HÀNG TẠI VIỆT NAM.......................................................................................... 41
2.1. Thực trạng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
ngân hàng tại Việt Nam .......................................................................................... 41
2.1.1. Áp dụng pháp luật xác định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực ngân hàng ........................................................................................................... 41
2.1.2. Đánh giá chung về quy định của pháp luật trong việc xác định các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng..................................................... 62
2.1.3. Quy phạm đạo đức, tập quán thương mại điều chỉnh cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ................................................................................. 67
2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam ........................................................................... 70
2.2.1. Định hướng hồn thiện pháp luật chống cạnh tranh khơng lành mạnh trong lĩnh

vực ngân hàng ........................................................................................................... 70
2.2.2. Các giải pháp cụ thể hồn thiện pháp luật chống cạnh tranh khơng lành mạnh
trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam ..................................................................... 72


2.2.3. Các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực ngân hàng ........................................................................................... 75
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 83
KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là nguồn động lực không thể thiếu cho sự phát triển kinh tế, cạnh tranh từ lâu
đã được nhìn nhận là một trong những quy luật tất yếu trong nền kinh tế thị trường.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (Hiến pháp 2013) đã
ghi nhận rằng: “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và
cạnh tranh theo pháp luật”1. Cùng với sự phát triển của thế giới khi bước sang thế
kỷ 21, Việt Nam đang bắt đầu đi vào chiều sâu trong sự nghiệp đổi mới và đạt được
những thành tựu kinh tế to lớn. Và trong số những nguyên nhân thúc đẩy tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế, không thể phủ nhận vai trò của cạnh tranh trong việc thúc đẩy
sự vận hành mạnh mẽ của thị trường. Tuy nhiên, dưới sức ép cạnh tranh của thị
trường, bản chất của cạnh tranh cũng dần bị “bóp méo”, biến thị trường thành một
cuộc chạy đua thị phần, tạo ra vô vàn những kiểu kinh doanh sai lệch nhằm mục đích
cạnh tranh nhau để thống lĩnh thị trường. Cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM),
bằng các thủ đoạn bất chấp các quy phạm đạo đức, quy phạm pháp luật của các chủ
thể kinh doanh, có thể biến thị trường thành mục tiêu để đạt được lợi nhuận phi pháp.

Vậy nên, hoạt động cạnh tranh của các chủ thể kinh tế trên thị trường đều phải được
điều chỉnh bởi pháp luật, bởi các định chế xã hội, các quy phạm mang tính bắt buộc
hoặc tính chuẩn mực để điều chỉnh tư duy cạnh tranh, giúp cạnh tranh trở lại với bản
chất và vai trị của mình.
Mức độ nguy hiểm của CTKLM là một vấn đề cần được bàn luận sâu hơn
ngoài việc xem xét và điều chỉnh pháp luật một cách chung chung cho tất cả các loại
hình doanh nghiệp. Bởi ở từng lĩnh vực kinh doanh khác nhau, hậu quả của CTKLM
cũng sẽ khác nhau. Và nếu xét mức độ ảnh hưởng của cạnh tranh trên tất cả các ngành
nghề, lĩnh vực kinh doanh thì lĩnh vực ngân hàng chính là lĩnh vực mang nhiều rủi ro
nhất nếu như cạnh tranh khơng được kiểm sốt chặt chẽ. Bản chất của hoạt động ngân
hàng (HĐNH) vốn là một hoạt động mang nhiều rủi ro, nhạy cảm và dễ biến động
bởi các yếu tố thị trường. Trải qua q trình xây dựng nền móng, củng cố và phát
triển hệ thống kinh tế thị trường, CTKLM giữa các loại hình tổ chức tín dụng (TCTD)
trong lĩnh vực ngân hàng lại càng trở nên “nóng” hơn bởi chính sức nặng của nó đối
với các thành phần kinh tế và nền kinh tế của một quốc gia. Với vai trò là huyết mạch
của nền kinh tế quốc gia, hệ thống ngân hàng là kênh dẫn vốn chủ yếu thúc đẩy việc
1

Khoản 2 Điều 51 Hiến pháp năm 2013.
1


chuyển dịch nền kinh tế, phân bổ các nguồn lực tài chính một cách có hiệu quả đến
các đối tượng có nhu cầu, giúp Nhà nước xây dựng được một nền móng kinh tế vững
chắc, độc lập và tự chủ. Phát biểu trong buổi thăm và chúc Tết cán bộ, công chức,
viên chức, người lao động Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) và ngành
ngân hàng vào ngày 08/02/2022, Thủ tướng Chính Phủ Phạm Minh Chính đã ghi
nhận: “Ngành ngân hàng có vai trị quan trọng, dẫn dắt nền kinh tế đất nước; cán
bộ, nhân viên, lao động ngành ngân hàng cần tự hào với ngành và cơng việc của
mình, “đã nỗ lực rồi, nỗ lực hơn nữa; đã cố gắng rồi, cố gắng hơn nữa”; đổi mới,

tiên phong trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tất cả vì lợi ích
quốc gia, dân tộc; vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân”2. Chính vì vai trị
trụ cột đối với nền tài chính của quốc gia, nếu hệ thống ngân hàng gặp rủi ro sẽ tạo
ra những tác động tiêu cực trực tiếp và kéo dài đối với nền kinh tế và chi phí cho việc
khắc phục khủng hoảng về tài chính là một vấn đề đáng lo ngại. Cũng là chủ thể kinh
doanh trên thị trường, Nhà nước vẫn đảm bảo cho các TCTD trong lĩnh vực ngân
hàng được những quyền tự do nhất định trong kinh doanh, trong đó có quyền tự do
cạnh tranh, tự do xây dựng các chiến lược để giành lấy thị phần trong khuôn khổ của
pháp luật. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển và hội nhập quốc tế sâu
rộng, sự cạnh tranh giữa các loại hình TCTD trong hệ thống ngân hàng ngày càng trở
nên gay gắt. Thực tiễn cho thấy, dù được kiểm soát nghiêm ngặt hơn so với các lĩnh
vực kinh doanh khác, việc tìm kiếm thị phần để giành chỗ đứng trên thị trường cũng
đã làm phát sinh nhiều hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng. Điều này không
chỉ là mối đe dọa cho hệ thống tài chính quốc gia, mà cịn tác động tiêu cực đến hoạt
động chu chuyển vốn của nền kinh tế, gây ảnh hưởng dây chuyền đến các ngành kinh
tế khác và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, cá nhân có
liên quan.
Việc điều chỉnh vấn đề cạnh tranh một cách lành mạnh để đảm bảo tính chất
của cạnh tranh, đảm bảo sự cân bằng và ổn định của hệ thống ngân hàng là một điều
tất yếu trong hoạt động thi hành pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về ngân hàng.
Nhìn nhận được những ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng, Quốc hội
đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật với mục đích ngăn chặn, nghiêm cấm
các hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng, bảo đảm sự cạnh tranh an toàn, lành
mạnh của các chủ thể kinh doanh trong nền tài chính nước nhà. Ngồi Luật Cạnh
“Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính: Ngành ngân hàng có vai trị quan trọng, dẫn dắt nền kinh tế đất
nước”, truy cập ngày 03/3/2023.
2

