Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Chính sách khoan hồng theo quy định của luật cạnh tranh năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

PHẠM THỊ ÚT LAN

CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH NĂM 2018

CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
------------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH NĂM 2018

SINH VIÊN THỰC HIỆN: PHẠM THỊ ÚT LAN
KHÓA: 40 MSSV: 1553801011166
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. PHẠM TRÍ HÙNG

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Phạm Thị Út Lan, sinh viên Khoa Luật Thương Mại - Trường Đại học


Luật Thành Phố Hồ Chí Minh (Khóa 40, niên khóa 2015 – 2019) là tác giả của
Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân luật (chuyên ngành Luật Thương Mại) với đề tài:
“Chính sách khoan hồng theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2018” được
trình bày trong tài liệu này.
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
đượcthực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Phạm Trí Hùng, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Với khả năng và kiến thức chuyên môn cịn có những hạn chế nhất định nên
nội dung của khóa luận tốt nghiệp khơng tránh khỏi những thiếu xót. Tơi rất mong
sẽ nhận sự góp ý, chỉnh lý của quý thầy cô để củng cố hơn giá trị của khóa luận này.
Sinh viên thực hiện

Phạm Thị Út Lan


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

CQQLCT

Cơ quan quản lý cạnh tranh

CSKH

Chính sách khoan hồng


DN

DN

LCT

Luật Cạnh tranh

TTHCCT

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................5
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG5
THEO PHÁP LUẬT CẠNH TRANH .....................................................................5
1.1. Những khó khăn khi xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và tiền
đề xây dựng chính sách khoan hồng theo pháp luật cạnh tranh .......................5
1.1.1. Những khó khăn khi xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh .....5
1.1.2. Tiền đề xây dựng chính sách khoan hồng theo pháp luật cạnh tranh ...8
1.2. Tổng quan về chính sách khoan hồng theo pháp luật cạnh tranh ...........10
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm chính sách khoan hồng theo pháp luật cạnh
tranh ...................................................................................................................10
1.2.2. Ý nghĩa xây dựng và áp dụng chính sách khoan hồng .........................13
CHƯƠNG 2. CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT
CẠNH TRANH NĂM 2018 VÀ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN ...........................19
2.1. Chính sách khoan hồng theo Luật Cạnh tranh năm 2018 ........................19
2.1.1. Đối tượng áp dụng ...................................................................................19

2.1.2. Phạm vi và mức độ áp dụng ....................................................................21
2.1.3. Điều kiện áp dụng ...................................................................................23
2.1.4. Thủ tục áp dụng.......................................................................................26
2.2. Chính sách khoan hồng trong pháp luật một số quốc gia châu Á và kinh
nghiệm cho Việt Nam ..........................................................................................27
2.2.1. Chính sách khoan hồng tại Nhật Bản ....................................................28
2.2.2. Chính sách khoan hồng tại Hàn Quốc...................................................31
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về chính sách khoan hồng cho
pháp luật cạnh tranh của Việt Nam hiện nay ...................................................34
2.3.1. Kiến nghị về giải pháp mang tính chất định hướng ..............................35
2.3.2. Kiến nghị cụ thể hoàn thiện các quy định về chính sách khoan hồng .....
............................................................................................................................36


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................42
KẾT LUẬN ..............................................................................................................43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cạnh tranh được biết đến như một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh
tế thị trường. Một nền kinh tế phát triển địi hỏi một mơi trường cạnh tranh bình
đẳng, bởi đó chính là động lực cho các chủ thể kinh doanh khơng ngừng cải tiến để
có thể tồn tại và chiếm lĩnh được vị thế trên thị trường. Tuy nhiên, thực tế trước sự
ganh đua gay gắt và khốc liệt mà khơng ít DN đã cố tình “đặt ra luật chơi” thông
qua việc thỏa hiệp, câu kết với các đối thủ cạnh tranh khác hình thành nên các nhóm
cùng lợi ích. Trong khoa học pháp lý, việc thông đồng này được được gọi với cái
tên là “thỏa thuận hạn chế cạnh tranh” (TTHCCT).
Xuất phát từ tính chất bất hợp pháp trong hoạt động, nhằm né tránh trách nhiệm

pháp lý mà các TTHCCT ln được tổ chức “ngầm hóa”, chúng thường được che đậy
dưới những “bức màn bí mật’ tinh vi. Điều này trở thành bài tốn khó đặt ra cho các
cơ quan chức năng khi muốn vạch trần sự tồn tại các TTHCCT.1 Trước thách thức
trên, Luật Cạnh tranh (Luật số 23/2018/QH14) ngày 12/06/2018 (sau đây được ghi là
LCT 2018) đã ghi nhận một công cụ hữu hiệu được gọi là “chính sách khoan hồng”
(CSKH) nhằm đối phó với thỏa thuận thông đồng bất hợp pháp trên thị trường. Để
tạo động cơ thúc đẩy các bên trong thỏa thuận chủ động “xé rào” giúp tăng khả năng
phát hiện, điều tra và xử lý các hành vi TTHCCT bị cấm, nội dung khoan hồng cho
phép miễn hoặc giảm mức phạt cho một hoặc một số bên tham gia thoả thuận với
những điều kiện nhất định khi tự nguyện khai báo cho cơ quan cạnh tranh. Việc LCT
2018 bổ sung quy định về CSKH không chỉ giúp pháp luật cạnh tranh Việt Nam
“tiệm cận” với pháp luật của các nước trên thế giới mà sự ghi nhận này được đánh giá
là điểm mới tiến bộ với kỳ vọng sẽ tạo nên hành lang pháp lý nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật cạnh tranh, góp phần tạo lập một mơi trường cạnh tranh lành mạnh.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các vấn đề pháp lý về chính
sách cạnh tranh, trong đó bao gồm cả các quy định điều chỉnh CSKH đang ngày
càng được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Trong phạm vi tìm hiểu của bản thân,
tác giả nhận thấy cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào đi sâu nghiên cứu và
phân tích tổng hợp những nội dung pháp lý về CSKH theo quy định tại LCT 2018.
Do vậy, tác giả cho rằng cần thiết có một cơng trình nghiên cứu CSKH trong pháp
luật cạnh tranh hiện hành góp phần cùng các cơng trình trước đây hoàn thiện pháp
luật cạnh tranh Việt Nam.
1

Lê Thu Hà (2007), “Chính sách khoan hồng - Cơng cụ hữu hiệu khám pháp các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 95, tháng 03/2007, tr. 57.

