Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Nguyên tắc “khi xét xử, thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong nhà nước pháp quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 107 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***-----------

NGUYỄN PHÚC ANH
MSSV: 1953801013009

NGUYÊN TẮC “KHI XÉT XỬ, THẨM PHÁN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN
THEO PHÁP LUẬT” TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật
Niên khóa: 2019 – 2023

Người hướng dẫn:
ThS. Lê Thị Thu Thảo

TP.HCM – NĂM 2023


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật với đề tài: Nguyên tắc
“Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong Nhà nước pháp quyền
là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện với sự hướng dẫn của ThS. Lê Thị Thu
Thảo. Khóa luận có sử dụng, trích dẫn, tham khảo ý kiến, quan điểm khoa học của một
số tác giả. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Khóa luận là hoàn toàn khách quan,
trung thực và có chọn lọc. Những thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể và
chính xác.
Tôi xin chịu toàn bộ trách nhiệm về lời cam đoan này.
Người cam đoan

NGUYỄN PHÚC ANH




DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Số thứ
tự

Tên viết tắt

1

Hiến pháp 1946

2

Hiến pháp 1959

3

Hiến pháp 1980

4

Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung
2001)

5

Hiến pháp 2013

6


BLTTHS

7

BLTTDS

8

Luật TTHC

9

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
Trung Quốc 2018

10

Luật Thẩm phán Trung Quốc 2019

11

Nghị quyết số 27-NQ/TW

12

Nghị quyết số 730/2004/NQUBTVQH11

13


Thông tư số 02/2017/TT-BNV

Tên đầy đủ
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa năm 1946
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa năm 1959
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam 1980
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam 1992 (sửa đổi,
bổ sung 2001)
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam 2013
Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (sửa
đổi, bổ sung 2021)
Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 (sửa
đổi, bổ sung 2019)
Luật Tố tụng Hành chính 2015 (sửa
đổi, bổ sung 2019)
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa 2018
Luật của Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa về Thẩm phán 2019
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09
tháng 11 năm 2022 Về tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong giai đoạn mới.
Nghị quyết số 730/2004/NQUBTVQH11 ngày 30 tháng 09 năm

2004 về việc phê chuẩn bảng lương
chức vụ, bảng phụ cấp chức vụ đối
với cán bộ lãnh đạo của nhà nước;
bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ
ngành Tòa án, ngành Kiểm sát.
Thông tư số 02/2017/TT-BNV ngày
12 tháng 05 năm 2017 hướng dẫn
thực hiện mức lương cơ sở đối với
các đối tượng hưởng lương, phụ cấp
trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp
công lập của Đảng, Nhà nước, Tổ
chức chính trị – xã hội và Hội.


14

15

Quyết định số 171/2005/QĐ-TTg

Nghị định số 24/2023/NĐ-CP

Quyết định số 171/2005/QĐ-TTg
ngày 08 tháng 07 năm 2005 quy định
về chế độ phụ cấp trách nhiệm đối
với Thẩm phán, Thư ký Tòa án và
Thẩm tra viên ngành Tòa án.
Nghị định số 24/2023/NĐ-CP ngày
14 tháng 05 năm 2023 quy định mức
lương cơ sở đối với cán bộ, công

chức, viên chức và lực lượng vũ
trang.


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC “KHI XÉT XỬ, THẨM
PHÁN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT” TRONG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN .............................................................................................................. 5
1.1. Lý luận chung về nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật”… ...................................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” ................................................................................................................ 5
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” ở Việt Nam ..................................................... 8
1.1.3. Nội dung của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” .............................................................................................................. 12
1.2.

Lý luận chung về Nhà nước pháp quyền .................................................... 21

1.2.1.

Khái niệm Nhà nước pháp quyền ............................................................. 21

1.2.2.

Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền ...................................................... 21

1.3. Mối liên hệ giữa nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật” với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền .................................. 24
1.3.1. Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là yêu cầu đầu tiên
và cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ............................................. 24
1.3.2. Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo tính
tối thượng của Hiến pháp và pháp luật ................................................................. 24
1.3.3. Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo sự cân
bằng và kiểm soát quyền lực nhà nước .................................................................. 26
1.3.4. Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo quyền
con người ............................................................................................................... 26
1.3.5. Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong ba trọng
tâm của chiến lược tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới .............................................................. 27
1.4. Các quy định của pháp luật Việt Nam nhằm đảm bảo thực hiện nguyên
tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong Nhà nước
pháp quyền ............................................................................................................... 27
1.5. Nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán theo
pháp luật của một số nước trên thế giới ................................................................ 34
1.5.1.

Theo pháp luật Hoa Kỳ ............................................................................ 35

1.5.2.

Theo pháp luật Pháp ................................................................................ 41

1.5.3.

Theo pháp luật Trung Quốc ..................................................................... 44



CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC “KHI XÉT XỬ, THẨM PHÁN ĐỘC
LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT” TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
...................................................................................................................................... 55
2.1. Những bất cập về pháp luật và thực tiễn áp dụng của nguyên tắc “Khi xét
xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” ........................................... 55
2.1.1.

Bất cập về pháp luật ................................................................................. 55

2.1.2.

Bất cập về thực tiễn áp dụng .................................................................... 68

2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc “Khi xét
xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong Nhà nước pháp
quyền… .................................................................................................................... 76
2.2.1.

Các kiến nghị về pháp luật ....................................................................... 76

2.2.2.

Các kiến nghị về thực tiễn áp dụng .......................................................... 88

TỔNG KẾT ................................................................................................................. 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bộ máy nhà nước Việt Nam, Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp
– một trong ba nhánh quyền lực nhà nước. Bằng hoạt động xét xử của mình, Tòa án
được xây dựng là thiết chế bảo vệ công lý, duy trì trật tự pháp lý, đảm bảo thực thi
trên thực tế các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần ổn định và mang
lại công bằng cho xã hội. Để thực hiện được nhiệm vụ này, điều kiện tiên quyết là
Tòa án phải độc lập. Chính vì lẽ đó mà Thẩm phán, đại diện cho Tòa án, hóa thân của
quyền lực tư pháp phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Điều này đã
được pháp luật quy định là một nguyên tắc cơ bản trong xuyên suốt quá trình thực
hiện chức năng xét xử của Tòa án. Nguyên tắc Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật cho thấy được tầm quan trọng của nó khi lần đầu tiên được ghi nhận trong
Hiến pháp 1946 – bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam và sau đó được kế
thừa trong các bản Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và gần đây nhất
là Hiến pháp 2013. Và không chỉ được ghi nhận trong Hiến pháp, nguyên tắc này còn
được các nhà làm luật cụ thể hóa trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và các văn bản
pháp luật tố tụng chuyên ngành như: Luật Tố tụng hành chính, Bộ luật Tố tụng Hình
sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự như một lời khẳng định về tầm quan trọng không thể thiếu
của nguyên tắc này.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật, là nhà nước mà trong đó mọi chủ thể (kể cả Nhà nước) đều tuân thủ nghiêm
chỉnh pháp luật, được pháp luật bảo vệ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền đang có xu
hướng trở thành quy luật của mọi Nhà nước. Và quyền tư pháp là một trong những
nội dung quan trọng để đảm bảo tổ chức, xây dựng một Nhà nước pháp quyền, vì tư
pháp có vai trò đảm bảo thực hiện tất cả đặc trưng của Nhà nước pháp quyền ở những
mức độ khác nhau. Hiệu quả, hiệu lực của tư pháp là một trong những tiêu chí quan
trọng để đánh giá mức độ thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Cùng
với việc khẳng định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước

pháp quyền từ Hiến pháp năm 1992, sửa đổi năm 2001 đến nay, Việt Nam đã và đang
tiến vào giai đoạn cải cách tư pháp. Trong đó, hàng loạt Nghị quyết của Bộ Chính trị
về tư pháp ra đời như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về “Một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 24 tháng 05 năm 2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02 tháng 06 năm 2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Các Nghị quyết
nêu trên đều có cùng một điểm chung là nhấn mạnh đến sự độc lập của Tòa án, của
Thẩm phán khi xét xử. Việc triển khai thực thi các Nghị quyết được đề ra đã giúp nền
tư pháp nước ta có một bước tiến dài trong việc bảo vệ công lý, làm thay đổi bộ mặt
hệ thống tư pháp, đảm bảo sự độc lập của Tòa án, Thẩm phán. Nổi bật trong số đó
phải kể đến Nghị quyết số 49-NQ/TW. Trong thời kỳ thực hiện Nghị quyết 49, Nhà
nước ta đã có sự thay đổi, quán triệt, cải tiến hơn trong các quy định pháp luật liên
quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án, Thẩm phán, từ đó giúp nâng cao hơn sự
độc lập xét xử. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng, qua 15 năm thực hiện Nghị quyết
49, những vấn đề ảnh hưởng đến sự độc lập của Thẩm phán được xử lý chỉ là “bề nổi
của tảng băng chìm”, vẫn còn rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự độc lập của Thẩm