2



tranh năm 2018 (Luật số 23/2018/QH14) ngày 12 tháng 6 năm 2018 (LCT 2018)
được Quốc hội ban hành để điều chỉnh chung cho hành vi CTKLM của tất cả các chủ
thể trong nền kinh tế, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật số 47/2010/QH12)
ngày 16 tháng 6 năm 2010 (Luật CTCTD 2010) cũng đã có quy định nghiêm cấm các
hành vi CTKLM trong HĐNH. Ngoài ra, Quốc hội cũng giao cho Chính Phủ nhiệm
vụ ban hành những văn bản hướng dẫn thi hành để có những biện pháp xử lý cụ thể
đối với các hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, cho đến thời điểm
hiện tại, pháp luật Việt Nam điều chỉnh cho vấn đề này lại cịn khá nhiều điểm bất
cập, chưa hồn chỉnh và chưa đủ sức để bảo vệ hiệu quả cạnh tranh giữa các TCTD
trong nền tài chính Nhà nước. Các quy định xử lý về CTKLM trong lĩnh vực ngân
hàng cịn mang tính chung chung, chưa thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản quy
phạm pháp luật. Trong khi đó, hành vi CTKLM lại có tính chất khó lường, được thực
hiện bằng nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
mục đích thực hiện, lĩnh vực hoạt động cụ thể của các chủ thể,... Thông qua thực tiễn
thị trường ngân hàng trong những năm qua, có thể thấy được tình hình CTKLM giữa
các TCTD vẫn còn diễn biến khá phức tạp. Chúng tồn tại ở rất nhiều lĩnh vực kinh
doanh ngân hàng như: cạnh tranh về mặt lãi suất huy động, cạnh tranh điều kiện cho
vay, cạnh tranh về chất lượng dịch vụ ngân hàng,... Mặt khác, CTKLM trong lĩnh vực
ngân hàng cịn mang tính đặc thù của ngành ngân hàng, có rất nhiều yếu tố buộc phải
có pháp luật mang tính riêng, cụ thể hơn để kiểm sốt, điều chỉnh. Do đó, việc áp
dụng pháp luật để xử lý một cách chính xác các hành vi CTKLM cụ thể trong lĩnh
vực ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
Từ những phân tích trên, nhận thức được hoạt động nghiên cứu pháp luật về
cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng cần thiết phải được thực hiện cụ thể hơn, các quy
định cần được làm rõ hơn và các bất cập cần được hoàn thiện hơn. Đồng thời, cùng
với mong muốn góp phần chia sẻ thông tin, nghiên cứu pháp luật, học hỏi, đúc kết
kinh nghiệm về lĩnh vực này, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam” để làm đề

tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Các cơng trình được thực hiện ở quy mơ khóa luận, đề tài nghiên cứu khoa
học và sách chun khảo
Một số các cơng trình tiêu biểu nghiên cứu về pháp luật chống CTKLM trong
lĩnh vực ngân hàng có thể kể đến đó là:
3


1. Luận án tiến sĩ Luật học: “Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong
hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại Việt Nam” năm 2014,
Viên Thế Giang – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam – Học viện khoa
học xã hội – Hà Nội;
2. Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh, chống
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng”, năm 2009,
Lê Như Thơ, Chuyên ngành Luật Kinh tế - Trường Đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh;
3. Luận văn Thạc sĩ kinh tế: “Phân tích cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng Việt
Nam” năm 2009, Đoàn Hồng Vân, chuyên ngành Kinh tế tài chính – Ngân
hàng - Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí
Minh;
4. Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Cạnh tranh và thực thi pháp luật cạnh tranh trong
hoạt động ngân hàng ở Việt Nam” năm 2011, Hoàng Văn Thành, Chuyên
ngành Luật Kinh tế – Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
5. Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Các hành vi cạnh tranh không lành mnahj của
ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam” năm 2015, Tạ Thu Hằng,
khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
6. Khóa luận tốt nghiệp: “Pháp luật về cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng –
Giải pháp hoàn thiện” năm 2006, Nguyễn Duy Thành, Khoa Luật Thương mại
– Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh;

7. Khóa luận tốt nghiệp: “Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực hoạt động ngân hàng tại Việt Nam” năm 2022, Trần Thị Thảo, Khoa Luật
Thương mại – Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ
Chí Minh;
8. Báo cáo tổng kết Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp trường năm học 2014 –
2015: “Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của một số nước trên
thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam” năm 2015, Hồ Xuân Thắng, Trường
Đại học Sài Gịn.
2.2. Các bài viết trên các tạp chí chun ngành trong nước
Ngồi các cơng trình được nghiên cứu ở quy mơ khố luận, nghiên cứu khoa
học và sách chun khảo, cũng có rất nhiều bài viết trên các tạp chí chun ngành
trong nước có nghiên cứu đến pháp luật chống CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng,
điển hình có thể kể đến như sau:

4


1. Viên Thế Giang – Một số ý kiến về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động ngân hàng tại Việt Nam, Học viện ngân hàng – phân viện Phú Yên;
2. Nguyễn Văn Vân – Một số vấn đề về pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt
động ngân hàng, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 175 - Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11/2005;
3. Nguyễn Văn Tuyến - Áp dụng Luật Cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ ngân
hàng, Tạp chí Luật học – Trường Đại học Luật Hà Nội, tháng 6/2006;
4. Nguyễn Kiều Giang – Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng
– nhìn từ góc độ pháp lý, Luật học – Trường đại học Luật Hà Nội, số 12/2007.
5. Viên Thế Giang - Hoàn thiện các quy định pháp luật về cạnh tranh của các tổ
chức có hoạt động ngân hàng trong bối cảnh hội nhập quốc tế nhìn từ góc độ
những bất cập và yêu cầu đặt ra, Tạp chí nhà nước và pháp luật, Viện nhà nước
và pháp luật, số 4/2008;