Trang 1



Từ cơ sở những nhận định trên, tác giả quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài
“Chính sách khoan hồng theo quy định của Luật cạnh tranh 2018” với mong
muốn phân tích quy định pháp luật hiện hành về CSKH, qua đó đánh giá thực trạng
pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cịn kết hợp nghiên cứu một
cách tổng thể mơ hình CSKH theo pháp luật nước ngoài tại hai quốc Nhật bản và
Hàn Quốc (đại diện cho khu vực châu Á) trên phương diện so sánh, đánh giá với
pháp luật Việt Nam để đưa ra những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện, đưa CSKH trở
thành công cụ pháp lý hữu hiệu trong hệ thống pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam.
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Phạm vi trong nước
Trong phạm vi trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, có một số cơng
trình đã từng đưa ra nghiên cứu về CSKH trong pháp luật cạnh tranh, tiêu biểu là
luận văn cử nhân luật của các tác giả sau: Ca Hồ Anh Thư (Cơ sở lý luận và thực
tiễn xây dựng chính sách khoan hồng nhằm phá vỡ các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh tại Việt Nam, 2010), Võ Thị Kim Liên (Chính sách khoan hồng trong việc
kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, 2015), Nguyễn Thị Ngọc Châu (Cơ sở lý
luận của việc xây dựng chính sách khoan hồng nhằm phá vỡ các thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh tại Việt Nam, 2017)…. cùng một số bài viết chuyên ngành khác.
Trong phạm vi cả nước, cơ sở lý luận của CSKH cũng được đề cập một cách
sơ lược trong một số bài viết trên tạp chí sau đây: Lê Thị Thu Hà (Chính sách khoan
hồng công cụ hữu hiệu khám phá các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, 2007), Phan
Thành Cơng (Chính sách khoan hồng và tác động phá vỡ các – ten, 2008), Phạm
Hoài Huấn (Chính sách khoan hồng trong dự thảo luật cạnh tranh nhìn từ lý thyết
trị chơi, 2017),… Ngồi ra, tác giả cũng tìm kiếm được tài liệu từ một số cuộc hội
thảo chuyên ngành liên quan đến khía cạnh pháp lý này. Tuy nhiên, nhìn chung các
tài liệu trên mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá cơ sở lý luận mà chưa có cơng trình
nào tiến nghiên cứu tổng quan về mơ hình CSKH theo LCT 2018.
Phạm vi quốc tế
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về CSKH của nhiều học giả từ các quốc gia
khác nhau trên thế giới, đặc biệt tại những quốc gia và khu vự pháp lý đã xây dựng

và áp dụng thành công CSKH. Tác giả tra cứu và tiếp cận được một số tài liệu nước
ngoài liên quan trong việc xây dựng và thực thi CSKH trên thế giới. Đây có thể xem
là kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc thiết kế mô hình CSKH hiệu quả.

Trang 2


ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: đề tài giới hạn phân tích, đánh giá các quy định pháp
luật liên quan về hành lang pháp lý của CSKH và kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh
vực này với phạm vi nghiên cứu sau:
Phạm vi không gian: pháp luật tại Việt Nam và một số quốc gia phát triển
trong khu vực Châu Á có kinh nghiệm ban hành, thực thi pháp luật cạnh tranh, gồm
có Nhật Bản và Hàn Quốc.
Phạm vi thời gian: các quy định pháp lý mới nhất về cạnh tranh được các quốc
gia nêu trên hiện đang xây dựng và thi hành.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Với thái độ nghiên cứu nghiêm túc, nội dung và kết quả khóa luận mang đến giá
trị khoa học pháp lý và thực tiễn. Trước hết, đề tài nghiên cứu này là một bức tranh
tồn diện và tổng thể dưới góc độ lý luận về CSKH làm nguồn tài liệu học tập hoặc
tham khảo cho các bạn sinh viên, các học giả và cộng đồng. Không chỉ dừng lại ở
mức độ này, khóa luận cịn đi sâu nghiên cứu thực tiễn các quy định về CSKH theo
pháp luật nước ngoài nhằm đánh giá những mặt tiến bộ cùng những điểm hạn chế
trong mối liên hệ so sánh, đối chiếu với thực tiễn các quy định của Việt Nam. Trên cơ
sở đó, tác giả có căn cứ đưa ra những đề xuất, giải pháp sửa đổi, bổ sung phù hợp;
góp phần đưa luật cạnh tranh thành đạo luật cốt lõi của nền kinh tế thị trường.
Để thực hiện được những mục đích trên, đề tài phải giải quyết các nhiệm đặt ra:
- Tìm hiểu, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về CSKH tại Việt Nam.
- Nghiên cứu, phân tích các quy định nổi bật, đáng chú ý về mặt nội dung cũng
như thực tiễn thi hành CSKH trong pháp luật cạnh tranh của một số quốc gia tiêu

biểu trong khu vực Châu Á, cụ thể là Nhật Bản và Hàn Quốc.
- Tổng hợp, so sánh, đánh giá kinh nghiệm quốc tế để từ đó đưa ra một số đề
xuất, kiến nghị góp phần hồn thiện các quy định về CSKH trong LCT Việt Nam
hiện hành trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ của một số quốc gia trên thế giới trong
quá trình hội nhập quốc tế nhưng vẫn đảm bảo phù hợp với bối cảnh kinh tế, xã hội
của Việt Nam.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊM CỨU
Trên cơ sở các kiến thức lĩnh hội được, luận văn được xây dựng dựa trên sự
kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu phổ biến trong lĩnh vực luật học, bao gồm:

Trang 3


- Phương pháp nghiên cứu truyền thống như: phân tích, thống kê, tổng hợp, hệ
thống hóa, luận giải;
- Phương pháp so sánh luật học để nêu bật những nét đặc trưng, riêng biệt trong
hệ thống pháp luật của của một số quốc gia trên thế giới về đối tượng nghiên cứu;
- Phương pháp so sánh, đối chiếu được dùng để đánh giá kinh nghiệm nước
ngồi, từ đó rút ra đề xuất, giải pháp cho Việt Nam.

Trang 4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG
THEO PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
1.1. Những khó khăn khi xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và
tiền đề xây dựng chính sách khoan hồng theo pháp luật cạnh tranh
1.1.1. Những khó khăn khi xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Cạnh tranh xuất hiện với tư cách là một hiện tượng kinh tế, có tác động phản
ánh năng lực phát triển của kinh tế thị trường. Nói cách khác, nếu khơng có cơ chế
cạnh tranh thì nền kinh tế thị trường khó có thể vận hành một cách trơn tru được.2
Cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua, kình địch giữa các chủ thể nhằm tranh giành
cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình.3
Bản chất của cạnh tranh buộc các doanh nghiệp (DN) phải luôn nỗ lực điều chỉnh,
nâng cao năng lực để tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới. Tuy nhiên, với mong
muốn hạn chế áp lực cạnh tranh nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận mà khơng ít
chủ thể kinh doanh đã chọn một con đường dễ dàng hơn, đó là tiến hành câu kết,
dàn xếp với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường tạo nên “khối liên minh”
kiểm sốt các yếu tố cơ bản của q trình sản xuất, kinh doanh như: giá cả, sản
lượng, khách hàng, thị trường tiêu thụ,...và hành vi này được gọi với cái tên là “thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh” (TTHCCT).
TTHCCT là một trong các nhóm hành vi cơ bản được điều chỉnh bởi Luật
Cạnh tranh hay Luật Chống độc quyền của các quốc gia. Dưới góc độ pháp lý,
nhằm nhận diện các hành vi TTHCCT, một số nước và khu vực trên thế giới đã xây
dựng những khái niệm riêng. Xong, nhìn nhận một cách tổng quát, TTHCCT mang
bản chất là thoả thuận, hợp đồng hay sự câu kết giữa hai hoặc nhiều DN dưới bất
kỳ hình thức nào nhằm mục đích, có tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn
chế cạnh tranh trên thị trường4, nó tồn tại dưới hai loại hình:
(1)Thỏa thuận theo chiều ngang (cartel): là thỏa thuận câu kết giữa các chủ
thể kinh doanh trong cùng cấp độ (cùng khâu trong quá trình sản xuất và phân phối
trên thị trường). Ví dụ như, thỏa thuận giữa các nhà sản xuất, những người bán buôn
với nhau, giữa những người bán lẻ với nhau.
2

Viện nghiên cứu lập pháp (2017), Pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam – Thực trạng và giải phá hoàn thiện,
Hà Nội, tr. 3.
3
Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Pháp luật cạnh tranh Việt Nam, NXB Tư

pháp, tr. 8 - 24.
4
Bộ Công Thương (2017), Báo cáo kinh nghiệm quốc tế: So sánh pháp luật cạnh tranh một số nước trên thế
giới – bài học kinh nghiệm và đề xuất một số nội dung cơ bản trong Dự thảo Luật cạnh tranh (sửa đổi), tr. 29.