2

phán chưa được giải quyết triệt để. Nhận thức được vấn đề đó, ngày 09/11/2022, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong giai đoạn mới với một trong ba trọng tâm là “Đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo
đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật”, đồng thời đề ra các nhiệm vụ và giải pháp thực hiện.
Có thể thấy sự ra đời của Nghị quyết 27-NQ/TW tiếp tục là lời khẳng định của Đảng,
Nhà nước về mối liên hệ mật thiết giữa việc đảm bảo nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm
phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền,

cũng như là lời nhấn mạnh về tầm quan trọng của nguyên tắc này.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” trong Nhà nước pháp quyền làm Khóa luận tốt nghiệp để thông
qua đề tài này, tác giả muốn làm rõ mối liên hệ giữa nguyên tắc với việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền; thực trạng, nguyên nhân khiến nguyên tắc này khó có thể thực
thi trên thực tế, từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị để khắc phục thực trạng trên,
góp phần vào công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
theo Nghị quyết 27-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương đề ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài: Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
với tính quan trọng và thời sự của mình nên đã được bàn luận trong rất nhiều công
trình nghiên cứu khoa học, Khóa luận tốt nghiệp, Luận văn thạc sĩ, Luận án tiến sĩ
cho đến những bài viết trong các tạp chí pháp lý, sách chuyên khảo,…
Có thể kể đến như:
-

-

-

-

-

-

Nguyễn Thị Dung (2013), Nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa
án nhân dân – Thực trạng và kiến nghị, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thảo Linh (2016), Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong Tố tụng hành chính, Khóa luận tốt nghiệp
Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Kiều Diễm (2016), Sự độc lập của Tòa án nhân dân theo quy định
của pháp luật hiện hành, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật, Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Đỗ Hoàng Anh (2018), Nguyên tắc độc lập của Tòa án: Thực trạng và kiến
nghị, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh.
Tô Văn Hòa (2007), Tính độc lập của Tòa án – Nghiên cứu Pháp lý về các
khía cạnh Lý luận, Thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối
với Việt Nam, Hà Nội.
Nguyễn Đăng Dung (2011), Tòa án Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà
nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Lưu Tiến Dũng (2012), Độc lập xét xử trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
Đặng Hà Phương (2007), “Tòa hành chính xét xử độc lập nhìn từ vụ việc cụ
thể”, Tạp chí Nghề luật, (24).


3

-

-

-

Trần Duy Bình (2012), “Thực tiễn và một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực
hiện nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (11).

Nguyễn Quang Hiền (2012), “Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật – Thực tiễn và kiến nghị”, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, (23).
Đinh Thanh Phương (2012), “Nguyên tắc độc lập trong hoạt động của Tòa án
nhân dân”, Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần Thơ.
Nguyễn Sơn Hà (2013), “Những điều kiện đảm bảo cho Thẩm phán xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (11).

Các công trình nghiên cứu trên nhìn chung đã khái quát được sơ lược về nguyên
tắc này ở nhiều khía cạnh và mức độ khác nhau, cũng đã phân tích được thực trạng,
nguyên nhân ảnh hưởng đến nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của
Thẩm phán, đồng thời đưa ra được một số kiến nghị để giải quyết. Tuy nhiên, tác giả
nhận thấy một điều rằng, các công trình được liệt kê đã có sự nghiên cứu, phân tích
đồng thời về nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của cả Thẩm phán và Hội
thẩm, thậm chí nghiên cứu ở phạm vi rộng hơn nữa là về nguyên tắc độc lập của cả
hệ thống Tòa án chứ chưa tập trung chuyên sâu về Thẩm phán. Ngoài ra, cũng không
có một công trình nghiên cứu nào phân tích cụ thể về mối liên hệ giữa nguyên tắc với
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Bên cạnh đó, cũng có nhiều công trình nghiên
cứu đã ra đời từ rất lâu, trước cả khi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân hiện hành (Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân 2014) ra đời, chính vì thế mà một số bất cập được các tác
giả liệt kê thì hiện tại đã được khắc phục trong Luật Tổ chức Tòa án mới và các văn
bản pháp luật khác. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay khi Nghị quyết số 27/NQ-TW
của Đảng mới được ban hành có những nội dung đột phá về tư duy, cách thức xây
dựng Nhà nước pháp quyền trong giai đoạn mới. Từ đó, việc nghiên cứu về nguyên
tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” gắn với việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền cần tiếp tục được đặt ra và hoàn thiện. Chính vì thế, mặc dù đề
tài nghiên cứu của tác giả không phải là mới, nhưng trong phạm vi đề tài này, tác giả
sẽ tập trung nghiên cứu chuyên sâu hơn về nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân theo
pháp luật của Thẩm phán, phân tích cụ thể những nội dung mới liên quan đến thực
trạng của nguyên tắc này trên thực tế, những bất cập, nguyên nhân và đề xuất giải

pháp khắc phục, đồng thời sẽ phân tích và làm rõ mối liên hệ giữa nguyên tắc này với
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhất là trong bối
cảnh Nghị quyết số 27 – NQ/TW của Đảng vừa được ban hành và triển khai thực thi
cách đây không lâu.
3. Mục đích nghiên cứu
Tác giả chọn đề tài này nhằm phân tích sâu hơn các nội dung chủ yếu của nguyên
tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong Nhà nước pháp
quyền như: Lý luận chung về nguyên tắc, mối liên hệ giữa nguyên tắc với việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền; thực trạng các quy định của pháp luật tác động đến
nguyên tắc, một số vấn đề bất cập liên quan đến nguyên tắc, thực tiễn áp dụng nguyên
tắc này trên thực tế. Trên cơ sở các phân tích, đánh giá khách quan, tác giả đưa ra các
giải pháp, kiến nghị bảo đảm cho nguyên tắc này được thực hiện có hiệu quả.


4

4. Phạm vi nghiên cứu
Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là
nguyên tắc chung cho hoạt động xét xử của Tòa án, được ghi nhận trong Hiến pháp,
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật tố
tụng. Vì đây là nguyên tắc chung, thêm vào đó Thẩm phán còn là bên trung gian,
đóng vai trò bảo vệ công lý trong các vụ án nên việc áp dụng nguyên tắc gần như là
không có sự khác biệt về bản chất giữa các mảng tố tụng hình sự, dân sự, hành chính.
Do đó, trong phạm vi khóa luận, tác giả sẽ nghiên cứu nguyên tắc này trong việc xây
dựng hệ thống tư pháp để đảm bảo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận tốt nghiệp này được viết trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của Triết học Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chỉ đạo,
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như:

phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh, đối chiếu, đánh giá.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Khóa luận tập trung nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ
thống các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong Nhà nước pháp quyền. Từ đó làm sáng tỏ
được vai trò của nguyên tắc trong việc đảm bảo tính độc lập của Tòa án, đảm bảo tính
độc lập của quyền lực tư pháp, trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn: với những kiến nghị, đề xuất của Khóa luận, tác giả mong
muốn cống hiến cho công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn mới, góp phần vào
sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vững mạnh.
Đồng thời, kết quả của Khóa luận tốt nghiệp có thể được sử dụng làm nguồn tài
liệu tham khảo và tài liệu giảng dạy trong các cơ sở đào tạo về luật.
7. Bố cục Khóa luận
Ngoài lời mở đầu, tổng kết, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận
được chia thành 02 chương:
Chương 1: Lý luận chung về nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” trong Nhà nước pháp quyền.
Chương 2: Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong Nhà
nước pháp quyền.


5

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC “KHI XÉT XỬ, THẨM
PHÁN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT” TRONG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN
1.1. Lý luận chung về nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật”

1.1.1. Khái niệm nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”
Bộ máy Nhà nước của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức
theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp1. Trong đó, Hiến pháp 2013 lần đầu tiên ghi nhận Tòa án nhân dân là cơ quan
xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp2. Như
vậy, Hiến pháp 2013 đã chính thức khẳng định Tòa án là cơ quan nắm giữ một trong
ba nhánh quyền lực, bên cạnh Quốc hội – nắm quyền lập pháp3 và Chính phủ – nắm
quyền hành pháp4. Khi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 được ban hành, vấn đề
này tiếp tục được tái khẳng định tại khoản 1 Điều 2 của Luật này quy định về “Chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân”. Từ đó, ta có thể thấy được Tòa án
có một vị thế rất quan trọng trong bộ máy nhà nước Việt Nam. Chính vì vậy, để Tòa
án phát huy tốt vị thế, vai trò là cơ quan xét xử, cơ quan thực hiện quyền tư pháp thì
điều kiện tiên quyết là Tòa án phải độc lập. Tính độc lập của Tòa án cần được xem
xét ở hai khía cạnh. Thứ nhất là tính độc lập của một thiết chế quyền lực nhà nước,
nắm quyền tư pháp, thực thi nhiệm vụ xét xử, bảo vệ công lý. Tuy nhiên, Tòa án là
một thiết chế không thể tự mình thực hiện được quyền tư pháp (xét xử) mà phải thông
qua những con người cụ thể thay mặt cho Tòa án, đó là các Thẩm phán. Do đó, khía
cạnh thứ hai cần xem xét là tính độc lập của Thẩm phán khi xét xử các vụ án cụ thể.
Sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán là đòi hỏi tất yếu để đảm bảo
cho sự độc lập của Tòa án, của tư pháp. Và nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật” sẽ là cơ sở pháp lý và nền tảng quan trọng để đảm bảo
cho sự độc lập và tuân theo pháp luật của Thẩm phán khi thực hiện hoạt động xét xử.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “nguyên tắc” được hiểu là: “Điều cơ bản định ra, nhất
thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”5. Trong tổ chức thực hiện các hoạt động
nhà nước, “nguyên tắc” được xác định là những tư tưởng chỉ đạo, có vai trò định
hướng chung cho hành vi của các chủ thể tham gia vào các hoạt động này. Những tư
tưởng này được pháp luật quy định, được xác định là các nguyên tắc pháp lý, bắt buộc
phải tuân theo đối với mọi chủ thể khi tham gia vào các hoạt động nhà nước. Chính

vì thế, Thẩm phán khi tham gia vào hoạt động xét xử nhân danh nhà nước cũng phải
tuân thủ những nguyên tắc pháp lý nhất định. Các nguyên tắc này đóng vai trò định
hướng cho việc xét xử, giúp giải quyết đúng đắn, kịp thời các vụ án, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, không phải bất kỳ tư tưởng
nào cũng được gọi là nguyên tắc mà chỉ những tư tưởng phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế và xã hội mới được coi là nguyên tắc. Nói cách khác, ngoài tính cơ bản,
Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013.
Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp 2013.
3
Điều 69 Hiến pháp 2013.
4
Điều 94 Hiến pháp 2013.
5
Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng, tr.694.
1
2