6. Vương Thị Minh Đức, Nguyễn Đắc Diệu Hương - Vài suy nghĩ về cạnh tranh
không lành mạnh và khơng bình đẳng trong hoạt động ngân hàng, Tạp chí thị
trường tài chính tiền tệ, số 10(355)/2012;
7. Nguyễn Đại Lai – Ngân hàng Việt Nam: Cạnh tranh không lành mạnh – Nhận
dạng và Đề xuất, Tạp chí Kinh tế và Dự báo;
8. Kiều Hữu Thiện – Cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và
những hệ quả đối với nền kinh tế - xã hội, Tạp chí Ngân hàng, số 9/2012;
9. Nguyễn Trọng Tài – Nguyên nhân và những hệ quả của tình trạng cạnh tranh
khơng lành mạnh trong hoạt động ngân hàng Việt Nam, Học viện Ngân hàng
Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 6(141)/2012.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài hướng tới các mục tiêu cơ bản sau đây:
Một là, nghiên cứu tổng quan về CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt
Nam được thể hiện thơng qua các khía cạnh như: khái niệm, đặc trưng của CTKLM
trong lĩnh vực ngân hàng; hệ quả của CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng đối với nền
kinh tế và sự cần thiết phải được điều chỉnh bằng pháp luật tại Việt Nam.
Hai là, nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề lý luận về pháp luật chống CTKLM
trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam như: phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
của pháp luật chống CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng; sự giải quyết mối quan hệ
chung - riêng giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật ngân hàng trong việc điều chỉnh

5


CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng; quy định của pháp luật về các hành vi CTKLM
trong lĩnh vực ngân hàng làm cơ sở để xác định, nhận diện các hành vi trên thực tế.
Ba là, nghiên cứu và phân tích thực trạng quy định của pháp luật cũng như
thực tiễn thực hiện pháp luật về CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng. Từ đó, chỉ ra được
những điểm bất cập cịn tồn tại, đề xuất các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật
với mục đích tạo ra một cơ sở pháp lý hoàn thiện làm nền tảng tốt cho việc thực hiện

pháp luật, bảo đảm sự an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, quyền lợi của các
chủ thể có liên quan, nâng cao năng lực cạnh tranh của các TCTD cũng như sự phát
triển của nền kinh tế vĩ mơ và lợi ích của tồn xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Về đối tượng nghiên cứu: Trong giới hạn nghiên cứu, Khóa luận tập trung vào
nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về CTKLM trong lĩnh vực ngân
hàng và những biểu hiện không lành mạnh trong hoạt động cạnh tranh của các TCTD
trên thực tế. Các văn bản quy phạm pháp luật được sử dụng chủ yếu trong quá trình
nghiên cứu là LCT 2018, Luật CTCTD 2010, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
năm 2010 (Luật số 46/2010/QH12) ngày 16 tháng 6 năm 2010 (Luật NHNNVN 2010)
và các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật có liên quan. Đồng thời,
trong giới hạn nghiên cứu, Khóa luận sẽ không đi sâu vào nghiên cứu tất cả các chủ
thể có tham gia vào hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng mà chỉ tập trung
nghiên cứu hoạt động cạnh tranh của các TCTD - chủ thể chính trong HĐNH.
Về phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu nghiên cứu các quan điểm khoa học,
những vấn đề lý luận và thực tiễn về CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam,
thơng qua các khía cạnh như nghiên cứu nội dung của pháp luật, thực trạng pháp luật
cũng như thực tiễn thực hiện pháp luật trong việc chống CTKLM trong lĩnh vực ngân
hàng tại Việt Nam.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Để đảm bảo được nội dung và mục đích nghiên cứu của đề tài, tác giả chủ yếu
sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh và phương pháp nghiên cứu thực tiễn, cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích được sử dụng nhằm mục đích xây dựng luận điểm cho
Khóa luận. Thơng qua phương pháp phân tích, Khóa luận đã tiến hành giải thích,
đánh giá các mặt của vấn đề, từ đó tổng hợp thành các luận điểm lớn để rút ra kết
6


luận. Phương pháp này được sử dụng rất phổ biến ở cả Chương 1 và Chương 2 của

Khóa luận.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng để liên kết, thống nhất các luận điểm đã
được phân tích nhằm đưa đến một kết luận chung có ý nghĩa cho việc chứng minh
Khóa luận. Phương pháp này được vận dụng chủ yếu ở phần kết luận của từng chương
và phần kết luận chung của tồn bộ Khố luận.
Phương pháp thống kê được sử dụng để tổng hợp các số liệu trong quá trình
đánh giá diễn biến CTKLM trên thị trường ngân hàng Việt Nam, sau đó dựa vào số
liệu mà chứng minh cho luận điểm. Phương pháp thống kê được sử dụng ở Chương
2 của Khóa luận.
Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh các quy định của pháp luật
trong việc điều chỉnh CTKLM của lĩnh vực ngân hàng. Trên cơ sở so sánh, tìm ra
những điểm tương đồng và khác biệt, từ đó thấy được những quy định nào cịn chưa
rõ ràng hay sự chồng chéo lẫn nhau giữa các quy định làm cơ sở để đề xuất giải pháp
hoàn thiện pháp luật. Bên cạnh đó, trong Khóa luận, phương pháp so sánh còn được
sử dụng để so sánh các quy định giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật thế giới với
mục đích làm rõ cách thức nhìn nhận, đánh giá CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng
của Việt Nam so với các quốc gia khác trên thế giới. Phương pháp so sánh được triển
khai chủ yếu ở Chương 1 của Khóa luận.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn là phương pháp quan trọng được sử dụng
để nghiên cứu thực trạng CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng, nghiên cứu thực tiễn
thực hiện pháp luật trong HĐNH. Từ đó, có thể thấy được tình hình pháp luật hiện
tại, diễn biến của CTKLM trên thị trường, đánh giá được những mặt tích cực, hạn chế
trong quá trình quy định và áp dụng pháp luật, làm cơ sở đưa ra các đề xuất hoàn
thiện pháp luật. Phương pháp này được vận dụng tại Chương 2 của Khóa luận.
6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Khố luận có bố cục gồm 02 chương với nội dung cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam.