Trang 5


(2)Thỏa thuận theo chiều dọc (vertical agreement/vertical restraints): là thỏa
thuận hợp tác giữa các chủ thể kinh doanh khác cấp độ (ở những khâu khác nhau
của quá trình kinh doanh). Nhìn chung, các thỏa thuận theo chiều dọc phần lớn ít
gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường cạnh tranh hơn so với thỏa thuận theo
chiều ngang.5
Tại Việt Nam, trước kia Luật cạnh tranh (Luật số 27/2004/QH11) ngày
03/12/2004 (sau đây được viết là LCT 2004) chưa có khái niệm riêng về TTHCCT
cho đến khi LCT 2018 ra đời đã ban hành một quy định chung thống nhất về khái
niệm TTHCCT trong pháp luật quốc gia như sau: “TTHCCT là hành vi thỏa thuận
giữa các bên dưới mọi hình thức gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn
chế cạnh tranh”6 và nó bao gồm 11 loại hành vi khác nhau.7
Xét đến khía cạnh hiệu quả, các nghiên cứu kinh tế đã chứng minh, TTHCCT
ít hiệu quả hơn và nguy hại hơn so với cả độc quyền hay tập trung kinh tế theo
chiều ngang.8 Hậu quả tất yếu sau hành động “cố tình đặt ra luật chơi” có hại khơng
chỉ đối với q trình cạnh tranh giữa các DN trong nước nói riêng cũng như mơi
trường cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế nói chung, mà sự cấu kết này còn ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi người tiêu dùng (điển hình như vụ việc 12 DN Bảo
hiểm học sinh ở Khánh Hòa đã ký thỏa thuận ấn định giá dịch vụ bảo hiểm học sinh
để hạn chế cạnh tranh lẫn nhau được ký kết vào năm 2011).9 Xuất phát từ chính
những mối nguy hại trên mà TTHCCT còn được xem như căn bệnh ung thư của tất
cả các nền kinh tế.10 Không phải TTHCCT nào cũng bị coi là bất hợp pháp, bản
chất chỉ những TTHCCT gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh

tranh mới được xem là hành vi bị cấm theo pháp luật cạnh tranh.
Tuy nhiên, chúng ta cần quan tâm đến những mối lo ngại phát sinh trong quá
trình thực thi, khi mà thực tiễn cơ quan cạnh đã và đang phải đối mặt với muôn vàn
thách thức trong cơng tác điều tra, xử lý hành vi TTHCCT, có thể được khái qt
qua hai khó khăn dưới đây:

5

Bộ Cơng Thương (2012), Báo cáo rà soát các quy định của Luật cạnh tranh Việt Nam, tr. 6 -11.
Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2018.
7
Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018.
8
Nguyễn Anh Tuấn (2017), “Kinh nghiệm Quốc tế và vấn đề hồn thiện Luật Cạnh tranh của Việt Nam”,
Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3/2017.
9
Hội đồng cạnh tranh Việt Nam, “Giải quyết vụ việc 12 DN bảo hiểm vi phạm các TTHCCT
bịcấm”, />truy cập ngày 12/4/2019.
10
Graeme Samuel (2004), “Cracking cartels international and Australian Developments”,
truy cập ngày 13/4/2019.
6

Trang 6


- Thứ nhất, công tác thực thi pháp luật cạnh tranh cho thấy TTHCCT ngày
càng có xu hướng “ngầm hố” do các bên tham gia thoả thuận luôn muốn che giấu
hành vi vi phạm nhằm né tránh trách nhiệm pháp lý.
Khi thiết lập TTHCCT, ắt hẳn các thành viên luôn nhận thức được tính bất

hợp pháp trong hoạt động của mình. Do đó, các bên chủ động xây dựng kế hoạch
phối hợp hành động kỹ lưỡng, những “bức màn bí mật” sẽ được dựng lên để đề
phòng bị phát hiện và che dấu việc vận hành TTHCCT trong “bóng tối” hòng lẩn
tránh sự phát giác của cơ quan cạnh tranh. Điều này đã giải thích cho thực tế,
TTHCCT thường khơng thể “vắng bóng” các biện pháp: bảo mật thơng tin hay tiêu
hủy bằng chứng. Mặt khác, những “bức màn bí mật” ngày càng được xây dựng kiên
cố, hoàn hảo hơn nhờ sự phát triển của công nghệ - khoa học kỹ thuật khi mà hàng
loạt ứng dụng được ra đời đã đáp ứng nhu cầu trao đổi bảo mật của người dùng như:
whatsapp, signal, imessage, telegram, pryvate, ceerus,…. Quan ngại hơn, q trình
thống nhất ý chí cấu kết của các bên thường diễn ra vô cùng tinh vi, khi mà
TTHCCT có thể được thiết lập ngay tại phịng khách sạn hay một buổi triển lãm,
hoặc đơn giản thông qua điện thoại.11 Chính bởi vậy, việc phát hiện và thu thập
thơng tin, chứng cứ về hành vi TTHCCT ngày càng trở nên khó khăn hơn, đây được
xem là thách thức lớn đối với cơ quan cạnh tranh.12
- Thứ hai, nội dung và hình thức TTHCCT ln được thay đổi bởi sự sáng tạo
của các chủ thể kinh doanh theo thời gian và pháp luật khơng thể dự liệu một cách
tuyệt đối.
Ngồi liệt kê 10 loại hành vi cụ thể được xem là TTHCCT, LCT 2018 còn tồn tại
một điều khoản “phòng hờ” mang tính bao quát khi quy định TTHCCT là “thỏa thuận
khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh”.13 Bên cạnh đó,
pháp luật cạnh tranh các nước không đặt ra yêu cầu về hình thức của TTHCCT mà đều
ngầm định TTHCCT có thể là công khai hoặc thỏa thuận ngầm. Trong môi trường
cạnh tranh khốc liệt, với sự “nhạy bén” trong tư duy kinh doanh nhằm đạt được mục
tiêu lợi nhuận nên phương thức vận hành của DN cũng có xu hướng biến đổi khơng
ngừng. Ngồi ra, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng là lý do khiến
cho các biểu hiện của hành vi TTHCCT ngày càng “tiến hóa”. Nó vơ cùng phong phú,
11

OECD (2001), “Using Leniency to Fight Hard Core Cartels”, bài viết được đăng tải trên website của tổ
chức liên chính phủ: Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic Cooperation and

Development - OECD). Tổ chức này gồm 34 nước thành viên và 70 nước không phải là thành viên nhưng
vẫn thiết lập hợp tác, trao đổi kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề kinh tế cũng như các vấn đề chung khác,
trong đó có Việt Nam, truy
cập ngày 13/4/2019.
12
Bộ Công Thương, tlđd (5), tr. 56.
13
Khoản 11 Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018.