6

tính chỉ đạo thì nguyên tắc còn mang tính khách quan và tính thời đại. Liên quan đến
khái niệm “xét xử”, có thể hiểu đơn giản là “Xem xét và xử các vụ án”6. “Hoạt động
xét xử” là “Hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và ra
phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết định
pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác nhau trong
các tranh chấp hay mâu thuẫn đó”7. Từ những phân tích trên, có thể hiểu “Nguyên
tắc trong hoạt động xét xử” như sau: “Nguyên tắc trong hoạt động xét xử là những tư
tưởng chỉ đạo, quy tắc cơ bản trong hoạt động xét xử mà Thẩm phán và Hội thẩm
phải tuân theo nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về vụ án, mang tính đặc thù,
tính riêng biệt, phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế và xã hội”.

Tuy nhiên, cho đến hiện tại thì phạm vi của hoạt động xét xử trong nguyên tắc
vẫn chưa được hiểu theo một nghĩa thống nhất. Theo nghĩa rộng thì hoạt động xét xử
bắt đầu kể từ khi Thẩm phán được Chánh án phân công giải quyết vụ án cho đến khi
một bản án, quyết định giải quyết vụ án được ban hành trên thực tế. Theo cách hiểu
này thì “hoạt động xét xử” sẽ bao gồm hoạt động xét xử tại phiên tòa và những hoạt
động tác nghiệp bổ trợ cho hoạt động xét xử diễn ra trước khi mở phiên tòa như
nghiên cứu hồ sơ, xác minh, thu thập chứng cứ và những hoạt động cần thiết khác.
Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì “hoạt động xét xử” chỉ là hoạt động của Thẩm phán tại
phiên tòa. Theo quan điểm của tác giả thì hoạt động xét xử được đề cập trong nguyên
tắc nên được hiểu là toàn bộ tiến trình tố tụng của Thẩm phán từ khi được phân công
giải quyết vụ án cho đến khi một phán quyết giải quyết vụ án được tuyên bố trên thực
tế. Bởi lẽ, xét xử không chỉ là hoạt động riêng biệt mà là một quá trình, một chuỗi
hoạt động, có quan hệ mắc xích, chặt chẽ với nhau. Các hoạt động tác nghiệp bổ trợ
diễn ra trước phiên tòa là cơ sở, nền tảng cho hoạt động xét xử tại phiên tòa được
thực hiện hiệu quả. Chỉ khi các hoạt động này được tiến hành khách quan, độc lập,
đúng pháp luật thì hoạt động xét xử tại phiên tòa mới có thể khách quan, độc lập, từ
đó một phán quyết đúng đắn mới được ra đời. Ngược lại, nếu các hoạt động này
không khách quan, độc lập, đúng pháp luật thì như một “hiệu ứng domino”8, toàn bộ
các hoạt động sau đó, từ hoạt động xét xử tại phiên tòa cho đến phán quyết giải quyết
vụ án không thể nào khách quan, độc lập và đúng pháp luật.
Về khái niệm “độc lập”, theo từ điển Tiếng Việt: “Độc lập là tự mình tồn tại,
hoạt động, không nương tựa hoặc phụ thuộc vào ai, vào cái gì khác”9. Độc lập của
Thẩm phán được hiểu là người Thẩm phán không bị lệ thuộc vào bất kỳ sự tác động
nào từ bên ngoài cho dù là tác động từ các cơ quan nhà nước, quan chức nhà nước10.
Độc lập xét xử là quyền tự chủ của Thẩm phán trong quá trình xét xử các vụ án, tự
mình đưa ra các phán quyết, không dựa dẫm, phụ thuộc vào ai hay bất kỳ điều gì.
Quyền này của Thẩm phán được Nhà nước thừa nhận và bảo đảm bằng nhiều quy
Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng, tr.1148.
Đào Trí Úc, Nguyễn Thu Trang (2014), “Vai trò của hoạt động xét xử của Tòa án trong quá trình phát triển
hệ thống pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 18(274), tr.8.

8
“Hiệu ứng domino” là một phản ứng chuỗi xảy ra khi một thay đổi nhỏ tại điểm gốc của hệ có thể gây ra
những thay đổi tương tự tại các điểm lân cận, từ đó lan tỏa ra các điểm xa hơn và tạo ra một chuỗi thay đổi
tuyến tính.
9
Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng, tr.336.
10
(truy cập ngày 13 tháng 04 năm 2023).
6
7


7

định trong các văn bản pháp luật. Đây là quyền cơ bản và rất quan trọng của Thẩm
phán, là điều kiện đảm bảo cho tư pháp độc lập. Và tư pháp độc lập là tiền đề đảm
bảo cho ngành tư pháp hoạt động có sự phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực
nhà nước hiệu quả. Tuy nhiên, “độc lập xét xử” không chỉ là quyền mà nó còn là trách
nhiệm và nghĩa vụ của Thẩm phán trong quá trình giải quyết các vụ án. Thẩm phán,
người giữ cán cân công lý, phải độc lập, khách quan khi tiến hành tố tụng, từ lúc thụ
lý cho đến khi ra phán quyết giải quyết vụ án. Sự độc lập này phải trên cơ sở nhiều
yếu tố như lương tâm nghề nghiệp, sự hiểu biết pháp luật, sự đánh giá khách quan,
toàn diện các tình tiết, chứng cứ của vụ án. Có vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân mới được bảo đảm.
Bên cạnh “độc lập” thì “chỉ tuân theo pháp luật” cũng là một nội dung được đề
cập trong nguyên tắc. Hiểu một cách cơ bản, “chỉ tuân theo pháp luật” có nghĩa là khi
giải quyết vụ án, Thẩm phán chỉ dựa trên một căn cứ duy nhất là những quy định của
pháp luật hiện hành liên quan đến trình tự thủ tục, nội dung, cách thức giải quyết.
Thẩm phán độc lập trong việc ra phán quyết giải quyết vụ án nhưng việc độc lập đó
phải trên cơ sở pháp luật, không được trái pháp luật. “Độc lập” và “chỉ tuân theo pháp

luật” là hai nội dung có mối liên hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau, là hai mặt thống
nhất của một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng, do đó chúng không thể tách rời mà
phải song hành với nhau. Nếu chỉ quy định Thẩm phán có quyền độc lập, được tự
mình đưa ra phán quyết mà không có yếu tố “tuân theo pháp luật”, thì lúc này Thẩm
phán sẽ rất quyền lực, dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền, xét xử tùy tiện, chủ quan, ảnh
hưởng đến tính đúng đắn, khách quan của bản án, quyết định. Chính vì vậy, “tuân
theo pháp luật” được các nhà làm luật đặt ra như là một khuôn khổ, một ràng buộc
pháp lý nhằm tiết chế quyền lực của Thẩm phán, hạn chế sự tùy tiện, chủ quan, đồng
thời nâng cao tinh thần trách nhiệm của Thẩm phán khi giải quyết vụ án. Bên cạnh
đó, tuân theo pháp luật còn là cơ sở để Thẩm phán xét xử độc lập. Để có thể tự mình
đưa ra phán quyết, Thẩm phán phải có nền tảng, kiến thức pháp luật và phải chấp
hành nghiêm các quy định của pháp luật. Một khi đã nắm vững pháp luật, Thẩm phán
mới có thể nhìn nhận vấn đề một cách trực quan, chính xác, từ đó độc lập đưa ra
phương hướng giải quyết đúng đắn và phù hợp đối với vụ án. Ngoài ra, việc quy định
Thẩm phán “chỉ tuân theo pháp luật” đã loại trừ các tác nhân ảnh hưởng đến quá trình
xét xử của Thẩm phán, họ được tự mình đưa ra ý kiến, phán quyết giải quyết vụ án
trên cơ sở các quy định của pháp luật chứ không chịu tác động của bất kỳ một đối
tượng nào, từ đó họ mới có thể độc lập. Ngược lại, nếu chỉ quy định Thẩm phán có
nghĩa vụ tuân theo pháp luật mà không dành cho họ quyền độc lập khi thực hiện chức
năng tố tụng thì tất yếu sẽ dẫn tới hai hệ quả. Thứ nhất, phán quyết của Thẩm phán
đưa ra sẽ mang tính cứng nhắc do áp dụng pháp luật một cách khiên cưỡng, hợp lý
nhưng không hợp tình. Thứ hai, dễ dẫn đến tình trạng can thiệp từ bên ngoài vào hoạt
động xét xử của Thẩm phán do họ không có quyền độc lập xét xử. Lúc này, sự tuân
theo pháp luật chỉ được thực hiện một cách hình thức, không hiệu quả do toàn bộ nội
dung bên trong đã bị các yếu tố, các “thế lực” chi phối, kiểm soát. Tòa án khi này
không còn là thiết chế bảo vệ công lý mà nó đã trở thành công cụ thực thi quyền lợi
của những kẻ chi phối được nó.
Tóm lại, “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” là hai nội dung có mối quan hệ
chi phối, ràng buộc lẫn nhau, độc lập không xa rời việc tuân theo pháp luật và tuân