7


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG TẠI
VIỆT NAM
1.1. Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt
Nam
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh khơng lành mạnh
Nếu nói kinh tế thị trường là thành quả quan trọng của sự phát triển lâu dài
trong nền văn minh nhân loại3 thì cạnh tranh chính là công cụ tạo ra những bước phát
triển nhảy vọt đó. Trải qua lịch sử phát triển của nền kinh tế, sản xuất hàng hoá tạo
tiền đề cho sự ra đời của cơ chế thị trường, từ đó cạnh tranh bắt đầu xuất hiện và trở
thành một nhân tố then chốt không thể thiếu của thị trường. Kết quả cạnh tranh sẽ xác
định vị thế, quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi tổ chức. Vì vậy, các
tổ chức đều cố gắng tìm cho mình một chiến lược phù hợp để chiến thắng trong cạnh
tranh4.
Vốn dĩ, cạnh tranh đúng nghĩa cho phép từng tổ chức hay cá nhân khẳng định
sự thành công và định vị phân khúc thị phần phù hợp với năng lực5. Nhưng khi bản
chất của cạnh tranh dần mất đi do sự vận hành sai lệch của một số chủ thể kinh doanh
nhằm đạt được những lợi ích lớn hơn mức thơng thường, nó lại trở thành cơng cụ để
đạt được lợi ích bất hợp pháp, trái với đạo đức kinh doanh, đưa đến những điều tiêu
cực cho xã hội. Do đó, để tạo ra một mơi trường pháp lý bình đẳng, cơng bằng, đảm
bảo sự tự do kinh doanh của tất cả các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh phải được pháp
luật điều chỉnh và có sự phân định rõ ràng giữa các hành vi cạnh tranh bình đẳng,
đúng pháp luật với các hành vi cạnh tranh trái đạo đức kinh doanh, trái pháp luật.
Trong khoa học pháp lý, người ta gọi hai nhóm hành vi đối lập này là cạnh tranh lành
mạnh và CTKLM.
Cho đến hiện nay, đã có rất nhiều nghiên cứu, hướng tiếp cận của các học giả,
nhà khoa học pháp lý và đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm CTKLM.


Xem Nguyễn Trọng Chuẩn, “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vấn đề con người – tiếp
cận từ mục tiêu và động lực của sự phát triển”, truy cập ngày 10/3/2023.
3

Nguyễn Trọng Tài (2008), “Cạnh tranh của các ngân hàng thương mại nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn tại
Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, số 3/2008.
4

Kiều Hữu Thiện (2012), “Cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống ngân hàng và những hệ quả đối với
nền kinh tế - xã hội”, Tạp chí ngân hàng, số 9/2012, tr. 14.
5

8


Dưới góc độ lý thuyết cạnh tranh, ở chừng mực nào đó, khi nhu cầu lợi nhuận thúc
giục và cám dỗ con người đến với những thủ đoạn thái quá trong cạnh tranh, thì các
hành vi cạnh tranh ấy trở thành nỗi ám ảnh và có thể gây ra nhiều hậu quả bất lợi
cho sự phát triển, xâm hại lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp khác, của người
tiêu dùng. Lý thuyết cạnh tranh gọi đó là những hành vi CTKLM6. Cách tiếp cận này
đã cho chúng ta thấy rõ mặt trái của cạnh tranh - dù cạnh tranh mang đến lợi ích cho
xã hội, nhưng suy cho cùng, cạnh tranh ra đời từ bản chất tham lam của con người.
Vì vậy, đến một mức độ nào đó, khi ham muốn giành giật lợi thế thị trường vượt cao
hơn nhận thức về đạo đức cạnh tranh, CTKLM - mặt tiêu cực của cạnh tranh sẽ xuất
hiện.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm CTKLM đã được ghi nhận và được phổ biến
rộng rãi từ lâu trong Công ước Paris về bảo hộ Quyền sở hữu công nghiệp: “bất cứ
hành động nào trái với tập quán trung thực trong công nghiệp và thương mại đều bị
coi là hành động CTKLM”7. Với hướng tiếp cận này của Cơng ước, CTKLM được

nhìn nhận ở phạm vi hẹp hơn, chỉ hướng đến các hành vi gian dối, không trung thực
trong hoạt động thương mại. Có thể thấy rõ khi so sánh với pháp luật Việt Nam, các
hành vi CTKLM được đưa ra bởi LCT 2018 có bao hàm nhiều hành vi khác ngồi
các hành vi gian dối trong hoạt động công nghiệp và thương mại, chẳng hạn như hành
vi xâm phạm bí mật kinh doanh; ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh
nghiệp khác; gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;...8. Những hành
vi này không chỉ dừng lại ở “tính gian dối” trong kinh doanh, mà cịn phức tạp và khó
xác định hơn nhiều. Chúng khơng chỉ tác động vào đối thủ cạnh tranh, khách hàng
mà còn tác động nhiều chủ thể khác có liên quan như đối tác của đối thủ, dư luận xã
hội,... miễn là chủ thể thực hiện hành vi đạt được mục tiêu lợi ích của mình. Mặt khác,
tiêu chí quan trọng để đánh giá tính khơng lành mạnh của cạnh tranh được Cơng ước
đưa ra là tính “trái với tập quán trung thực”. Dù định nghĩa này không xác định cụ
thể phạm vi CTKLM, tức không đưa rõ ra các dấu hiệu nhận diện chính xác, song nó
lại đưa ra một ngun tắc chung khi xây dựng pháp luật về cạnh tranh - các hành vi
trái với tập quán trung thực sẽ bị nghiêm cấm. Có quan điểm cho rằng, Điều 10bis đã
có ý bỏ ngỏ khái niệm này cho pháp luật quốc gia của các nước thành viên Công ước
tự định đoạt khi thể hiện tiêu chí này một cách khơng rõ ràng và không ổn định. Tùy

Trường Đại học Kinh tế - Luật (2010), Giáo trình Luật cạnh tranh, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia
Việt Nam, tr. 24.
6

7

Điều 10bis Công ước Paris 1883 về bảo hộ Quyền sở hữu công nghiệp.

8

Xem Điều 45 Luật Cạnh tranh năm 2018.
9



thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội và lịch sử, mỗi quốc gia sẽ có hướng tiếp
cận hoặc cách xác định khác nhau9. Và trên thực tế, khi nghiên cứu thực tiễn lập pháp
của các quốc gia thành viên Công ước, khái niệm CTKLM được đưa ra là khác nhau,
nhưng nhìn chung đều nhìn nhận nguyên tắc này với tư cách là một tiêu chí để đánh
giá tính khơng lành mạnh của cạnh tranh. Chẳng hạn, các thuật ngữ được sử dụng
như “thông lệ thương mại trung thực” (Bỉ và Luxembourg), “nguyên tắc thiện chí”
(Tây Ban Nha và Thuỵ Sỹ), “tính chuyên nghiệp đúng đắn” (Ý), “đạo đức kinh
doanh” (Đức, Hy Lạp và Ba Lan). Đối với các nước khơng có luật cụ thể để quy định,
các Toà án đã dùng nguồn án lệ để định nghĩa CTKLM bằng các cụm từ như “các
nguyên tắc giải quyết trung thực và công bằng” hoặc “đạo đức thị trường” (Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ)10.
Tại Việt Nam, định nghĩa CTKLM đã được đưa ra trong sự điều chỉnh của
pháp luật. Cụ thể, LCT 2018 đưa ra khái niệm về CTKLM như sau: "Hành vi CTKLM
là hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương
mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác"11. Với tư cách là quốc gia
thành viên của Công ước Paris, nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại
và các chuẩn mực khác trong kinh doanh cũng là tiêu chí mà các nhà lập pháp Việt
Nam sử dụng khi định nghĩa hành vi CTKLM. Đồng thời, xuất phát từ những quan
niệm mang tính nguyên tắc về đạo đức xã hội đã được ghi nhận trong pháp luật dân
sự, khái niệm CTKLM ra đời nhằm đề ra các nguyên tắc đảm bảo cho các chủ thể
trong giao dịch dân sự nói chung và các chủ thể kinh doanh trên thị trường nói riêng
tuân theo các chuẩn mực chung mang tính đạo đức của xã hội. Hay nói cách khác,
khái niệm CTKLM được pháp luật đưa ra xuất phát từ mục đích bảo vệ truyền thống
và các đạo đức kinh doanh tốt đẹp của quốc gia khỏi các hành vi cạnh tranh mang
tính chất đê hèn, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến toàn xã hội, gây ảnh hưởng
đến tương quan và hiệu quả cạnh tranh trên thị trường.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu CTKLM là những hành vi của các doanh

nghiệp trên thị trường, vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh, làm trái với các