Trang 7


đa dạng, không đơn giản chỉ là hành vi được mơ tả chính thức bằng văn bản như: hợp
đồng, biên bản thỏa thuận, bản cam kết,…ghi nhận về điều kiện, nội dung thông đồng.
Thế nên, không thể quy kết các DN đã thỏa thuận với nhau chỉ đơn giản qua các hành
vi giống nhau trên thị trường, hoặc khi các DN đã giao dịch với nhau nhưng không đưa
ra “một cam kết có chủ ý về một kế hoạch chung nào đó”. Vì vậy, khơng tránh khỏi
trường hợp cơ quan có thẩm quyền “bối rối” khi xử lý các hành vi mang bản chất
TTHCCT nếu không nhận được sự trợ giúp đặc lực qua việc tiết lộ thông tin, nguồn
chứng cứ từ “người trong cuộc” - các bên trong TTHCCT.
Thêm vào đó, với khuynh hướng quốc tế hóa, các TTHCCT của một DN có
thể được vận hành khơng chỉ phân định trong phạm vi biên giới của một quốc gia,
thậm chí, TTHCCT ở quốc gia này có thể được sử dụng để chống đỡ cho TTHCCT
tại một quốc gia khác.14 Điều này cho thấy các TTHCCT ngày nay không chỉ có xu
hướng mở rộng về quy mơ mà tính chất phức ngày càng tăng cao, điều này đã tạo
nên những thách thức không hề nhỏ trong công cuộc “truy lùng” xử lý TTHCCT
của cơ quan có thẩm quyền.
Tóm lại, chính những khó khăn trên đã trở thành bài tốn khó đặt ra cho các
cơ quan chức năng khi muốn vén “bức màn bí mật” của các TTHCCT mà minh
chứng rõ ràng nhất thể hiện thông qua số lượng vụ việc TTHCCT có quyết định xử

lý rất ít ỏi. Thực tế, tại Việt nam theo thống kê của Cục quản lý cạnh tranh, tính đến
hết năm 2017, Cục này chỉ mới điều tra chính thức và xử lý đối với 02 trường hợp,
đó là: (1) Vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các DN bảo hiểm trong lĩnh
vực bảo hiểm xe cơ giới tại Phan Thiết được ký kết vào ngày 15/09/2008 và, (2) Vụ
việc hạn chế cạnh tranh trong bảo hiểm học sinh của 12 DN Khánh Hòa được ký kết
vào ngày 25/05/2011.15
1.1.2. Tiền đề xây dựng chính sách khoan hồng theo pháp luật cạnh tranh
Cho đến nay, các TTHCCT đã bị xử lý tại Việt Nam đều là các thỏa thuận
công khai, cho thấy khả năng các DN có những TTHCCT nhưng chưa bị phát hiện
là vơ vùng cao. Bản thân TTHCCT không phải là một “khối liên minh” hồn hảo
mà thực tế ln tồn tại những kẽ hở tiềm tàng khiến nó đứng trước nguy cơ rơi vào
trạng thái bất ổn. Thế nên, TTHCCT hoàn toàn có thể bị vơ hiệu hóa nếu pháp luật
cạnh tranh đánh trúng vào các điểm yếu nội tại của nó.

14

Grant Butler (2005), The Supreme Court's Destruction of Incentive to Participate in the Justice
Department's Cartel Leniency Program, tr. 5.
15
Bộ Công Thương, Báo cáo đánh giá tác động của dự án Luật cạnh tranh sửa đổi, đăng tải trên trang thông
tin điện tử Dự thảo online của Quốc hội.

Trang 8


Để có thể xây dựng và duy trì một TTHCCT, yếu tố “lịng tin” chính là một
điều kiện tiền đề dẫn đến sự thành công của các TTHCCT. Do không có được sự
đảm bảo của pháp luật nên các bên trong thỏa thuận luôn đứng trước sự nghi ngờ
lẫn nhau. Lòng tin trong khối liên minh được xây dựng trên sự đối nghịch về bài
tốn lợi ích giữa các thành viên xét trên tương quan giữa lợi ích dự kiến mà thành

viên đó có thể thu được nếu tiếp tục duy trì TTHCCT so với lợi ích nếu thành viên
“xé rào”.16 Và tất nhiên, động cơ phản bội sẽ càng gia tăng khi tương quan lợi ích
của việc vi phạm thỏa thuận là lớn hơn, điều này đẩy các TTHCCT rơi vào trạng
thái lỏng lẻo dẫn đến nguy cơ bị tan rã. Để nhận diện TTHCCT từ bên ngoài, các cơ
quan có thẩm quyền phải sử dụng rất nhiều biện pháp điều tra, kể cả việc cài người
vào làm việc tại các DN nhằm thu thập thông tin về các thỏa thuận. Xong, các biện
pháp điều tra này tốn nhiều thời gian, chi phí mà nhiều khi lại khơng đem lại hiệu
quả cao.17 Vì vậy, cần xây dựng một cơ chế để các bên tự phá vỡ thỏa thuận giúp
gia tăng hiệu quả phát hiện, xử lý TTHCCT là biện pháp tối ưu hơn cả.
Một cơ chế xử lý TTHCCT hiệu quả đòi hỏi phải giải quyết được yêu cầu trên.
Trước đây, LCT 2004 mới chỉ có quy định về các tình tiết giảm nhẹ mức độ xử lý vi
phạm quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh.18 Tuy nhiên, thực tiễn thi
hành LCT 2004 cho thấy, quy định về tình tiết giảm nhẹ khơng giúp khám phá ra
nhiều vụ việc vi phạm do chưa tạo sức hút đủ để biến thành động cơ và áp lực lớn
làm cho DN tham gia thỏa thuận chủ động trình báo, cung cấp thông tin về thỏa
thuận mà họ tham gia.19 Trong khi đó, tại nhiều quốc gia trên thế giới đã thông qua
và áp dụng thành công CSKH nhằm khuyến khích các DN và cá nhân tiết lộ chứng
cứ quan trọng làm cơ sở cho việc phát hiện, điều tra, xử lý các TTHCCT. Xuất phát
từ sự cần thiết tất yếu nên LCT 2018 đã bổ sung quy định về CSKH. Theo đó, DN
tự nguyện khai báo giúp CQQLCT phát hiện, điều tra và xử lý hành vi TTHCCT bị
cấm sẽ được miễn hoặc giảm mức xử phạt theo CSKH.
Việc tồn tại một CSKH tạo ra một động lực đủ mạnh để các thành viên trong
TTHCCT tự “đào tẩu” khỏi khối liên minh, nó được xây dựng trên nguyên tắc của
02 cơ chế:
16

Joseph E. Harrington (2008), Optimal Corporate Leniency Programs, tr. 4.
Viện nghiên cứu lập pháp (2017), Pháp luật về kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh một số
nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, Tài liệu phục vụ Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIV, Hà
Nội, tháng 10/2017, tr.10.

18
Theo Nghị định 71/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21 tháng 07 năm 2014 về quy định cho tiết luật cạnh
tranh và xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh, mức giảm nhẹ khung hình phạt theo là 15% tổng mức tiền phạt đối
với mỗi DN vi phạm cho mỗi tình tiết giảm nhẹ.
19
Bộ Công Thương (2017), “Bản thuyết minh chi tiết Dự thảo Luật cạnh tranh sửa đổi”, Tài liệu kèm theo
Dự thảo trình tại phiên họp thứ 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, tháng 09/2017, đăng tải trên trang thông
tin điện tử Dự thảo online.
17