8

theo pháp luật phải gắn với tính độc lập. Độc lập là điều kiện và là biểu hiện của tuân
theo pháp luật. Chỉ khi Thẩm phán độc lập, phán quyết của họ mới đảm bảo khách
quan, vô tư và đúng pháp luật. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm
phán độc lập. Chỉ khi tuân theo pháp luật, Thẩm phán mới không chịu tác động của
các yếu tố bên ngoài, từ đó mới độc lập trong việc ra phán quyết giải quyết vụ án.
Từ những phân tích trên, có thể khái quát chung về nguyên tắc “Khi xét xử,
Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” như sau: Đây là nguyên tắc tố tụng cơ
bản và là nguyên tắc pháp lý quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án. Nguyên
tắc được đặt ra từ khi Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cho đến khi một
phán quyết giải quyết vụ án được tuyên bố trên thực tế. Nguyên tắc này đảm bảo cho
Thẩm phán tiến hành tố tụng được độc lập, không chịu ảnh hưởng, tác động từ bên
ngoài. Sự độc lập đó phải trên cơ sở pháp luật và không được trái pháp luật.
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” ở Việt Nam
Trong hoạt động xét xử, Thẩm phán không nhân danh cá nhân hay bất kỳ ai để
ra phán quyết mà là nhân danh nhà nước để phân định đúng sai trong các vụ án dân
sự, hành chính và để định tội danh, quyết định hình phạt trong các vụ án hình sự. Do
đó, khi xét xử, Thẩm phán phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định, đóng vai trò là
định hướng, khuôn khổ để Thẩm phán ban hành các phán quyết đúng đắn, hợp pháp.
Trong đó, nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
được xem là nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất. Nguyên tắc này đảm bảo cho hoạt
động xét xử được khách quan, công bằng, đúng pháp luật, không chịu tác động từ bên
ngoài, từ đó bảo vệ đúng đắn các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhận thức
được tầm quan trọng của nguyên tắc này đối với hoạt động xét xử nói riêng và hoạt
động tư pháp nói chung, nên ở Việt Nam, nguyên tắc này sớm đã được ghi nhận trong
các văn bản pháp luật. Cụ thể:
Cách mạng tháng Tám thành công đã đưa đến sự ra đời Nhà nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa ngày 02/09/1945. Thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được nhân
dân ủy quyền, Nhà nước đã triển khai một loạt các sắc lệnh trên khắp các phương
diện của đời sống xã hội, trong đó bao gồm các sắc lệnh về việc xây dựng, củng cố
chính quyền, Tòa án, Quân đội. Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành
Sắc lệnh số 13 quy định cách thức tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán11.
Trong Sắc lệnh 13 có quy định: “Tòa án Tư pháp sẽ độc lập đối với các cơ quan hành
chính. Các vị Thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không
được can thiệp vào việc Tư pháp”12. “Mỗi Thẩm phán xử án quyết định theo pháp
luật và lương tâm của mình. Không quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián
tiếp vào công việc xử án”13. Đây được xem như các quy định tiền thân của nguyên
tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, là nền tảng pháp lý
Theo sắc lệnh này, hệ thống các cơ quan Tòa án thường ở nước ta không có Tòa án Tối cao mà tổ chức theo
mô hình Tòa Thượng thẩm (cấp kỳ), Tòa án đệ nhị cấp (cấp tỉnh), Tòa án sơ cấp (cấp huyện), được tổ chức
độc lập với cơ quan hành chính, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư pháp, có chức năng xét xử các vụ án hình
sự thường và dân sự thường. Nguồn tại (truy cập ngày 13 tháng 04 năm
2023).
12
Điều thứ 47 Sắc lệnh 13/SL ngày 24 tháng 01 năm 1946 về Tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán.
13
Điều thứ 50 Sắc lệnh 13/SL ngày 24 tháng 01 năm 1946 về Tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán.
11


9

đầu tiên giữ cho Tòa án, tư pháp hoạt động một cách độc lập. Các quy định trên của
Sắc lệnh 13 sau đó đã được ghi nhận vào Hiến pháp 1946 – văn bản pháp lý có giá trị
cao nhất và là bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam, trở thành nguyên tắc hiến định,
có giá trị bắt buộc áp dụng. Hiến pháp 1946 được đánh giá là bản Hiến pháp áp dụng
tư tưởng phân chia quyền lực Nhà nước rõ nét nhất, đồng thời nó còn thể hiện nét độc

đáo là sự kết hợp hài hòa giữa mô hình phân quyền cứng rắn và phân quyền mềm
dẻo14. Theo Hiến pháp 1946, Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp của nước
Việt Nam15, các viên Thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm16, nhưng “Trong khi xét
xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can
thiệp”17. Hơn nữa, hệ thống Tòa án được tổ chức không theo đơn vị hành chính mà
theo cấp xét xử, bao gồm Tòa án tối cao, Tòa án phúc thẩm và các Tòa án đệ nhị cấp
và sơ cấp, điều này sẽ tránh được sự can thiệp của tổ chức Đảng và cơ quan hành
chính địa phương vào công tác xét xử của Tòa án. Từ đó, vai trò độc lập trong Hiến
pháp 1946 của Tòa án được bảo đảm khá vững chắc. Đây là quy định độc đáo và thể
hiện sự tiến bộ trong tư duy của các nhà lập hiến, bảo đảm cho tư pháp độc lập, giữ
được thế “kiềng ba chân” khi thực hiện quyền lực Nhà nước trong bối cảnh tình hình
đất nước vẫn chưa được ổn định.
Sau chiến thắng Điện Biên phủ 1954, miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội, miền Nam tiếp tục đấu tranh để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Hiến pháp 1946 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, nhưng so với tình hình và
nhiệm vụ cách mạng mới thì cần được bổ sung, thay đổi. Ngày 18/12/1959, tại kỳ
họp thứ 11 Quốc hội khóa I, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc báo cáo về dự thảo Hiến
pháp sửa đổi. Ngày 31/12/1959, Quốc hội đã nhất trí thông qua bản Hiến pháp sửa
đổi và ngày 01/01/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh công bố Hiến pháp
1959. Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” tiếp
tục được kế thừa và ghi nhận một cách rõ nét hơn trong Hiến pháp 1959: “Khi xét xử,
Tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”18. Có thể nhận thấy sự
thay đổi ở nguyên tắc này, chủ thể của nguyên tắc đã được mở rộng ra thành “Tòa
án” thay vì “Thẩm phán” như trong Hiến pháp 1946. Đây là điểm mới khá tiến bộ và
hợp lý hơn so với Hiến pháp 1946, bởi lẽ mặc dù từ Hiến pháp 1946 đã quy định Phụ
thẩm nhân dân (hay Hội thẩm nhân dân) tham gia xét xử cùng Thẩm phán, nhưng
quyền xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp chỉ đặt ra đối với Thẩm phán. Điều này
gây nên sự thiếu đồng bộ, mâu thuẫn và làm phát sinh tranh cãi liệu Phụ thẩm nhân
dân là đại diện của dân tham gia vào hoạt động xét xử thì không cần độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật? Do đó, trong Hiến pháp 1959, các nhà làm luật đã thay bằng từ

“Tòa án”, với ngụ ý rằng sẽ bao gồm luôn cả Thẩm phán và Phụ thẩm nhân dân, đảm
bảo sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của cả hai chủ thể khi tham gia vào hoạt
động xét xử, tăng cường hơn nữa tính độc lập của Tòa án. Tuy nhiên, cần nhận thức
rõ vấn đề, việc thay đổi tên chủ thể nguyên tắc thành “Tòa án” mặc dù mang nghĩa
bao quát hơn nhưng không đồng nghĩa với việc nước ta tăng cường hơn nữa nguyên
Hà Xuân Lịch (2022), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Khóa luận
tốt nghiệp Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.27.
15
Điều thứ 63 Hiến pháp 1946.
16
Điều thứ 64 Hiến pháp 1946.
17
Điều thứ 69 Hiến pháp 1946.
18
Điều 100 Hiến pháp 1959.
14