Xem Tôn Thất Nhân Tước, “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động hành nghề luật sư”,
truy cập ngày
10/3/2023.
9

World Intellectual Property Organization (WIPO) (2004), WIPO Intellectual Property Handbook: Policy,
Law an Use, World Intellectual Property Organization, tr. 136.
10

11

Khoản 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2018.
10


nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong
kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến các doanh nghiệp khác.
1.1.2. Đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh
Xuất phát từ những tiêu chí được đưa ra trong khái niệm hành vi CTKLM mà
tác giả đã phân tích, có thể xác định một số đặc điểm cơ bản của hành vi CTKLM
như sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi CTKLM là doanh nghiệp. Thuật ngữ
“doanh nghiệp” theo quy định của pháp luật doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có
tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích kinh doanh12. Cịn trong phạm vi xác định của pháp luật về
cạnh tranh, khái niệm “doanh nghiệp” theo LCT 2018 được dùng để chỉ tất cả các tổ
chức, cá nhân kinh doanh, bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm,
dịch vụ cơng ích, hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước,

đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nước ngồi hoạt động tại Việt Nam13. Có
thể thấy rằng, khái niệm doanh nghiệp được hiểu và sử dụng ở pháp luật cạnh tranh
có phạm vi khá rộng và bao qt. Nó khơng chỉ bao gồm các chủ thể được gọi là
doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp như doanh nghiệp tư nhân và các loại cơng
ty, mà cịn bao gồm tất cả các loại chủ thể kinh doanh khác được phép tiến hành các
hoạt động kinh doanh ở Việt Nam, bao gồm hộ kinh doanh, hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã, cũng như các chủ thể kinh doanh khác có thể được pháp luật quy định trong
tương lai14. Với việc đưa ra nội hàm rộng cho khái niệm “doanh nghiệp”, pháp luật
cạnh tranh đã hướng tới việc kiểm soát một cách tối đa nhất các chủ thể thực hiện
kinh doanh trên thị trường. Bởi lẽ, mỗi một chủ thể tham gia vào hoạt động kinh
doanh dù là tổ chức hay cá nhân, mỗi một hành vi kinh doanh trên thị trường dù là vì
mục tiêu lợi nhuận hoặc những mục tiêu khác thì hành vi CTKLM đều có thể phát
sinh và gây ra rất nhiều vấn đề cho xã hội. Do vậy, việc can thiệp sâu hơn vào các
hoạt động kinh doanh của các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế giúp đảm bảo mọi
chủ thể khi tham gia vào hoạt động kinh doanh trên thị trường đều được xem xét tính

12

Khoản 10 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020.

13

Khoản 1 Điều 2 Luật Cạnh tranh năm 2018.

Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Pháp luật về cạnh tranh và giải quyết tranh chấp
thương mại, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 81, 82.
14

11



trung thực, phù hợp với các thông lệ, pháp luật và đạo đức kinh doanh, giúp kiểm
soát, ngăn chặn CTKLM làm ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia.
Thứ hai, tính chất của hành vi CTKLM là những hành vi khơng đẹp, trái với
ngun tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong
kinh doanh. Khi đề cập đến hành vi CTKLM người ta thường nhấn mạnh đến tính
“khơng lành mạnh” của hành vi cạnh tranh, tức là những hành vi trái với các chuẩn
mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ thương mại15. Theo cách tiếp cận của
LCT 2018, “không lành mạnh” là trái với các nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập
quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh. Cách tiếp cận này đã
mang tính cụ thể hơn so với tính chất “trái với các chuẩn mực thơng thường về đạo
đức kinh doanh” được đưa ra trong khái niệm CTKLM tại Khoản 4 Điều 3 LCT năm
2004 (Luật số 27/2004/QH11), ngày 04 tháng 12 năm 2004 (LCT 2004) trước đó.
Mặt khác, các tiêu chí được dùng để đánh giá tính “khơng lành mạnh” của cạnh tranh
có thể được nhìn nhận khác nhau ở từng quốc gia, song có thể hiểu là những quy tắc
xử sự chung được thừa nhận rộng rãi từ lâu, có tác dụng điều chỉnh, đánh giá và kiểm
soát hành vi của các chủ thể kinh doanh. Vậy nên, cạnh tranh “không lành mạnh”
không chỉ đơn thuần là cạnh tranh “bất hợp pháp”. Pháp luật không phải là thước đo
duy nhất để xác định “tính khơng lành mạnh” của cạnh tranh, mà rộng hơn là những
nguyên tắc, tập quán, chuẩn mực được hình thành, nhìn nhận qua một quá trình dài
phát triển của xã hội, phụ thuộc vào hoàn cảnh, lịch sử của xã hội. Bởi bề dày thực
tiễn của nó, đây là một đặc điểm mang tính khá trừu tượng khi muốn xác định bản
chất của hành vi CTKLM. Thông qua đặc điểm này, ta càng thấy rõ được rằng để xác
định được một hành vi có mang tính chất CTKLM hay khơng, bắt buộc phải dựa trên
những hiểu biết và nhận thức sâu rộng, có sự cẩn trọng, kỹ lưỡng khi xem xét và đánh
giá tính chất của hành vi. Đồng thời, vì “có thể có hành vi hơm nay được xem là
CTKLM, nhưng một thời gian sau lại có thể được chấp nhận, và ngược lại”16 nên địi
hỏi pháp luật phải ln đi sát với thực tế, phản ứng kịp thời với các thủ đoạn mới
không ngừng được “sáng tạo” của các hành vi CTKLM trong thực tế cạnh tranh trên
thị trường.

