Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

LÊ QUỐC DUY

HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014

SINH VIÊN THỰC HIỆN:

LÊ QUỐC DUY

Khóa: 40

MSSV: 1553801011063

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. LÊ NHẬT BẢO


TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Lê Nhật Bảo, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17 tháng 5 năm 2019
Tác giả

LÊ QUỐC DUY


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

LDN

Luật Doanh nghiệp

CTCP

Công ty cổ phần

HĐQT

Hội đồng quản trị


ĐHĐCĐ

Đại hội đồng cổ đơng

BKS

Ban kiểm sốt

NYSE

Sở giao dịch chứng khốn New York
(New York Stock Exchange)

ASX

Sở giao dịch chứng khoán Úc
(Australian Securities Exchange)


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN ................................................................................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty cổ phần ..........................................................6
1.1.1. Khái niệm công ty cổ phần ......................................................................6
1.1.2. Đặc điểm của công ty cổ phần .................................................................9
1.2. Khái niệm và đặc điểm của hội đồng quản trị..........................................12
1.2.1. Khái niệm hội đồng quản trị ..................................................................14
1.2.2. Đặc điểm của hội đồng quản trị.............................................................16

1.3. Các kiểu cấu trúc quản trị phổ biến trên thế giới ....................................18
1.3.1. Cấu trúc hội đồng một cấp .....................................................................19
1.3.2. Cấu trúc hội đồng hai cấp ......................................................................26
1.3.3. Cấu trúc quản trị hỗn hợp ......................................................................29
1.4. Vai trò của hội đồng quản trị .....................................................................30
1.4.1. Đối với công ty ......................................................................................30
1.4.2. Đối với các cổ đông ...............................................................................32
1.4.3. Đối với các cơ quan quản lý cấp dưới và người lao động ....................33
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ......................................................................................35
2.1. Về cấu trúc quản trị.....................................................................................35
2.1.1. Cấu trúc quản trị không có thành viên độc lập......................................35
2.1.2. Cấu trúc quản trị có thành viên độc lập .................................................39
2.2. Về thành viên hội đồng quản trị.................................................................44
2.2.1. Cách thức hình thành tư cách thành viên hội đồng quản trị .................44
2.2.2. Nhiệm kỳ của thành viên hội đồng quản trị ..........................................48
2.2.3. Tiêu chuẩn và điều kiện của thành viên hội đồng quản trị ...................49
2.3. Về cơ chế vận hành của hội đồng quản trị ................................................55
KẾT LUẬN ...............................................................................................................58


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Công ty cổ phần (CTCP) là một loại hình doanh nghiệp phổ biến hiện nay,
được xem là phương thức phát triển cao nhất cho đến nay của loài người để huy
động vốn cho kinh doanh và qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát

triển1. Một trong những đặc điểm cơ bản nhất của cơng ty cổ phần chính là sự tách
bạch giữa quyền quản trị công ty và quyền sở hữu cơng ty, theo đó quyền quản trị sẽ
thuộc về bộ máy quản trị - điều hành công ty mà đứng đầu là hội đồng quản trị
(HĐQT), còn quyền sở hữu công ty sẽ thuộc về những người bỏ vốn đầu tư vào
công ty mà cụ thể là các cổ đông – được tập hợp thành cơ quan quyền lực cao nhất
của CTCP là đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ). Chính sự tách biệt nói trên đã dẫn
đến những mối lo ngại về sự tận tụy, trung thực, khách quan của những người quản
lý CTCP, khi mà họ có quyền quản lý, sử dụng số tiền vốn không thuộc sở hữu của
họ. Chẳng hạn như trong tác phẩm Của cải của các Dân tộc (The Wealth of
Nations), nhà kinh tế học nổi tiếng Adam Smith đã cho rằng với đặc tính của cơng
việc quản lý khi mà quyền quản lý thường không gắn liền với quyền sở hữu trong
công ty, do đó người quản lý cơng ty thường có xu hướng khơng hành động như
những gì các cổ đơng muốn mà thường thiếu siêng năng, mẫn cán và lợi dụng vị trí
của mình để tìm kiếm lợi ích cá nhân cho chính họ mà bỏ qua lợi ích của các cổ
đơng và cơng ty2. Vì lẽ đó, vấn đề kiểm soát hoạt động của các cơ quan quản lý
trong CTCP, mà trước hết là HĐQT với tư cách là cơ quan quản trị tối cao trong
CTCP luôn được những nhà lập pháp tại hầu hết các quốc gia trên thế giới quan tâm
khi xây dựng những quy định pháp luật về CTCP.
Tại Việt Nam, bắt đầu từ Luật Doanh nghiệp (LDN) năm 2005, việc điều
chỉnh về chế định HĐQT cũng như vấn đề kiểm soát HĐQT đã dần được quan tâm
thông qua việc ghi nhận rõ ràng về cơ cấu tổ chức CTCP nhằm kiểm soát hoạt động
của HĐQT với việc thiết lập ban kiểm sốt (BKS) có địa vị pháp lý là một cơ quan
song song với HĐQT, làm nhiệm vụ kiểm soát hoạt động của HĐQT3. Cấu trúc nói
trên khá tương tự với mơ hình quản trị “đa hội đồng” được thực hiện phổ biến trên
thế giới. Tuy vậy, trải qua nhiều năm có hiệu lực, LDN năm 2005 đã dần bộc lộ
những nhược điểm trong việc quy định về cơ cấu tổ chức CTCP như nêu trên. Cụ
1

Nguyễn Ngọc Bích (2003), Luật Doanh nghiệp: Vốn và quản lý trong Công ty cổ phần, Nhà xuất bản Trẻ,
tr. 18.