10

tắc phân quyền, mà trái lại, từ Hiến pháp 1959 thì nguyên tắc phân quyền trong Hiến
pháp 1946 đã bị phủ nhận, thay vào đó là nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa19.
Đến năm 1975, thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã mở ra
một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc ta. Miền Nam được hoàn toàn giải phóng,
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành trong phạm vi cả nước. Nước ta
đã hoàn toàn độc lập, tự do, là điều kiện thuận lợi để thống nhất hai miền Nam – Bắc,
mở ra thời kỳ mới, đưa cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là lúc Hiến
pháp 1959 hoàn thành nhiệm vụ của mình, Đất nước Việt Nam cần một bản Hiến
pháp mới phù hợp với tình hình mới. Tiếp thu tư tưởng tiến bộ của hai bản Hiến pháp
trên, ngày 18/12/1980, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã nhất trí thông qua Hiến

pháp 1980. Có thể nói, Hiến pháp 1959 là giai đoạn đầu Việt Nam áp dụng tập quyền
và đến Hiến pháp 1980 là thời kỳ đỉnh cao của tập quyền xã hội chủ nghĩa20. Điều
131 Hiến pháp 1980 quy định “Khi xét xử, Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật”. Hiến pháp 1980 thể hiện sự tiến bộ trong quy trình lập
hiến khi có sự thay đổi chủ thể nguyên tắc từ “Tòa án” sang “Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân”. Sự thay đổi này mang tính chất cụ thể, rõ ràng hơn so với Hiến pháp 1959,
cả về mặt câu chữ lẫn mặt pháp lý, cho thấy tư tưởng tiến bộ của các nhà lập hiến khi
nhận thức được vấn đề Tòa án là một thiết chế không thể tự mình thực hiện việc xét
xử mà phải thông qua những cá nhân cụ thể thay mặt Tòa án là Thẩm phán và Hội
thẩm, do đó phải đảm bảo sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của họ trong quá trình
xét xử. Sự ra đời của Hiến pháp 1980 là cột mốc xác định nguyên tắc về cơ bản đã
hoàn chỉnh. Trên cơ sở Hiến pháp 1980, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 1981 (sửa
đổi, bổ sung 1988) – văn bản pháp luật đầu tiên về tổ chức cơ quan Tòa án ra đời.
Văn bản này, một mặt có tác dụng cụ thể hóa các quy định về tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân trong Hiến pháp, mặt khác việc ghi nhận nguyên tắc “Khi xét
xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong văn
bản pháp luật chuyên ngành đã tạo tiền đề và điều kiện cho việc triển khai thực hiện
nguyên tắc trong các văn bản pháp luật chứ không chỉ “gói gọn” nó với tư cách
nguyên tắc hiến định, mang tính chất chung. Năm 1988, Bộ luật Tố tụng Hình sự, văn
bản pháp luật tố tụng đầu tiên ra đời, có ý nghĩa lập pháp quan trọng, là bước đệm
cho sự phát triển của pháp luật tố tụng hình sự nói riêng và pháp luật tố tụng nói
chung. Nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 17 của Bộ luật21. Việc ghi nhận nguyên
tắc trong văn bản pháp luật tố tụng bước đầu đã khẳng định tầm quan trọng của
nguyên tắc ngoài là nguyên tắc hiến định thì nó còn là một nguyên tắc tố tụng cơ bản
trong hoạt động xét xử, tạo tiền đề cho việc vận dụng có hiệu quả nguyên tắc trong
thực tiễn xét xử các vụ án cụ thể. Tiếp nối sự thành công của Bộ luật Tố tụng Hình
sự 1988, năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, văn bản pháp luật
tố tụng đầu tiên trong lĩnh vực tố tụng dân sự được ban hành, ghi nhận nguyên tắc
này tại Điều 622.
Sự phân quyền lúc này chỉ còn được hiểu là yếu tố kỹ thuật trong tổ chức bộ máy nhà nước khi có sự phân

công lao động giữa các cơ quan.
20
Hà Xuân Lịch (2022), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Khóa luận
tốt nghiệp Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.31.
21
“Điều 17. Thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.”
22
“Điều 6. Thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
19


11

Trong những năm cuối của thập kỷ 80, thế kỷ XX, do ảnh hưởng của phong trào
Cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào thoái trào, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu và Liên Xô sụp đổ, nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Đại hội
VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới với nhiều chủ
trương, giải pháp quan trọng để giữ vững ổn định chính trị và tiếp tục phát triển kinh
tế – xã hội. Trong bối cảnh đó, nhiều quy định của Hiến pháp năm 1980 không còn
phù hợp với yêu cầu xây dựng đất nước trong điều kiện mới, do đó cần phải đổi mới.
Ngày 15/4/1992, trên cơ sở tổng hợp ý kiến của nhân dân cả nước, bản Hiến pháp
mới đã được Quốc hội khóa VIII thông qua (tại kỳ họp thứ 11). Hiến pháp 1992 được
gọi là Hiến pháp của Việt Nam trong thời kỳ đầu của tiến trình đổi mới. Bối cảnh ban
hành Hiến pháp 1992 là giai đoạn nhận thức lại vấn đề tập quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, và mãi đến Hiến pháp sửa đổi 2001, khi áp dụng những hạt nhân hợp lý của
học thuyết phân quyền thì nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà
nước mới được hiến định. Chính vì vậy, việc tiếp tục khẳng định nguyên tắc “Khi xét
xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” tại Điều 130 của Hiến
pháp23, bên cạnh đảm bảo cho hoạt động xét xử của Thẩm phán được độc lập, đúng

pháp luật, nó còn là cơ sở để giữ cho nhánh tư pháp độc lập, đảm bảo thực hiện có
hiệu quả nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp” ghi nhận tại Điều 2 của Hiến pháp24. Trên tinh thần Hiến pháp 1992 (sửa
đổi, bổ sung 2001), các văn bản pháp luật về tổ chức Tòa án, các chức danh tư pháp
và văn bản pháp luật tố tụng như Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, Bộ
luật Tố tụng Dân sự 2004, Luật Tố tụng Hành chính 2010 ra đời, tiếp tục quy định
nguyên tắc với cách ghi nhận tương tự trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001).
Mới đây nhất, Hiến pháp 2013, bản Hiến pháp thứ năm của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Đây là thành quả của quá trình hai mươi năm đổi mới
toàn diện, hoàn thiện tư duy về nhà nước pháp quyền kết hợp với những hạt nhân hợp
lý của tư tưởng phân chia quyền lực trong bối cảnh đổi mới toàn diện đất nước, dựa
trên cơ sở tiếp tục kế thừa những thành tựu của lịch sử lập hiến nước nhà. Hiến pháp
2013 ra đời trong bối cảnh đất nước đang thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
nền tư pháp nước nhà đang có những thay đổi quan trọng để đảm bảo hiệu quả hoạt
động tư pháp. So với Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 có nhiều điểm mới, tiến bộ
trong việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước. Khoản 2 Điều 103
Hiến pháp 2013 ghi nhận nguyên tắc: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử
của Thẩm phán, Hội thẩm”. Có thể thấy, bên cạnh ghi nhận hai nội dung “độc lập”
và “chỉ tuân theo pháp luật” của Thẩm phán như các bản Hiến pháp trước đây, Hiến
pháp 2013 còn ghi nhận thêm nghĩa vụ của các chủ thể khác trong việc bảo đảm thực
hiện nguyên tắc: “Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử
của Thẩm phán”. Sự bổ sung này đã góp phần to lớn trong việc loại trừ những yếu tố
ảnh hưởng đến hoạt động xét xử của Thẩm phán, từ đó đảm bảo thực hiện có hiệu
Khi xét xử, thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.”
23
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001).

24
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001).


12

quả nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán. Với quy
định hoàn thiện này, ngoài giúp tăng cường hơn nữa tính độc lập và tuân theo pháp
luật của Thẩm phán và hiệu quả xét xử của Tòa án, nó còn giúp thực hiện sự phân
công, phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các nhánh quyền lực nhà nước một cách
hiệu quả. Không một ai, kể cả những cơ quan trong bộ máy nhà nước, được can thiệp
vào hoạt động xét xử của Thẩm phán. Nguyên tắc hiến định trong Hiến pháp 2013
ngay sau đó được ghi nhận trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 và các văn bản
pháp luật tố tụng như Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2021), Bộ luật
Tố tụng Dân sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2019), Luật Tố tụng Hành chính 2015 (sửa
đổi, bổ sung 2019). Việc ghi nhận đồng bộ nguyên tắc này đảm bảo cho nguyên tắc
được triển khai thực thi một cách thống nhất và có hiệu quả trên thực tế, tính độc lập
xét xử và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán theo đó cũng được bảo đảm và tăng
cường.
Như vậy, có thể thấy, từ khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa được thành lập
cho đến nay đã gần 80 năm, trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, có sự chuyển mình
toàn diện trên tất cả các mặt, nhưng nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật” vẫn trường tồn và ngày càng hoàn thiện hơn. Sự vững chắc
của nguyên tắc này chứng tỏ một điều rằng, đây là một nguyên tắc hợp lý, tiến bộ và
có vai trò cực kỳ quan trọng trong hoạt động xét xử của Thẩm phán nói riêng và hoạt
động của Tòa án, hệ thống Tư pháp nói chung. Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là nguyên tắc cơ bản và là căn cứ tối thượng để
đảm bảo cho hoạt động xét xử của Thẩm phán khách quan, công bằng và đúng pháp
luật. Duy trì nguyên tắc này là tiền đề để thực hiện có hiệu quả việc kiểm soát và cân
bằng quyền lực nhà nước. Đồng thời, thực hiện thành công nguyên tắc còn là cơ sở

để tư pháp độc lập, từ đó đảm bảo cho Nhà nước thực sự là một nhà nước dân chủ,
của dân, do dân và vì dân.
1.1.3. Nội dung của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”
Tòa án là cơ quan xét xử, là thiết chế bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân và các lợi ích quốc gia. Hoạt động xét xử của Tòa án là biểu hiện tập
trung nhất của quyền tư pháp. Kết quả xét xử thể hiện nền công lý, sự công bằng,
bình đẳng trong các mối quan hệ, đồng thời cũng thể hiện chất lượng và uy tín của hệ
thống tư pháp. Yêu cầu và cơ sở để đánh giá hiệu quả công tác xét xử là phải khách
quan, toàn diện và đúng pháp luật. Muốn vậy, điều kiện tiên quyết là phải đảm bảo
tính độc lập của Tòa án, của tư pháp. Và Thẩm phán là chủ thể thay mặt Tòa án, nhân
danh nhà nước tiến hành xét xử và ra phán quyết, nên cốt yếu hơn cả, đảm bảo tính
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán là đảm bảo sự độc lập trong thực
hiện quyền tư pháp của Tòa án. Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” chính là cơ sở để đảm bảo cho sự độc lập và tuân theo pháp luật
của Thẩm phán. Nguyên tắc này được chia làm 2 nội dung “độc lập xét xử” và “chỉ
tuân theo pháp luật khi xét xử”. Hai nội dung này có liên hệ mật thiết với nhau, tồn
tại trong mối quan hệ biện chứng không thể tách rời.