Thứ ba, mục đích của hành vi CTKLM là nhằm đạt được những lợi thế nhất
định trong kinh doanh. Chúng ta đều nhìn nhận được rằng, cạnh tranh là một quy luật
Tạ Thu Hằng (2015), Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại theo pháp luật
Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 11.
15

Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Pháp luật về cạnh tranh và giải quyết tranh chấp
thương mại, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 73.
16

12


tất yếu của thị trường, quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi một chủ thể kinh
doanh. Dưới sức ép của nền kinh tế thị trường, nếu một doanh nghiệp khơng có đủ
năng lực để cạnh tranh, doanh nghiệp đó sẽ bị loại bỏ ra khỏi thị trường, nhường chỗ
cho những doanh nghiệp mạnh hơn. Nền kinh tế sẽ khơng thể phát triển nếu thiếu đi
cạnh tranh, vì cạnh tranh là “động lực” cho sự phấn đấu không ngừng của mỗi chủ
thể kinh doanh. Vì vậy, suy cho cùng, mục đích của cạnh tranh là nhằm đạt được
những lợi thế để tồn tại trong kinh doanh. Ở đây, “lợi thế” khơng đồng nghĩa với “lợi
nhuận”, vì đơi khi các chủ thể cạnh tranh có thể sẵn sàng “hy sinh lợi nhuận” để đạt
được “lợi thế” cạnh tranh. Và về ngun tắc, cạnh tranh vì mục đích trong kinh doanh
là quyền của mỗi doanh nghiệp, nhưng pháp luật có quyền can thiệp nếu mục đích đó
làm sai lệch đi nhận thức về pháp luật và đạo đức của các doanh nghiệp thực hiện
hành vi, gây ra các hành vi CTKLM, dẫn đến những tác động tiêu cực cho thị trường.
Thứ tư, hậu quả của hành vi CTKLM là gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác. Theo khái niệm “CTKLM” đã
được phân tích, đối tượng chịu tác động bởi các hành vi CTKLM là quyền và lợi ích
hợp pháp của các doanh nghiệp khác, mà trước hết là doanh nghiệp cạnh tranh với
doanh nghiệp thực hiện hành vi. Đồng thời, nội hàm của cụm từ “doanh nghiệp khác”

cũng không loại trừ các doanh nghiệp không cạnh tranh với doanh nghiệp thực hiện
hành vi nhưng phải chịu sự tác động và gánh chịu thiệt hại hoặc có thể bị thiệt hại bởi
hành vi. Những doanh nghiệp này có thể là đối tác kinh doanh, doanh nghiệp cung
ứng hàng hoá, dịch vụ hay doanh nghiệp sử dụng hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp
cạnh tranh hoặc bất kỳ doanh nghiệp nào khác17. Ở đây, LCT 2018 đã lược bỏ hai đối
tượng là Nhà nước và người tiêu dùng khỏi diện các chủ thể bị tác động bởi hành vi
CTKLM so với quy định của LCT 2004 trước đó18. Vấn đề này có thể được lý giải
rằng, việc đưa đối tượng là Nhà nước vào nhóm các đối tượng bị tác động bởi
CTKLM là q rộng, khơng cần thiết bởi vì vấn đề này chỉ được đặt ra trong bối cảnh
nền kinh tế mà Nhà nước tham gia sâu rộng vào hoạt động kinh doanh và cạnh tranh
trực tiếp với các thành phần kinh tế còn lại trên thị trường. Bối cảnh này có thể phù
hợp vào thời điểm LCT 2004 có hiệu lực, nhưng với thực tiễn cải cách và tư duy hiện
đại trong quản lý nền kinh tế hiện nay thì đã khơng cịn phù hợp. Cịn đối với đối
tượng người tiêu dùng, quyền lợi của người tiêu dùng đã có pháp luật về bảo vệ quyền
17

Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2018), tlđd (14), tr. 84.

Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định rằng: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành
vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức
kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”.
18

13


lợi người tiêu dùng điều chỉnh. Việc quy định quyền lợi của người tiêu dùng vào diện
chịu sự tác động của CTKLM không phản ánh đúng bản chất của hành vi. Bởi lẽ, suy
cho cùng mục đích của CTKLM là nhằm gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh, chứ

không phải nhắm đến người tiêu dùng. Mặt khác, hậu quả mà hành vi CTKLM là
“gây thiệt hại” hoặc “có thể gây thiệt hại”, tức đó có thể là thiệt hại đã hiện hữu trên
thực tế nhưng cũng có thể là nguy cơ xảy ra thiệt hại – có căn cứ chắc chắn rằng thiệt
hại sẽ xảy ra nếu không ngăn chặn từ trước. Theo quan điểm của tác giả, đây là một
quy định hoàn toàn hợp lý, bởi trên thực tế, có những vụ việc nếu đợi có thiệt hại xảy
ra mới xác định hành vi CTKLM, thì có thể doanh nghiệp bị tác động đã khơng cịn
đủ năng lực kinh doanh để có thể chống chịu được nữa. Với bản chất nguy hiểm, biến
tấu khơn lường, khó xác định, CTKLM cần phải được phát hiện và xử lý kịp thời
ngay khi có các dấu hiệu chứng minh nó có khả năng gây ra thiệt hại hiện hữu cho
các chủ thể kinh doanh khác trên thị trường nếu không được ngăn chặn.
1.1.3. Khái quát về hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam
Qua thực tiễn kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng,
không thể phủ nhận rằng sự ra đời của ngành ngân hàng là một bước tiến vĩ đại của
lịch sử nhân loại. Sự ổn định và phát triển của hệ thống ngân hàng và các TCTD là
một phần không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường như hiện nay. Trải qua một thời
gian phát triển, đổi mới không ngừng để phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của
từng thời kỳ, lĩnh vực ngân hàng và đang từng bước hồn thiện để phát huy tốt nhất
vai trị tích cực của mình đối với nền kinh tế.
Theo quy định của Luật CTCTD năm 1997 (Luật số 07/1997/QH10), ngày 12
tháng 12 năm 1997 (Luật CTCTD 1997), ngân hàng được hiểu là doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi có kỳ hạn,
khơng kỳ hạn để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán. Một câu hỏi được đặt
ra là, nếu nền kinh tế khơng có sự tồn tại của HĐNH thì có thể phát triển như bình
thường được không? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta hình dung rằng ở nền kinh
tế hiện tại, hệ thống ngân hàng đang đứng giữa các chủ thể thiếu vốn và các chủ thể
thừa vốn. Lúc này, chúng sẽ có vai trị trung gian trong việc giúp cho cung vốn và cầu
vốn có thể gặp nhau, truyền dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Nói cụ thể hơn, khi
một chủ thể có một khoản tiền nhàn rỗi cần tiết kiệm, thay vì mang số vốn này cất đi,
họ sẽ tìm đến ngân hàng để gửi tiền, cho ngân hàng vay và nhận lại một khoản tiền
lãi sau một thời hạn nhất định. Những nguồn vốn được gửi vào các TCTD sẽ được