Trang 9


- Cơ chế nghịch lý tù nhân: Đây là cơ chế về tình thế lưỡng nan đặt trong
trường hợp có hai tù nhân đang bị điều tra về một hành vi phạm tội. Cách thưởng
phạt trong trò chơi này là bên có thái độ hợp tác tố cáo hành vi phạm tội với cơ
quan chức năng sẽ nhận được sự khoan dung, còn bên im lặng, trốn tránh trách
nhiệm sẽ phải chịu hình phạt nặng nề hơn.20 Áp dụng tương tự cơ chế này, để các
bên trong TTHCCT chủ động “gõ cánh cửa” của CQQLCT cung cấp thông tin về sự
tồn tại của thỏa thuận thì cần tạo ra một mối nguy cơ làm cho các thành viên phải lo
sợ khi không khai báo, nhưng nếu lựa chọn con đường phản bội các thành viên khác
thì thành viên khai báo sẽ nhận được sự khoan dung từ pháp luật.
- Cơ chế “cây gậy” và “củ cà rốt”: Cơ sở của cách tiếp cận này xuất phát từ
tương quan hai yếu tố: áp đặt các biện pháp chế tài nghiêm khắc mang tính răn đe
(nghĩa là phải phạt thật nặng) đối với các thành viên của TTHCCT – tức biện pháp
trừng phạt (“cây gậy”), đồng thời phải tạo ra cơ chế khuyến khích các bên tham gia
TTHCCT rút khỏi thỏa thuận và báo cáo cho CQQLCT về các thỏa thuận đó – tức
biện pháp động viên (“củ cà rốt”). Việc kết hợp hai yếu tố này chính là cách tiếp
cận “cây gậy và củ cà rốt” trong việc phát hiện và xử lý TTHCCT mà Tổ chức Hợp
tác và phát triển kinh tế (OECD) thường khuyến nghị áp dụng.21 Theo đó, động cơ

phản bội của các thành viên sẽ ngày càng gia tăng khi tương quan lợi ích giữa việc
lựa chọn vi phạm thỏa thuận là xứng đáng hơn lợi ích có thể nhận được nếu duy trì
thỏa thuận với nguy cơ phải chịu hình phạt nặng nề.
Như vậy, TTHCCT dù được che đậy tinh vi, hồn hảo tới đâu thì thực tế vẫn
tồn tại những điểm yếu khiến nó có nguy cơ bị tan rã bất cứ lúc nào. Nếu tận dụng
được các kẽ hở đó sẽ khiến cho TTHCCT được lơi ra ánh sáng. Đây cũng chính là
tiền đề xây dựng CSKH – công cụ phá vỡ các TTHCCT, chính sách này được áp
dụng như một dạng cơ hội (opportunity) dành cho các thành viên trong thỏa thuận
có thái độ hợp tác thiện chí với các cơ quan thực thi luật cạnh tranh, kết quả họ sẽ
nhận được những “phần thưởng” nhất định.
1.2. Tổng quan về chính sách khoan hồng theo pháp luật cạnh tranh

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm chính sách khoan hồng theo pháp luật
cạnh tranh
20

Phạm Hồi Huấn (2017), “Chính sách khoan hồng trong dự thảo luật cạnh tranh nhìn từ lý thuyết trị chơi”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11 (339), tr. 35 -36.
Ma trận của tình thế lưỡng nan được thể hiện như sau: (1) Nếu cả hai tù nhân tố cáo lẫn nhau, mỗi người sẽ
bị phạt tù 5 năm. (2) Nếu cả hai cùng im lặng, việc truy tố sẽ rất khó khăn, vì vậy các tù nhân có quyền được
bào chữa và mong đợi mức phạt tù tối đa là 2 năm. (3) Nếu một tù nhân tố cáo và người cịn lại thì khơng,
người tố cáo sẽ chỉ bị 1 năm tù giam, trong khi người kia thì sẽ bị phạt tù 10 năm.
21
Nguyễn Anh Tuấn, tlđd (8).

Trang 10


Hiện nay, hơn 50 quốc gia và khu vực pháp lý đã thông qua CSKH.22 Hoa Kỳ
là quốc gia đầu tiên trên thế giới đưa ra CSKH và áp dụng trong cùng năm 1978.

Ban đầu nó được ra đời với sự hồi nghi về tính hiệu quả, xong phải mất một thời
gian (đến khi chính sách này được sửa đổi, cải cách vào năm 1993) nó mới thực sự
trở thành một cơng cụ thực thi mạnh mẽ. Sau đó, CSKH được mở rộng áp dụng tại
nhiều khu vực pháp lý trên toàn thế giới, trước hết ở châu Âu với Thông báo khoan
hồng đầu tiên của Ủy ban châu Âu được thơng qua vào năm 1996, sau đó là châu Á
và châu Mỹ Latinh. 23
Theo pháp luật của Liên minh châu Âu, khoan hồng được hiểu là việc giảm
tiền phạt, hình thức khoan hồng đầy đủ nhất là miễn trừ hoàn hoàn. Ở những nơi
khác, nơi mà TTHCCT bị xử lý trách nhiệm hình sự thì khoan hồng có thể được
xem xét ở khía cạnh miễn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc miễn trách nhiệm bồi
thường của các cá nhân.24 Còn theo mạng lưới cơ quan cạnh tranh ICN đã định
nghĩa: CSKH như là một sự trao đổi giữa nhà nước với các. Theo đó, nhà nước cam
kết sẽ giảm hoặc miễn các chế tài đối với hành vi vi phạm để đổi lấy sự báo cáo và
hợp tác của thành viên với cơ quan điều tra.
Tuy cịn có sự khác nhau trong các quy định cụ thể tại các quốc gia và khu vực
pháp lý, nhưng nhìn chung tất cả đều có sư thống nhất trong cách hiểu về bản chất của
CSKH. Đây không phải là cơ chế áp đặt từ phía nhà làm luật mà xuất phát từ chính bài
tốn lợi ích của các thành viên trong tương quan giữa việc tiếp tục duy trì TTHCCT so
với việc lựa chọn bội ước để đi chệch hướng khỏi thỏa thuận ban đầu. CSKH có thể
hiểu khái quát như sau: là một cơ chế do Nhà nước quy định dành quyền giảm trừ hoặc
miễn trừ hình phạt cho các thành viên tham gia TTHCCT theo những điều kiện nghiêm
ngặt nhằm đổi lấy sự hợp tác và/ hoặc cung cấp thơng tin cho CQQLCT. Từ đó, CSKH
có ý nghĩa là hành lang pháp lý giúp cơ qua nhà nước có thẩm quyền phá vỡ, xử lý hiệu
quả các TTHCCT và đưa thị trường trở lại quỹ đạo bình thường của nó.
Bao qt mơ hình CSKH là chương trình khoan hồng (leniency programme).
Chương trình khoan hồng là một hệ thống được công bố rộng rãi, bao gồm việc xây
dựng cơ chế CSKH trong luật cùng với những biện pháp, công cụ hỗ trợ để nhằm
thực thi CSKH có hiệu quả trên thực tế.25 Với cách hiểu trên, CSKH được xem là
22


Fair Trade Commission, Annual Report 2018, tr. 54
/>ode=BBST11 truy cập ngày 22/04/2019.
23
Donald C. Klawiter, “The U.S. Corporate Leniency Policy: It is Time for a Renaissance” https://www.
competitionpolicyinternational.com/the-u-s-corporate-leniency-policy-it-is-time-for-a-renaissance/ truy cập
ngày 22/4/2019.
24
OECD (2002), “Fighting Hard Core Cartels: Harm, Effective Sanctions and Leniency Programmes”, tr. 8,
truy cập ngày 15/3/2017.
25
Wouter P.J. Wils (2006), tlđd (25), tr.30.