13

• Thẩm phán đợc lập xét xử
Khi xét xử, Thẩm phán độc lập. Sự độc lập này phải được hiểu là độc lập cả bên
trong lẫn bên ngoài. Thẩm phán độc lập, có nghĩa là khi tiến hành xét xử, họ không
phụ thuộc vào sự chỉ đạo hay ý kiến của bất kỳ một chủ thể nào. Không ai có quyền
can thiệp, tác động vào hoạt động xét xử của Thẩm phán, không một thế lực nào có
thể gây áp lực với quan tòa trong quá trình giải quyết vụ án. Mọi hành vi can thiệp
vào hoạt động xét xử của Thẩm phán dưới bất kỳ hình thức nào đều bị xem là vi phạm
và tùy theo tính chất, mức độ mà sẽ bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật25.

Nguyên tắc độc lập xét xử đảm bảo cho hoạt động tố tụng của Thẩm phán diễn ra một
cách độc lập kể từ khi thụ lý án cho đến khi kết thúc việc xét xử, đề cao trách nhiệm
và tính tự chủ của Thẩm phán trong việc nghiên cứu hồ sơ, đánh giá tài liệu, chứng
cứ của vụ án, từ đó đưa ra các nhận định, phán quyết đúng đắn, khách quan, không
chỉ giúp đảm bảo chất lượng hoạt động xét xử mà còn góp phần xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tính độc lập của Thẩm phán được
xem xét trong các mối quan hệ:
Một là, sự độc lập giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử
Sự độc lập giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử là một điều kiện quan
trọng để Thẩm phán đánh giá vụ án một cách chính xác, khách quan và công bằng26.
Sự độc lập này được thể hiện ở hai khía cạnh: Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với
nhau; sự độc lập giữa các Thẩm phán trong trường hợp Hội đồng xét xử có từ hai
Thẩm phán trở lên.
Thứ nhất, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với nhau
Sự độc lập giữa Thẩm phán và Hội thẩm được thể hiện qua việc họ độc lập với
nhau cả về tổ chức và về mặt tố tụng. Về mặt tổ chức, Thẩm phán là người được Chủ
tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử27, còn Hội thẩm là do Tòa án nhân dân
đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lựa chọn và giới thiệu để Hội đồng nhân
dân bầu28. Về mặt tố tụng, sự độc lập giữa Thẩm phán và Hội thẩm được thể hiện
trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án, cụ thể:
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán và Hội thẩm phải chủ động xem xét kĩ
lưỡng mọi khía cạnh của vụ án, tự mình đánh giá các tình tiết, chứng cứ có liên quan
để từ đó xây dựng hệ thống các câu hỏi về vụ án, phục vụ cho việc xét xử tại phiên
tòa. Thẩm phán và Hội thẩm không được áp đặt cho nhau cách nhìn phiến diện về các
khía cạnh của vụ án. Thẩm phán không được gợi ý hướng giải quyết vụ án cho Hội
thẩm và Hội thẩm cũng không được áp đặt suy nghĩ của mình về vụ án và bắt Thẩm
phán phải nghe theo.
Tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội thẩm cũng có sự độc lập với nhau. Trước hết,
cần làm rõ một điều rằng trong Hội đồng xét xử, chức danh Chủ tọa phiên tòa được
đặt ra là để điều hành phiên xét xử, đảm bảo cho các hoạt động tố tụng diễn ra một

25

Mục 7 phần IV Nghị quyết số 27-NQ/TW.
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, NXB
Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Hồ Chí Minh, tr.78.
27
Khoản 1 Điều 65 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
28
Khoản 1 Điều 86 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
26


14

cách có trật tự. Do đó, việc Chủ tọa phiên tòa là Thẩm phán không đồng nghĩa với
việc Thẩm phán là cấp trên, chỉ huy đối với hoạt động tố tụng của Hội thẩm. Thẩm
phán và Hội thẩm bình đẳng, độc lập với nhau trong cách hỏi, cách khai thác tình tiết,
chứng cứ tại phiên tòa.
Khi nghị án, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập, bình đẳng trong việc biểu quyết
về từng vấn đề của vụ án. Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng.
Thẩm phán và Hội thẩm ngang quyền với nhau khi biểu quyết, ý kiến biểu quyết của
mỗi bên có giá trị như nhau, các bên phải tôn trọng ý kiến của nhau. Mặc dù phán
quyết được hình thành trên cơ sở đa số nhưng các ý kiến thiểu số vẫn được bảo lưu
bằng văn bản trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, có thể thấy giữa Thẩm phán và Hội thẩm có sự độc lập rõ rệt với nhau:
độc lập về quy chế thành lập, quản lý và độc lập khi thực hiện chức năng tố tụng. Tuy
nhiên, bên cạnh sự độc lập thì giữa hai chủ thể này vẫn cần sự phối hợp chặt chẽ với
nhau trong việc trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng xét xử và kiến thức pháp luật. Có thể
nói, Thẩm phán ở đây đại diện cho Nhà nước còn Hội thẩm là đại diện cho nhân dân
tham gia hoạt động xét xử, mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm là mối quan hệ

giữa Nhà nước và người dân, mối quan hệ giữa lý và tình. Nếu Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập nhưng bên cạnh đó cũng có sự phối hợp chặt chẽ với nhau thì sẽ phát
huy được trí tuệ tập thể, có cách nhìn nhận vấn đề được bao quát và toàn diện hơn, từ
đó các phán quyết đưa ra sẽ càng đúng đắn, thấu tình đạt lý và khách quan hơn, đảm
bảo dân chủ trong đời sống xã hội. Đây cũng là một đòi hỏi quan trọng trong Nhà
nước pháp quyền.
Thứ hai, sự độc lập giữa các Thẩm phán
Trong Hội đồng xét xử sơ thẩm có hai Thẩm phán, trong Hội đồng xét xử phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ có Thẩm phán tham gia xét xử thì giữa các Thẩm
phán này cũng phải có sự độc lập với nhau. Thêm vào đó, khác với mối quan hệ giữa
Thẩm phán với Hội thẩm là những người không được đào tạo chuyên sâu và thiếu
kinh nghiệm xét xử, các Thẩm phán là đối tượng được đào tạo bài bản và có kinh
nghiệm, kiến thức sâu rộng về công tác xét xử và áp dụng pháp luật, do đó sự độc lập
giữa các Thẩm phán được đặc biệt đề cao, nhất là từ cấp xét xử phúc thẩm trở lên thì
vấn đề này càng phải được coi trọng do những bản án, quyết định này có hiệu lực thi
hành ngay, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của các bên liên quan. Và như đã trình
bày ở trên, sự độc lập có nghĩa là các Thẩm phán phải tự mình đưa ra ý kiến, phán
quyết dựa trên việc đánh giá tài liệu, chứng cứ đã được thu thập, các tình tiết của vụ
án đã được làm rõ tại phiên tòa và dựa trên các quy định pháp luật chứ không phụ
thuộc vào ý kiến của những Thẩm phán còn lại. Sự độc lập xét xử giữa các Thẩm
phán cũng phải được thể hiện trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án, từ khi án
được thụ lý (theo thủ tục sơ thẩm) hoặc kể từ khi đơn kháng cáo, quyết định kháng
nghị được chấp nhận (theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) cho đến khi
ra bản án, quyết định giải quyết vụ án.
Hai là, sự độc lập giữa Thẩm phán với Chánh án; giữa Tòa án cấp trên với Tòa
án cấp dưới
Thứ nhất, sự độc lập giữa Thẩm phán với Chánh án