đưa đến cho những chủ thể có nhu cầu vay vốn, giúp vốn được quay vòng, tạo ra lợi
nhuận, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn đạt được mức cao nhất. Như vậy, với vai trò là
14


một trung gian tài chính, hệ thống ngân hàng chính là những tổ chức có khả năng huy
động và cung cấp vốn một cách nhanh, an toàn và hiệu quả nhất. Hiện nay, trong nền
kinh tế đã xuất hiện thêm nhiều hình thức trung gian tài chính khác như quỹ tín dụng,
cơng ty bảo hiểm, quỹ đầu tư tương hỗ,... Đồng thời, cùng với sự phát triển và hoàn
thiện của hệ thống ngân hàng để phù hợp với sự phát triển và đổi mới không ngừng
của nền kinh tế thị trường, ngồi hoạt động huy động vốn và cấp tín dụng - vay vốn
và cho vay vốn, hệ thống ngân hàng còn thực hiện nhiều các nghiệp vụ khác như cung
cấp dịch vụ thanh tốn qua ngân hàng, bn bán ngoại tệ,... Song, với bản chất và vai
trị khơng thay đổi, hệ thống ngân hàng chính là điểm tựa của nền kinh tế, giúp điều
tiết vốn, thúc đẩy đầu tư, đảm bảo sự ổn định và hiệu quả kinh doanh của các thành
phần kinh tế. Rõ ràng, cũng như cạnh tranh, hoạt động của hệ thống ngân hàng là một
yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường.
Để có cái nhìn sâu sắc hơn về hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, tác giả xin
đưa ra một số đặc điểm của HĐNH như sau:
Thứ nhất, chủ thể tham gia vào hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng là chủ thể
đặc biệt.
Khác với các chủ thể kinh doanh khác trên thị trường, chủ thể tham gia vào
HĐNH là các TCTD, trong đó chủ yếu là các ngân hàng thương mại. Sở dĩ nói đây là
các chủ thể đặc biệt bởi vì nếu sự tham gia vào thị trường đối với các chủ thể kinh
doanh khác là tự do thì đối với các TCTD, sự tham gia này sẽ bị giới hạn cả về mặt
số lượng lẫn chất lượng. Đồng thời, việc rút khỏi thị trường ngành này không phụ
thuộc hồn tồn vào ý chí của các TCTD mà cịn chịu sự chi phối mạnh mẽ của các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Để thực tham gia vào thị trường ngân hàng, các
TCTD phải đáp ứng rất nhiều điều kiện. Sự kiểm soát của Nhà nước đối với lĩnh vực
này nhằm hạn chế tối đa các rủi ro có thể gặp phải từ hoạt động kinh doanh yếu kém,

không trung thực và đặc biệt là CTKLM của các TCTD trên thị trường. Bởi lẽ, ngân
hàng là nơi giữ tiền của dân chúng, HĐNH là cơng cụ thực hiện chính sách tiền tệ
quan trọng của quốc gia nên việc bảo vệ chặt chẽ hoạt động và môi trường cạnh tranh
của các TCTD trong lĩnh vực này là vấn đề đặc biệt cần thiết.
Thứ hai, hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng có đối tượng kinh doanh đặc
biệt, chịu sự điều chỉnh của Nhà nước.
Luật CTCTD 2010 định nghĩa HĐNH là việc kinh doanh, cung ứng thường
xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ: nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ
15


thanh tốn qua tài khoản19. Theo đó, đặc trưng cơ bản và quan trọng nhất mà chỉ có
ở hệ thống ngân hàng đó là có đối tượng kinh doanh là tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.
Sở dĩ đây là điểm khác biệt cơ bản giữa lĩnh vực ngân hàng và các lĩnh vực kinh
doanh khác bởi lẽ tiền tệ là một loại hàng hố đặc biệt, là cơng cụ để đo lường và biểu
hiện giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác. Tiền tệ được xã hội chọn làm vật ngang
giá và là phương tiện trung gian để trao đổi qua lại giữa cung và cầu, có giá trị cao và
giá trị sử dụng đa dạng với những chức năng mà khơng loại hàng hố nào có được.
Sự đặc biệt của tiền tệ đã tạo nên sự khác biệt về đối tượng kinh doanh của lĩnh vực
ngân hàng. Chính vì lẽ đó, dù được khuyến khích phát triển nhưng đặc thù của ngành
ngân hàng đã buộc Nhà nước phải có sự kiểm sốt chặt chẽ hơn để hạn chế thấp nhất
những mặt trái có thể xảy ra của việc kinh doanh tiền tệ. Như vậy, tuy vẫn mang các
đặc điểm của hoạt động kinh doanh thông thường, nhưng xuất phát từ đối tượng kinh
doanh đặc biệt của mình, HĐNH buộc phải chịu sự điều chỉnh chặt chẽ hơn của Nhà
nước - cụ thể là NHNNVN, hay còn gọi là Ngân hàng Trung ương.
Thứ ba, hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng một hoạt động có tính rủi ro cực
kỳ cao.
Như đặc điểm đã phân tích ở trên, đối tượng kinh doanh trực tiếp của hệ thống
ngân hàng là tiền tệ. Với vai trò là tổ chức kinh doanh tiền tệ, hệ thống ngân hàng
Việt Nam bao gồm NHNNVN và các TCTD là các tổ chức duy nhất được kinh doanh

tiền tệ và là nơi huy động vốn hiệu quả nhất trong nền kinh tế. Ngoài ra, đồng tiền
cũng chính là yếu tố thiết lập nên các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng. Vì
mọi hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng đều xoay quanh tiền tệ nên hệ
thống ngân hàng chính là cơng cụ để Nhà nước kiểm soát đồng tiền, kiểm soát lạm
phát, điều hành các chính sách tiền tệ, giúp ổn định nền kinh tế vĩ mơ. Song, vì sự
chuyển dịch của dòng tiền chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau trên thị
trường nên dù được kiểm soát, quản lý chặt chẽ bởi Nhà nước, tiền tệ vẫn là một loại
hàng hố có tính rủi ro cao. Vì vậy, rủi ro tiền tệ là một đặc điểm vốn có của ngành
ngân hàng, bao gồm cả những rủi ro khơng thể dự đốn, ngăn chặn trước được. Khơng
những vậy, lĩnh vực ngân hàng cũng chính là nơi gánh chịu hầu hết những rủi ro trong
nền kinh tế. Chẳng hạn, khi một doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để kinh doanh
nhưng thua lỗ, phá sản và mất khả năng thanh toán, Ngân hàng sẽ đối mặt với rủi ro.
Hoặc để đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp khi vay tiền cần