Trang 11


một bộ phận của CTKH, gồm quá trình nội bộ soạn thảo, thực thi CSKH, quy trình
chấp nhận hoặc từ chối khoan hồng.26 Một cách tổng quát, CSKH mang những đặc
điểm cơ bản sau đây:
- Phạm vi áp dụng: CSKH chỉ được áp dụng cho chế định về TTHCCT mà
không áp dụng tràn lan cho tất cả các hành vi hạn chế cạnh tranh khác như: lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền hay tập trung kinh tế và
đương nhiên cũng sẽ không đặt ra cho trường hợp hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Lý giải cho việc giới hạn phạm vi trên xuất phát từ việc đánh giá mức độ
nguy hiểm của hành vi, liệu rằng tính chất vi phạm có “xứng đáng” cho hưởng sự
khoan dung của pháp luật. Theo đó, nếu áp dụng cho cả các hành vi vi phạm pháp
luật cạnh tranh khác sẽ dẫn đến sự dễ dãi trong việc tuân thủ pháp luật của DN.27
- Mục đích: CSKH có thể phá vỡ quy tắc im lặng của các TTHCCT.28 Theo
đó, CSKH làm xói mịn niềm tin giữa các thành viên, buộc họ bội ước lẫn nhau để
theo đuổi lợi ích riêng khiến khối liên minh khó duy trì và sớm bị triệt phá. Tóm lại,
CSKH được xây dựng với mục đích khuyến khích các thành viên tham gia

TTHCCT chủ động tố cáo hành vi vi phạm, hợp tác với cơ quan có thẩm quyền,
cung cấp thơng tin cần thiết cho cuộc điều tra để phá vỡ những thỏa thuận bí mật.
- Đối tượng áp dụng: Các quốc gia thông qua CSKH thông thường đều quy
định về đối tượng được áp dụng CSKH là các DN. Xong, một số nước trên thế giới
cũng dành CSKH cho cá nhân là giám đốc, lãnh đạo, những người lao động trong
công ty tham gia TTHCCT nhằm khuyến khích các cá nhân chủ động lên tiếng khai
báo về hành vi vi phạm. Điển hình phải kể đến CSKH tại Hoa Kỳ, cho đến nay quốc
gia này áp dụng CSKH song song cho cả DN (Corprrate Leniency Policy) và cá
nhân (Individual Leniency Policy). Theo đó, cá nhân nếu nhân danh chính mình tự
nguyện khai báo sẽ được miễn truy tố trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn một số điều
kiện nhất định.29
- Mức độ áp dụng: Để thu hút được sự hợp tác và khai báo của các bên,
CSKH được thiết kế không chỉ dừng lại ở mức độ giảm trừ hình phạt mà cịn bao
gồm cả phần thưởng miễn trừ hồn tồn mức xử phạt. Ngoài ra, một số quốc gia
26

ICN, “Compilation of “Good Practices””, tr. 10,
Xem tại truy
cập ngày 25/4/2019.
27
Danh Phạm Mỹ Duyên, Đặng Hoa Trang (2018), Một số bình luận về chính sách khoan hồng theo luật
cạnh tranh 2018, tài liệu hội thảo “Những điểm mới của Luật Cạnh tranh 2018 và góp ý cho Dự thảo Nghị
định hướng dẫn Luật Cạnh tranh 2018” của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 84.
28
OECD (2001), “Using Leniency to Fight Hard Core Cartels”
Xem tại truy cập ngày
26/04/2019.
29
Individual Leniency Policy, Phần A tại />
Trang 12



như Hoa Kỳ mức độ khoan hồng còn đặt ra trong việc miễn giảm trách nhiệm hình
sự cho cá nhân.
- Điều kiện áp dụng: Để được hưởng CSKH, đối tượng xin hưởng nhìn chung
phải thỏa mãn một số điều kiện cơ bản sau:
+ Sau khi khai báo phải chấm dứt hành vi vi phạm, trừ trường hợp tiếp tục
tham gia vào thỏa thuận theo sự sắp xếp của cơ quan có thẩm quyền nhằm phục vụ
cơng tác điều tra.
+ CSKH có phạm vi áp dụng giới hạn cho nhóm đối tượng đầu tiên tiến hành
nộp đơn xin hưởng khoan hồng, cụ thể số lượng bao nhiêu tùy thuộc vào quy định
của từng quốc gia.30 Thơng thường, việc miễn trừ hồn tồn hình phạt chỉ dành cho
đối tượng nộp đơn đầu tiên, những đối tượng nộp đơn tiếp sau đó chỉ được giảm
mức phạt với những tỷ lệ nhất định phụ thuộc vào các tiêu chí kèm theo như: thời
điểm khai báo; mức độ hợp tác; giá trị của các thông tin, chứng cứ đã cung cấp;
thiện chí trong việc chấm dứt hành vi vi phạm… Mặt khác, CSKH trong nhiều quốc
gia còn xét đến vai trò của thành viên nộp đơn đối với quá trình hình thành và hoạt
động của thỏa thuận. Theo đó, thành viên chủ mưu, cầm đầu hoặc ép buộc các DN
khác tham gia thỏa thuận sẽ bị loại khỏi nhóm đối tượng được hưởng khoan hồng.
+ Tại thời điểm khai báo, cơ quan điều tra chưa nhận được thông tin nào về
hành vi vi phạm từ bất kỳ nguồn nào hoặc các tài liệu, chứng cứ hiện có chưa đủ để
cơ quan có thẩm quyền khởi xướng một cuộc điều tra.
1.2.2. Ý nghĩa xây dựng và áp dụng chính sách khoan hồng
CSKH sau khi ra đời đã khẳng định được vai trò quan trọng trong việc tạo nên
hành lang pháp lý nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh. Theo đó, việc
xây dựng và áp dụng CSKH nhằm đối phó với các hành vi TTHCCT sẽ đem lại
những mặt tích cực, bên cạnh đó cũng tồn tại một số mặt tiêu cực sau đây:
1.2.2.1. Tích cực
>>> Cơng cụ hữu hiệu hỗ trợ cơ quan điều tra tăng cường thu thập chứng
cứ và phá vỡ TTHCCT


30

Có sự khác biệt về số lượng đối tượng được hưởng CSKH trong quy định của các quốc gia khác nhau, ví
dụ như tại Hoa Kỳ CSKH chỉ miễn trừ cho chủ thể đầu tiên khai báo với cơ quan điều tra. Việc miễn trừ
trong trường hợp này là miễn trừ hoàn hoàn trách nhiệm, dù là cá nhân hay DN nếu thỏa mãn điều kiện được
hưởng CSKH sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và khơng phải nộp bất kỳ khoản tiền phạt nào. Trong
khi đó, tại Nhật Bản, số lượng đối tượng hưởng CSKH có thể lên tới năm DN.

Trang 13


Xuất phát từ điểm mấu chốt là TTHCCT mang bản chất câu kết, thỏa thuận
dưới hình thức các “hợp đồng bất chính”31 nên các DN có khuynh hướng che dấu
TTHCCT để né tránh sự trừng phạt của pháp luật. Do vậy, các TTHCCT trở nên
khó bị phát hiện, xử lý bởi CQQLCT thiếu chứng cứ để có thể khởi xướng cuộc
điều tra. CSKH đem đến sự chủ động khai báo TTHCCT từ chính những người
trong cuộc nếu họ muốn thốt khỏi việc chịu chế tài hoặc muốn nhận giảm trừ hình
phạt. Mặt khác, các nguồn tin từ người trong cuộc thường mang tính chính xác, có
giá trị cao (nhất là những thông tin mật mà hoạt động điều tra thường khơng thể tìm
ra) vì họ phải đối mặt với nguy cơ mất “phần thưởng” nếu cung cấp thông tin sai
lệch. Vậy nên việc thu thập thông tin từ CSKH sẽ giúp CQQLCT có được nguồn
chứng cứ “đáng tin” để có thể đâm xuyên bức tường tối của các TTHCCT. Qua đó,
các TTHCCT sẽ mất ổn định, khó khăn hơn để duy trì, tăng nhu cầu giám sát tốn
kém32 và hậu quả sớm muộn cũng bị phá vỡ. Mặt khác, khi nhận thức đúng đắn tác
động mà CSKH mang lại, các bên trong thỏa thuận có thể tính đến con đường rút lui
an toàn khi gia nhập vào một TTHCCT nào đó, bằng cách lưu giữ chứng cứ ngay từ
ban đầu. Và hành động này sẽ hỗ trợ CQQLCT dễ dàng phát hiện, điều tra, xử lý
các TTHCCT.33
>>> Cản trở hình thành các TTHCCT