15


Chánh án là người lãnh đạo Tòa án. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh án
cần được xem xét ở hai mặt. Nếu xét về mặt tổ chức thì đó là quan hệ giữa Thủ trưởng
với nhân viên, theo đó Chánh án có quyền ra lệnh cho Thẩm phán và Thẩm phán phải
tuân theo các quyết định của Chánh án về việc phân công, đề bạt, thuyên chuyển,
khen thưởng, kỷ luật... Còn về mặt tố tụng thì quan hệ giữa hai chủ thể này không
khác gì mối quan hệ giữa hai Thẩm phán trong cùng một Hội đồng xét xử, có quyền
biểu quyết ngang nhau, do đó họ phải độc lập với nhau và chỉ tuân theo pháp luật khi
xét xử. Trong mối quan hệ tố tụng, Chánh án không có quyền buộc Thẩm phán phải
giải quyết vụ án theo sự chỉ đạo của mình. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức
tạp, pháp luật không quy định hoặc quy định chưa rõ, Thẩm phán chưa biết hoặc đang
phân vân về phương hướng giải quyết thì Thẩm phán có thể hỏi ý kiến Chánh án và
những ý kiến đó chỉ mang tính chất tham khảo, định hướng cho Thẩm phán trong
việc ra phán quyết. Thẩm phán không được xem ý kiến của Chánh án là “chỉ thị”, là
căn cứ để ra phán quyết và ngược lại Chánh án cũng không được buộc Thẩm phán
phải xử theo ý kiến của mình. Việc xét xử và ra phán quyết của Thẩm phán phải căn
cứ vào pháp luật, vào diễn biến cụ thể tại phiên tòa. Đây cũng là quan điểm mà Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao Phạm Hưng đã phát biểu tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa
án năm 1988 và cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị29.
Thứ hai, sự độc lập giữa Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới
Về nguyên tắc tổ chức, các Tòa án nhân dân được tổ chức độc lập theo thẩm
quyền xét xử30. Khi xét xử, bất kỳ Tòa án nào cũng là các Tòa án độc lập, Tòa án nào
khi tuyên án cũng là nhân danh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, không
Tòa nào cao hơn Tòa nào, không phân biệt Tòa cấp trên – cấp dưới. Tòa án cấp trên
không được gây ảnh hưởng, chỉ đạo, yêu cầu Tòa cấp dưới giải quyết vụ án theo quan
điểm của mình. Sự hướng dẫn, chỉ đạo về công tác chuyên môn của Tòa cấp trên đối
với Tòa cấp dưới chỉ là sự hướng dẫn chung chứ không mang tính cá biệt đối với từng
vụ án. Trường hợp Tòa án cấp dưới xin ý kiến của Tòa án cấp trên về vụ án thì cũng
không làm mất đi tính độc lập của Thẩm phán, vì đây là trường hợp pháp luật quy
định chưa rõ, có mâu thuẫn trong các quy định pháp luật hoặc Thẩm phán chưa nhận

thức rõ vấn đề. Tuy nhiên, ý kiến của Tòa án cấp trên chỉ mang tính chất hướng dẫn,
giải thích nội dung và cách thức áp dụng pháp luật chứ không quyết định các vấn đề
đang được giải quyết. Các ý kiến đó chỉ mang giá trị tham khảo và về nguyên tắc,
Thẩm phán đang xét xử vụ án hoàn toàn có quyền quyết định khác so với những
hướng dẫn, trả lời của Tòa án cấp trên.
Bên cạnh sự độc lập giữa các Tòa án về mặt tổ chức, thì độc lập giữa các cấp
xét xử và thủ tục xét xử cũng là một vấn đề rất quan trọng. Toà phúc thẩm độc lập
với Tòa sơ thẩm trong việc đánh giá tài liệu, chứng cứ chứ không nhất thiết phải dựa
vào lý lẽ, quan điểm của Tòa sơ thẩm. Ngược lại, trường hợp Tòa phúc thẩm hủy án
sơ thẩm và trả hồ sơ cho Tòa sơ thẩm xét xử lại thì Tòa sơ thẩm hoàn toàn độc lập
trong việc tái xem xét hồ sơ và giải quyết vụ án, Tòa phúc thẩm không được đưa ra ý
kiến, quan điểm và buộc Tòa sơ thẩm phải nghe theo. Đối với giám đốc thẩm, tái
thẩm, do tính chất đặc biệt của hai thủ tục này, từ căn cứ phát sinh cho đến hiệu lực
(truy cập ngày 02 tháng 03 năm
2023).
30
Điều 5 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
29


16

thi hành ngay của quyết định nên việc đảm bảo tính khách quan, độc lập của Thẩm
phán khi giải quyết vụ án là rất quan trọng và cần thiết. Theo đó, Hội đồng giám đốc
thẩm, tái thẩm có quyền xem xét lại toàn bộ vụ án mà không bị hạn chế trong nội
dung phần kháng nghị và không phụ thuộc vào quan điểm, lý lẽ của cấp xét xử trước
đó. Đồng thời, sự độc lập giữa các cấp và thủ tục xét xử còn thể hiện ở chỗ, cho dù
Tòa giám đốc thẩm, tái thẩm có hủy án để xét xử sơ thẩm, phúc thẩm lại nhưng cũng
không có quyền chỉ đạo cho Tòa sơ thẩm, phúc thẩm thu thập, đánh giá chứng cứ hay
đưa ra phương hướng xét xử cũng như quy định trước điều khoản pháp luật nào sẽ

được áp dụng. Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm vẫn được toàn quyền trong việc đưa ra
phán quyết giải quyết vụ án dựa trên cơ sở quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể thấy, trong quá trình giải quyết vụ án thì giữa Tòa án cấp trên
với Tòa án cấp dưới, giữa Chánh án với Thẩm phán không tồn tại mối quan hệ “trên
– dưới”, “thủ trưởng – nhân viên”, mà đây là những chủ thể độc lập, ngang quyền với
nhau. Như C.Mác đã từng nói: “Đối với quan tòa không có cấp trên nào khác ngoài
pháp luật”. Khi xét xử, các Thẩm phán độc lập với cấp trên của mình là Chánh án,
độc lập với Tòa án cấp trên, xem xét và ra phán quyết dựa trên cơ sở quy định của
pháp luật. Pháp luật là căn cứ tối thượng, là nền tảng để Thẩm phán giải quyết vụ án
được chính xác, khách quan và công bằng. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật vừa là
yêu cầu đối với Thẩm phán khi giải quyết vụ án, cũng vừa là yêu cầu quan trọng đối
với hoạt động tư pháp trong Nhà nước pháp quyền.
Ba là, sự độc lập giữa Thẩm phán với Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát
Thứ nhất, Thẩm phán độc lập với Cơ quan điều tra
Cơ quan điều tra là cơ quan thực hiện hoạt động điều tra nhằm tìm ra sự thật
khách quan của vụ án, là cơ quan chỉ xuất hiện trong Tố tụng Hình sự. Theo nội dung
của nguyên tắc độc lập xét xử, Thẩm phán phải độc lập với cơ quan điều tra cũng như
với kết luận điều tra. Thẩm phán không được phụ thuộc vào các chứng cứ đã nêu
trong kết luận điều tra để xác định một người có tội hay không có tội. Kết luận của
cơ quan điều tra chỉ mang tính tham khảo chứ không mang tính bắt buộc. Cơ quan
điều tra không được can thiệp, tác động để Thẩm phán giải quyết vụ án theo hướng
kết luận điều tra. Các chứng cứ được thu thập thông qua hoạt động điều tra phải được
Thẩm phán trực tiếp kiểm chứng công khai tại phiên tòa. Sau khi kiểm tra chứng cứ
là có cơ sở, đã đảm bảo được tính khách quan, liên quan và hợp pháp, thì nó mới có
giá trị chứng minh, là căn cứ đáng tin cậy để Thẩm phán sử dụng trong giải quyết vụ
án. Ngược lại, Thẩm phán có quyền bác bỏ chứng cứ đó.
Thứ hai, Thẩm phán độc lập với Viện Kiểm sát
Trong tố tụng hình sự, Viện Kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật31, thực hiện chức năng truy tố và ra bản cáo trạng
truy tố bị can. Cả Tòa án và Viện Kiểm sát đều có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội

chủ nghĩa, do đó giữa hai cơ quan này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong việc
phối hợp thực hiện nhiệm vụ tố tụng. Tuy nhiên, trong quá trình xét xử thì Thẩm phán
vẫn phải giữ vững sự độc lập, không chịu bất kỳ sự chỉ đạo nào về đường lối xét xử
31

Điều 20 BLTTHS.


17

của Viện Kiểm sát, không phụ thuộc vào cáo trạng của Viện Kiểm sát trong việc
quyết định đưa vụ án ra xét xử, trong việc định tội danh của bị cáo, loại hình phạt,
khung hình phạt áp dụng. Việc ra phán quyết của Thẩm phán phải dựa trên cơ sở đánh
giá tài liệu, chứng cứ theo những tiêu chí pháp luật cụ thể, đúng với bản chất của Nhà
nước pháp quyền – thượng tôn pháp luật, lấy pháp luật làm tôn chỉ. Tại phiên tòa,
Viện Kiểm sát có quyền xét hỏi, tranh luận và đưa ra các chứng cứ buộc tội bị cáo
nhưng không được can thiệp, áp đặt quan điểm của mình lên phán quyết của Hội đồng
xét xử. Nếu không đồng ý với quan điểm của Tòa, Viện Kiểm sát có thể kháng nghị
lên Tòa án cấp trên để xem xét lại phán quyết đó. Tòa án cấp trên khi xem xét không
bị giới hạn bởi phạm vi kháng nghị và nếu xét thấy kháng nghị không có căn cứ thì
vẫn có thể giữ nguyên hiệu lực của phán quyết đã tuyên.
Trong tố tụng hành chính và tố tụng dân sự, chức năng của Viện Kiểm sát không
thể hiện quá nổi trội như trong Tố tụng hình sự. Trong 2 mảng tố tụng này, pháp luật
quy định Kiểm sát viên có quyền phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng
của Thẩm phán và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án32. Quy định này một mặt
giúp nâng cao vị thế của Viện Kiểm sát, mặt khác nó giúp cho việc giải quyết vụ án
được đúng đắn và khách quan hơn. Tuy nhiên, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên chỉ
là một kênh tham khảo, giúp Thẩm phán đưa ra phán quyết đúng đắn chứ không mang
tính áp đặt, bắt buộc Thẩm phán phải nghe theo ý kiến này. Thẩm phán không được
dựa dẫm vào ý kiến của Kiểm sát viên để đưa ra phán quyết và Kiểm sát viên cũng