19

Khoản 12 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.
16


một thời hạn dài để trả nợ, điều này làm gia tăng mức độ rủi ro khi cho vay tiền vì
càng để lâu, mức độ đảm bảo càng giảm.
Tính rủi ro cao của hoạt động trong HĐNH không chỉ xuất phát từ chính q
trình kinh doanh của các TCTD trong hệ thống ngân hàng, mà nó cịn bị ảnh hưởng
bởi các biến động khác trong nền kinh tế. Chẳng hạn, lạm phát làm mất giá trị đồng
tiền sẽ làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng, việc thay đổi các chính sách của
Nhà nước tác động theo hướng tiêu cực lên ngành ngân hàng, hay niềm tin của người
gửi tiền vào hệ thống ngân hàng bị suy giảm,... Như vậy, được ví như là “mạch máu
chủ” của nền kinh tế, đảm nhiệm trọng trách điều tiết nền tài chính của quốc gia, điều
hoà vốn của nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng chính là lĩnh vực có tính rủi ro cao nhất

trong tất cả các lĩnh vực kinh doanh. Mặc dù pháp luật có rất nhiều cơ chế để ngăn
ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng như quy định các biện pháp bảo đảm khi vay,
song tính rủi ro vẫn là một đặc trưng cơ bản của lĩnh vực ngân hàng, chỉ có thể làm
giảm đi chứ khơng thể loại bỏ hoàn toàn được.
Thứ tư, hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng có tính nhạy cảm và phản ứng dây
chuyền.
Trước hết cần phải khẳng định rằng trong tất cả các loại rủi ro của nền kinh tế,
có lẽ rủi ro của hệ thống ngân hàng là loại rủi ro nguy hiểm và dễ thấy nhất. Hệ thống
tài chính chính là nơi chống đỡ các cú sốc tiềm ẩn của nền kinh tế, nhưng cũng là sức
nặng đè lên nền kinh tế nếu có vấn đề xảy ra. Sở dĩ có sự tác động hai chiều như vậy
là vì khác với các lĩnh vực kinh doanh còn lại của nền kinh tế, các chủ thể trong lĩnh
vực ngân hàng khơng hoạt động hồn tồn độc lập vì đối tượng kinh doanh đặc biệt
của mình. Kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực hết sức nhạy cảm, chịu tác động bởi rất nhiều
nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền thống, văn hóa,… mỗi một nhân
tố này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng có tác động rất nhanh chóng và mạnh mẽ
đến mơi trường kinh doanh chung20. Nếu có rủi ro trong hoạt động tín dụng, dù rủi ro
chỉ xảy ra ở một TCTD nhưng nó sẽ gây ra phản ứng dây chuyền và đe dọa đến tính
an tồn của cả hệ thống ngân hàng nếu như không được Nhà nước can thiệp kịp thời.
Cụ thể hơn, ta xét mức độ nhạy cảm và khả năng ảnh hưởng của lĩnh vực ngân hàng
sau:

Đoàn Hồng Vân (2009), Phân tích cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh
tế, chuyên ngành Kinh tế tài chính – Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, tr. 8.
20

17


Xét trong mối quan hệ của một TCTD đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng: Hệ
thống ngân hàng Việt Nam hiện hành được hợp thành bởi NHNNVN và các TCTD21.

Dưới sự quản lý và kiểm soát của NHNNVN, các TCTD tùy theo từng loại hình được
quy định phạm vi hoạt động bởi Nhà nước, có mối quan hệ mắc xích với nhau. Nhìn
lại các cuộc khủng hoảng ngân hàng trên thế giới, tất cả đều chỉ ra rằng, với mối liên
hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các TCTD, lĩnh vực ngân hàng là lĩnh vực chịu các cú sốc
tài chính với cường độ, phạm vi lan truyền và mức độ hiểm họa của rủi ro nặng nề
nhất. Đối với các ngân hàng, mối liên hệ trực tiếp này thể hiện thông qua: các khoản
tiền gửi, tiền vay, các giao dịch thanh toán trên hệ thống, đồng thời gián tiếp liên hệ
với nhau thông qua chức năng phục vụ thị trường tiền gửi hoặc tiền vay. Do vậy, khi
mức độ thua lỗ tại một ngân hàng đủ lớn sẽ dẫn đến mất khả năng thanh khoản và tạo
ra cú sốc cho các ngân hàng khác theo hiệu ứng dây chuyền22.
Xét trong mối quan hệ của hệ thống ngân hàng đối với các chủ thể kinh doanh
khác của nền kinh tế: Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng thường tồn
tại trong với vai trò là trung gian tài chính - bên thứ ba cung cấp vốn qua lại cho các
chủ thể thừa và thiếu vốn, tạo ra hiệu quả quay vòng vốn. Điều này đồng nghĩa với
việc, trong quan hệ cung vốn - cầu vốn, hệ thống ngân hàng phải chịu rủi ro nếu chủ
thể vay vốn của ngân hàng đối mặt với khó khăn tài chính hoặc mất khả năng chi trả.
Hình dung một cách cụ thể hơn, khi một doanh nghiệp thông thường phá sản, tác
động chủ yếu thường nằm trong phạm vi doanh nghiệp. Không thể phủ nhận rằng nó
cũng có thể gây ra những hậu quả tiêu cực nhất định về mặt xã hội (làm tăng tỷ lệ
người thất nghiệp, gián tiếp làm gia tăng tệ nạn xã hội,...). Song, điều này còn phụ
thuộc nhiều vào quy mô, thị phần, tầm quan trọng của doanh nghiệp trong nền kinh
tế. Nhưng khi một TCTD phá sản, mức độ ảnh hưởng của nó sẽ lan ra với tốc độ
nhanh và gây ra những hệ lụy nghiêm trọng cho tình hình kinh tế - xã hội.. Vì vốn mà
các TCTD sử dụng để cho vay chủ yếu là vốn huy động từ tiền gửi, nên trong trường
hợp nợ xấu q nhiều, các TCTD sẽ khơng có đủ vốn để trả cho người gửi tiền. Như
vậy, khi rủi ro xảy ra, tổn thất sẽ “chạy dần” từ lợi nhuận thu được đến vốn tự có của
các TCTD, và sau cùng là gây hại đến nguồn vốn của người gửi tiền. Không những
vậy, hệ thống ngân hàng rủi ro cũng sẽ gây ra các tác động tiêu cực cho các chủ thể
vay vốn, đặc biệt là những dự án vay vốn có lợi nhuận thấp, dễ thua lỗ nếu lãi suất
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật ngân hàng, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội

Luật gia Việt Nam, tr. 32.
21

“Rủi ro hệ thống trong hoạt động kinh doanh ngân hàng ở các giai đoạn khủng hoảng”,
truy cập ngày 11/3/2023.
22

18


×