CSKH còn đem tới tác động kép khi không những thu hút đáng kể sự khai báo
và hợp tác mà còn làm tăng mối lo ngại bị phản bội, bị tố cáo của các bên trong thỏa
thuận đối với trường hợp các DN dự định thiết lập một TTHCCT trên thị trường.
Nguyên do là vì các DN sẽ tỏ ra dè chừng khi các thành viên khác có thể lựa chọn
quyền hưởng CSKH, và đương nhiên xác suất TTHCCT bị phát hiện tăng cao. Điều
này khiến cho các thành viên phải cân nhắc về việc thành lập, gia nhập vào
TTHCCT do tỷ lệ thành cơng về lợi ích khi hợp tác bị thu hẹp và đối mặt với nguy
cơ trả giá rất cao. Hay nói cách khác, bên cạnh hiệu quả gia tăng xác suất bị phát
hiện trong hiện tại thì chính sách này cịn làm giảm tần số xuất hiện TTHCCT trong
tương lại 34 bởi các DN ít có lý do để bắt tay hợp tác thơng đồng với nhau hơn. Như
vậy, đây là một quy định hợp lý vì nó có tác dụng ngăn chặn việc hình thành các
TTHCCT ngay từ đầu.
31

Phan Thành Cơng, Chính sách khoan hồng và tác động phá vỡ các – ten”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
2(117), tr. 55.
32
Wouter P.J. Wils (2006), tlđd (25), tr.23.
33
Nguyễn Anh Tuấn (2013), “Cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng chính sách khoan hồng theo luật cạnh tranh
của một số quốc gia trên thế giới và đề xuất bổ sung cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, số 1 (74), tr. 47.
34
Nathan H. Miller (2009), “Strategic Leniency and Cartel Enforcement”
Xem tại truy cập ngày 122/4/2019.

Trang 14


>>> Cắt giảm chi phí tố tụng

Ngồi hai ảnh hưởng tích cực trên, CSKH cịn giúp tiết kiệm cho phí cho giai
đoạn xét xử vì nó xác nhận sự “thú tội” về hành vi vi phạm và chấp nhận hình phạt.
Nhìn nhận một cách khái quát, CSKH tạo nên cơ chế tương tự chế định về “thỏa
thuận nhận tội” (hay còn gọi là nguyên tắc mặc cả nhận tội) trong pháp luật hình sự
của một số quốc gia. Theo nguyên tắc này, cơng tố viên có quyền thỏa thuận với
luật sư bào chữa của bị cáo về nội dung buộc tội, nếu như bị cáo nhận tội thì cơng tố
viên phải đồng ý không truy tố những tội khác (trong trường hợp bị cáo phạm nhiều
tội) hoặc bỏ qua một số tình tiết của việc phạm tội nhằm giảm nhẹ hình phạt cho bị
cáo. Theo đó, việc “thú tội” thể hiện thái độ thừa nhận hành động phạm pháp của
mình, đồng ý hợp tác điều tra, bên cạnh đó bên khai báo cịn từ bỏ một số quyền tố
tụng, đơi khi bao gồm cả quyền kháng cáo35 và điều này giúp cho công cuộc xử lý
hành vi vi phạm tiết kiệm về nhiều thời gian, chi phí cũng như nguồn lực.
>>> Đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên đã chịu thiệt hại từ hoạt
động của TTHCCT
Khi các TTHCCT bị đưa ra ánh sáng thì các bên trong thỏa thuận sẽ phải gánh
chịu trách nhiệm cho hành vi mà chính mình đã gây ra, trong đó bảo gồm cả trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng nếu điều kiện về bồi thường là một
trong những điều kiện hưởng khoan hồng (ví dụ tại Hoa Kỳ, bồi thường cho người
thiệt hại được xem là một trong những căn cứ để xem xét cho DN nào đó được
hưởng CSKH ngoài các căn cứ khác về thời điểm khai báo, giá trị chứng cứ,…).
Vậy nên, trong một phạm vi nào đó, CSKH giúp đem lại sự cơng bằng cho những
chủ thể đã phải gánh chịu thiệt hại do hành vi TTHCCT gây ra thông qua cơ chế bồi
thường thiệt hại. Qua đó, quy định này giúp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
cạnh tranh, góp phần xây dựng nên một mơi trường cạnh tranh đảm bảo được yếu tố
bình đẳng, lành mạnh trong thị trường.
1.2.2.2. Tiêu cực
Phải kể đến hai sự phản đối mạnh mẽ nhất về nguyên tắc được nêu ra để
chống lại việc xây dựng CSKH, cụ thể: một là, cơ chế này tạo nên bất công khi
người vi phạm thoát khỏi sự trừng phạt và hai là, xuất hiện việc đối xử bất công
bằng giữa người được hưởng CSKH và các bên còn lại trong TTHCCT. Những

quan điểm này cho rằng, CSKH cho phép một hoặc một số bên vi phạm vẫn được

35

OECD (2008), “Policy BriefPlea Bargaining and Settlement of Cartel Cases”
Xem tại truy cập ngày 24/4/2019.

Trang 15


miễn hoặc giảm trừ hình phạt sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả răn đe, trừng trị.36
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách thiết thực, việc đánh đổi của CSKH được xem là
thỏa đáng, chấp nhận được khi mà cho phép khoan dung chế tài cho bên vi phạm
nhưng mặt khác đem lại lợi ích cho thị trường và người tiêu dùng thông qua việc
phát hiện, điều tra, xử lý các TTHCCT. Ngoài ra, việc thiết kế CSKH cũng phải
đảm bảo được yêu cầu về tính chất “phần thưởng tương xứng”. Theo đó, tùy thuộc
vào các điều kiện khoan hồng khác nhau: thái độ hợp tác, thời điểm khai báo, giá trị
chứng cứ cung cấp,… mà các thành viên tiến hành thú tội sẽ nhận được mức độ
khoan hồng khác nhau. Bên cạnh đó, chế tài xử phạt khác sẽ được xây dựng và áp
dụng thật nghiêm khắc để đủ sức bù đắp cho những khoản miễn, giảm. Tóm lại, cần
cấp khoan hồng trong mức cần thiết kèm theo đó là những điều kiện hưởng nghiêm
ngặt để nhận lấy tinh thần hợp tác tích cực, trung thực của các bên trong thỏa thuận,
hướng tới đảm bảo được mục đích đề ra trong việc xây dựng CSKH.37
Mối quan ngại thứ hai khi áp dụng CSKH là lo ngại chính sách này sẽ bị lợi
dụng thích nghi khi các DN học được “luật chơi”. Chế tài nặng nề trong các vụ việc
cạnh tranh hồn tồn có thể gây khó khăn nghiêm trọng hoặc thậm chí loại bỏ thành
viên nào đó trong TTHCCT khỏi cuộc chơi trên thị trường, và những DN sống sót
hồn tồn có thể tận dụng một mơi trường dễ chịu hơn nhiều sau cơn bão, từ đó tạo
nên cục diện thị trường mới, với những quyền lực thị trường hoặc vị trí thống lĩnh
mới.38 Vì vậy, thực tế khơng loại trừ trường hợp DN tham gia TTHCCT chủ động