không được tác động, gây ảnh hưởng đến Thẩm phán buộc họ phải nghe theo. Trường
hợp không đồng ý với các phán quyết của Thẩm phán, Viện Kiểm sát hoàn toàn có
quyền kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lại phán quyết đó theo thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Bốn là, sự độc lập giữa Thẩm phán với người tham gia tố tụng
Người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự là bị cáo, bị hại, nguyên đơn, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng…33, trong vụ án dân
sự, hành chính là các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người khởi kiện, người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) và những người tham gia tố tụng khác (người
đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, người làm chứng,…)34. Những chủ
thể này tham gia tố tụng với tư cách khác nhau tại phiên tòa, có quyền đưa ra yêu cầu,
dẫn chứng để bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, với trọng trách là người nắm
giữ cán cân công lý, Thẩm phán phải luôn giữ sự độc lập với những chủ thể này trong
bất cứ hoàn cảnh nào, không được có thái độ nghiêng hẳn về một bên, không được vì
bất kỳ lý do gì mà đánh mất đi sự độc lập của mình. Thẩm phán phải kiên định, tiến
hành xem xét, đánh giá một cách toàn diện, độc lập các tình tiết, chứng cứ của vụ án
để trên cơ sở đó ban hành phán quyết đúng pháp luật chứ không chỉ căn cứ vào lời
khai, chứng cứ do người tham gia tố tụng đưa ra. Có như vậy, Thẩm phán mới bảo
vệ được công bằng, công lý, bảo vệ được pháp luật, tiến trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền thượng tôn pháp luật từ đó mới có hiệu quả. Và những người tham gia tố

Điều 190 Luật TTHC; Điều 262 BLTTDS.
Điều 55 BLTTHS.
34
Chương VI BLTTDS; chương IV Luật TTHC.
32
33


18


tụng cũng không được có những hành vi tác động, gây ảnh hưởng đến Thẩm phán,
buộc Thẩm phán phải giải quyết theo hướng mà họ đề ra.
Năm là, sự độc lập giữa Thẩm phán với cấp ủy Đảng
Điều 4 Hiến pháp 2013 đã khẳng định vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo Nhà nước, trong đó có lãnh đạo cơ quan
thực hiện quyền tư pháp là Tòa án. Tuy nhiên, Đảng lãnh đạo Tòa án không có nghĩa
là Đảng làm hộ, làm thay hoặc can thiệp vào công việc xét xử của Tòa mà Đảng chỉ
vạch ra đường lối, chủ trương xét xử, thể chế hóa quan điểm của Đảng. Do đó, cần
phê phán quan điểm cho rằng để Tòa án độc lập xét xử thì phải cho Tòa “độc lập với
sự lãnh đạo của Đảng”. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống Tòa án
nhân dân các cấp là yếu tố đặc biệt quan trọng bảo đảm sự thành công của công tác
cải cách tư pháp. Đảng lãnh đạo Tòa án, nhưng vẫn bảo đảm tôn trọng nguyên tắc
độc lập tư pháp, không can thiệp vào quá trình tố tụng giải quyết vụ việc cụ thể làm
ảnh hưởng đến công lý35. Cấp ủy Đảng lãnh đạo và kiểm tra về đường lối, quan điểm,
định hướng chính trị chứ không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của Tòa án, không
bao biện, làm thay mà phải tôn trọng chức năng, quyền hạn của Tòa trong hoạt động
xét xử, tạo điều kiện cho Tòa án phát huy vai trò và trách nhiệm của mình. Cấp ủy
không được yêu cầu Thẩm phán báo cáo kết quả hoạt động xét xử hoặc can thiệp vào
hoạt động này. Thẩm phán độc lập trong xuyên suốt quá trình xét xử, không phụ thuộc
vào yêu cầu, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, không phụ thuộc vào ý kiến của Ban cán sự
Đảng Tòa án cấp trên. Thẩm phán phải giữ vững bản lĩnh chính trị, không được vì sợ
trách nhiệm, sợ ảnh hưởng chức vụ mà nhất nhất đều “xin ý kiến”, “tranh thủ sự chỉ
đạo” của cấp ủy Đảng. Đồng thời, các tổ chức Đảng cũng không được can thiệp, tác
động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán để buộc họ phải xử theo ý chí của mình.
Mọi hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử của Thẩm phán đều bị coi là vi phạm,
ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động xét xử và sẽ bị xử lý theo quy định của
pháp luật. Cơ chế Đảng lãnh đạo nhưng không can thiệp không chỉ giúp xây dựng
thiết chế Tòa án độc lập, tư pháp độc lập mà còn góp phần xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo thớng nhất của

Đảng Cợng sản Việt Nam.
Sáu lภsự đợc lập giữa Thẩm phán với chính quyền địa phương
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, còn Ủy ban
nhân dân là cơ quan hành chính thực hiện chức năng hành pháp ở địa phương. Mối
quan hệ giữa Tòa án, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân là quan hệ giữa ba nhánh
quyền lực nhà nước ở địa phương, do đó giữa các cơ quan này có quan hệ chặt chẽ,
có sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau. Hội đồng nhân dân có quyền giám sát
việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, giám sát hoạt động, xét báo cáo
công tác của Tòa án cùng cấp; đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chánh
án Tòa án cùng cấp. Ủy ban nhân dân có nhiệm vụ tổ chức và bảo đảm việc thi hành
Hiến pháp và pháp luật, xây dựng chính quyền và địa giới hành chính, hành chính tư
pháp, bổ trợ tư pháp,… Mặc dù có mối quan hệ chặt chẽ như vậy nhưng không vì thế
35

(truy cập ngày 08 tháng 03 năm 2023).


19

mà cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính có thể chi phối hay can thiệp trái pháp
luật làm mất đi tính độc lập xét xử của cơ quan tư pháp. Giữa các cơ quan này vẫn có
sự độc lập, ngang quyền nhau trong thực hiện quyền lực nhà nước. Mỗi cơ quan có
một chức năng, nhiệm vụ riêng, không chồng lấn nhau, chỉ hoạt động trong khuôn
khổ luật định. Vì thế, Thẩm phán với tư cách là người đại diện cho Tòa án ra phán
quyết phải độc lập với hai cơ quan còn lại trong bộ ba quyền lực. Đây vừa là yêu cầu
nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp” ghi nhận tại Điều 2 Hiến pháp 2013, vừa là yêu cầu
của Nhà nước pháp quyền, nơi pháp luật được thượng tôn và được bảo vệ thông qua
thiết chế Tòa án độc lập. Khi thực hiện chức năng xét xử, Thẩm phán không được vì

cả nể, vì “sợ” chính quyền địa phương hay vì bất kỳ lý do gì mà làm ảnh hưởng đến
hoạt động xét xử. Khi thụ lý giải quyết những vụ án mà có chủ thể là cơ quan hay
người công tác trong hai cơ quan này thì Thẩm phán phải giữ vững sự độc lập, chí
công vô tư của mình, xem xét và ra các phán quyết trên cơ sở đảm bảo khách quan,
công bằng và đúng pháp luật.
Thẩm phán khi xét xử nhân danh nhà nước nên phán quyết của Thẩm phán có
tính bắt buộc thi hành. Điều này nêu cao vị trí độc lập của Thẩm phán. Nguyên tắc
độc lập xét xử được coi là nền tảng quan trọng của tư pháp trong Nhà nước pháp
quyền, là đảm bảo cho việc xét xử được công bằng, dân chủ, khách quan. Đảm bảo
tính độc lập xét xử của Thẩm phán sẽ giúp cho hoạt động xét xử có hiệu quả, tìm ra
được sự thật khách quan của vụ án, từ đó nâng cao chất lượng công tác xét xử của
Tòa án. Tuy nhiên, độc lập không có nghĩa là tách biệt mà vẫn cần có sự phối hợp để
bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội. Trong quá trình xét xử, Thẩm phán vẫn có thể
tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các cơ quan chuyên môn, nắm bắt dư luận xã
hội nhưng khi ra phán quyết, Thẩm phán phải thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp của mình,
độc lập, khách quan và không bị ràng buộc bởi các ý kiến, quan điểm bên ngoài. Việc
ban hành phán quyết phải căn cứ vào những tình tiết, chứng cứ đã được thẩm tra tại
phiên tòa, trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật.
• Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử
Thẩm phán xét xử độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà việc xét xử đó
phải tuân theo quy định của pháp luật, trong khuôn khổ và sự cho phép của pháp luật.
Điều này cũng là đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền, nhà nước vận hành các mối quan
hệ xã hội bằng luật pháp. Khi xét xử Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, điều đó có
nghĩa rằng, khi xét xử Thẩm phán phải nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, phải dựa vào
các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án, không được chủ quan, tùy tiện, duy ý
chí. Thẩm phán phải xem xét, đối chiếu sự việc đã xảy ra với những tiêu chí pháp luật
cụ thể để từ đó đưa ra phán quyết chính xác, phù hợp với diễn biến vụ việc, góp phần
bảo đảm công bằng xã hội. Nội dung chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử của Thẩm
phán được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Một là, tuân theo pháp luật nội dung

Khi xét xử các vụ án thuộc các lĩnh vực khác nhau, Thẩm phán phải tuân thủ
nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật nội dung liên quan đến lĩnh vực đó, làm cơ
sở cho việc ra bản án, quyết định của Tòa án được chính xác, khách quan, công bằng.


×