khai báo, đề nghị hưởng CSKH với động cơ khơng tích cực, nhằm triệt hạ đối thủ
cạnh tranh hay trường hợp các bên trong thỏa thuận nhận thấy có nguy cơ bại lộ nên
tiến hành khai báo hàng loạt. Một kịch bản khác, các DN có thể cố tình tạo lập các
TTHCCT hịng thu lại một khoản lợi ích nhất định, sau đó sẽ tiến hành khai báo để
được nhận khoan hồng và đương nhiên, lợi ích bất chính mà họ nhận được sẽ phải
lớn hơn khoản tiền phạt có thể bỏ ra khi đã được hưởng khoan hồng. Do đó, việc
xây dựng và thực thi CSKH trong khuôn khổ pháp luật cạnh tranh cần phối hợp chặt
chẽ với cơ chế xử lý vi phạm và những tính tốn, cân nhắc cho mục tiêu cao nhất là
đem lại môi trường cạnh tranh lành mạnh, hiệu quả. Theo đó, CSKH cần được quy
định theo một trình tự thủ tục chi tiết về điều kiện tiếp nhận, điều kiện cho hưởng
khoan hồng cũng như cần có cơ chế kiểm tra động cơ khai báo để tránh những ảnh
hưởng không tốt đối với thị trường. Một trong những giải pháp đó là CSKH chỉ

36

Mandy Regenspurg (2012), Bachelor Thesis “The Effectiveness of Corporate Leniency Programs - A
proposal for experimental research, tr. 10.
37
Wouter P.J. Wils, tlđd (25), tr. 31.
38
Đồn Tử Tích Phước (2008), Bình luận về cartel và chính sách khoan dung, Tài liệu tọa đàm ngày
28/11/2008 trên trang điện tử Cục Quản lý cạnh tranh.

Trang 16


được áp dụng đối với DN khơng có hành vi cưỡng ép người DN khác tham gia vào
thỏa thuận hoặc khơng phải là thành viên đóng vai trị lãnh đạo trong thỏa thuận đó.

Trang 17



KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
TTHCCT là “một dạng hợp đồng” có sự thống nhất ý chí cùng hành động giữa
các chủ thể tham gia. Tuy nhiên, chính sự đối nghịch với quy luật thị trường là cạnh
tranh lành mạnh, bình đẳng và mối nguy hại mang lại cho nền kinh tế nói chung đã
làm nó khác với các dạng hợp đồng khác, đó là tính trái pháp. Xuất phát từ tính chất
đặc thù trên mà TTHCCT thường có xu hướng “ngầm hóa”, các bên trong thỏa
thuận ln tìm cách che dấu hành vi vi phạm để có thể trốn tránh trách nhiệm pháp
lý; điều này làm cho cơ quan cạnh tranh khó khăn trong việc phát hiện và lần ra dấu
vết vi phạm. Tận dụng được các kẽ hở của TTHCCT, lấy đó làm tiền đề xây dựng
một cơ chế giúp phá vỡ hoạt động của các TTHCCT mà mơ hình CSKH đã được ra
đời. Tại nhiều quốc gia và khu vực pháp lý trên thế giới đã thông qua và áp dụng
thành cơng CSKH nhằm khuyến khích các DN và cá nhân tiết lộ chứng cứ quan
trọng làm cơ sở cho việc phát hiện, điều tra, xử lý các TTHCCT. Một cách khái
quát, CSKH được hiểu là một cơ chế do Nhà nước quy định dành quyền giảm trừ
hoặc miễn trừ hình phạt cho các thành viên tham gia TTHCCT theo những điều
kiện nghiêm ngặt khi một hoặc một số bên trong thỏa thuận tiến hành báo cáo và
hợp tác, cung cấp thông tin cho CQQLCT. Như vậy, CSKH được coi là một công
cụ hữu hiệu trong cuộc chiến chống lại các hành vi TTHCCT, một mặt nhằm ngăn
chặn hình thành TTHCCT ngay từ đầu và mặt khác giúp hỗ trợ CQQLCT nhanh
chóng phát hiện, điều tra và xử lý các TTHCCT bị cấm. Đồng thời, việc xây dựng
và áp dụng CSKH là hành lang pháp lý quan trọng trong việc kiểm sốt các hành vi
TTHCCT nói riêng và thực thi chính sách cạnh tranh nói chung.

Trang 18


CHƯƠNG 2
CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG THEO QUY ĐỊNH

CỦA LUẬT CẠNH TRANH NĂM 2018 VÀ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN
2.1. Chính sách khoan hồng theo Luật Cạnh tranh năm 2018
Trước đây, LCT 2004 chưa có quy định về CSKH đã tạo nên những khó khăn
và thách thức khơng hề nhỏ cho CQQLCT trong việc phát hiện và xử lý kịp thời đối
với các hành vi TTHCCT .Tiếp thu kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước đã xây
dựng và áp dụng thành công CSKH, Việt Nam lần đầu tiên đưa CSKH vào nội dung
trong pháp luật cạnh tranh tại LCT 2018 được Quốc hội Khóa XIV kỳ họp thứ 05
thơng qua ngày 12 tháng 6 năm 2018, cụ thể được quy định ở Điều 112 – Chương
IX. Điểm mới này được đánh giá là quy định tiến bộ trong hành lang pháp lý cạnh
tranh, đưa pháp luật Việt Nam “tiệm cận” với thông lệ quốc tế và được nhà làm luật
kỳ vọng sẽ năng cao hiệu quả thực thi pháp luật của cơ quan có thẩm quyền, góp
phần tạo lập một mơi trường cạnh tranh bình đẳng để vận hành nền kinh tế phát
triển lành mạnh. Trong phạm vi phần này, tác giả sẽ tập trung phân tích, bình luận
các quy định liên quan về CSKH theo LCT 2018.
2.1.1. Đối tượng áp dụng
Đối tượng áp dụng CSKH theo ghi nhận tại LCT 2018 chỉ dành cho các chủ
thể là “DN đã hoặc đang tham gia với vai trò là một bên của TTHCCT bị cấm”.39
Nói cách khác, chỉ có các DN là thành viên của TTHCCT mới được quyền hưởng
CSKH. Trong đó, đối tượng DN ở đây được hiểu là một chủ thể tiến hành hoạt động
kinh doanh vì mục đích lợi nhuận và là một chủ thể độc lập trên thị trường không
phân biệt là thể nhân hay pháp nhân.40 Qua căn cứ trên, có thể hiểu DN là đối tượng
của CSKH là tất cả các chủ thể kinh doanh ở Việt Nam, bao gồm các DN theo quy
định của pháp luật về DN, các hợp tác xã và các hộ kinh doanh.
Việc pháp luật cho phép chủ thể DN được quyền hưởng CSKH xuất phát từ
bản chất của một TTHCCT, đây là sự câu kết, thống nhất hành động bất hợp pháp
giữa những DN là đối thủ cạnh tranh của nhau nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép
cạnh tranh trên thị trường. Bởi lẽ đó, hơn ai hết chính các DN tham gia TTHCCT
muốn né tránh việc chịu hình phạt nên đặt ra nhu cầu thực tế họ cũng chính là các
chủ thể có mong muốn nộp đơn xin hưởng khoan hồng. Mặt khác, CSKH cũng tạo
39


Khoản 1 Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018 quy định: “DN tự nguyện khai báo giúp Ủy ban Cạnh tranh Quốc
gia phát hiện, điều tra và xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm quy định tại Điều 12 của Luật
này được miễn hoặc giảm mức xử phạt theo CSKH.”
40
Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Giáo trình Cạnh tranh và giải quyết tranh chấp thương mại, NXB Hồng
Đức, tr. 157.

Trang 19


×