2
Adam Smith (2003), The Wealth of Nations, Bantam Classics, tr. 800.
3
Điều 95 LDN năm 2005.

1


thể, việc quy định cơ cấu tổ chức thống nhất theo một mơ hình duy nhất vừa khơng
phù hợp với thông lệ quốc tế, khi mà tại thời điểm lúc bấy giờ và kể cả hiện nay
trên thế giới có hai trường phái tổ chức CTCP theo hướng “một hội đồng” và “đa
hội đồng”, đồng thời cũng vừa không phù hợp với thực tế đa dạng trong việc tổ
chức quản lý của các CTCP, do có sự tác động của ngành nghề kinh doanh cũng
như môi trường kinh doanh4. LDN năm 2014 đã nhận ra được những nhược điểm
nói trên của LDN năm 2005 và đã có những sửa đổi về cơ cấu tổ chức quản lý
CTCP, mà đặc biệt là HĐQT. Theo đó, LDN năm 2014 đã cho phép CTCP được
lựa chọn một trong hai mơ hình tổ chức quản lý theo hướng “một hội đồng” hoặc
“hai hội đồng”5. Với việc quy định như trên, LDN năm 2014 cũng đồng thời ghi
nhận sự tồn tại của chế định về thành viên độc lập HĐQT, vốn là một chế định rất
độc đáo trên thế giới. Chính sự thay đổi nói trên đã đem lại một xu hướng mới trong
việc tổ chức quản trị CTCP nói chung cũng như HĐQT nói riêng đối với những
CTCP hoạt động theo LDN năm 2014.
Tuy nhiên thực tiễn áp dụng LDN năm 2014 đã bộc lộ nhiều bất cập liên
quan đến chế định HĐQT cần phải khắc phục trong tương lai, chẳng hạn như các
bất cập về cấu trúc tổ chức HĐQT, vai trò của HĐQT hay vai trò của thành viên độc
lập trong HĐQT. Vì vậy, để CTCP có thể thực hiện được quy trình kiểm sốt quản
trị trong nội bộ cơng ty một cách có hiệu quả, thì việc nghiên cứu về HĐQT, cơ
quan giữ vị trí trung tâm trong bộ máy quản trị - điều hành của CTCP, là một điều
rất cần thiết, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang tích cực tham gia vào các Hiệp
định song phương, đa phương với nhiều quốc gia, tổ chức trên thế giới, đòi hỏi các

doanh nghiệp Việt Nam, mà đặc biệt là các CTCP phải có cách thức tổ chức quản trị
phù hợp với các thông lệ của thế giới.
Xuất phát từ những lý do nói trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Hội
đồng quản trị trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật hệ chính quy tại Trường Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
CTCP là một trong những loại hình doanh nghiệp phổ biến trên thế giới

cũng như tại Việt Nam, vì vậy mà các cơng trình nghiên cứu về CTCP nói chung và
bộ máy tổ chức của CTCP nói riêng cũng rất đa dạng. Tuy vậy, các cơng trình
nghiên cứu này thường chỉ tập trung vào một khía cạnh riêng biệt trong việc nghiên
4

Chính phủ (2014), Tờ trình số 166/TTr-CP của Chính phủ ngày 22 tháng 5 năm 2014 về Dự án LDN (sửa
đổi), Hà Nội.
5
Điều 134 LDN năm 2014.

2


cứu về HĐQT trong CTCP mà không đem lại một cái nhìn tồn cảnh về HĐQT.
Ngồi ra, vì LDN năm 2014 chỉ mới vừa có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2015,
nên hầu hết các cơng trình nghiên cứu về chế định HĐQT trong CTCP chỉ tập trung
phân tích dựa trên các quy định của LDN năm 2005 mà khơng phân tích theo các
quy định của LDN năm 2014. Có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu điển hình
về HĐQT như sau:

Đặng Thị Đỉnh (2009), Hồn thiện chế định hội đồng quản trị công ty
cổ phần, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Trong cơng trình nghiên cứu này, tác giả đã nghiên cứu về chế định HĐQT trong
CTCP theo các quy định của LDN năm 2005 cũng như các quy định khác có liên
quan như pháp luật về chứng khốn. Tuy vậy, tác giả chỉ phân tích và đưa ra các
kiến nghị dựa trên các quy định của LDN năm 2005 và các quy định pháp luật hiện
hành vào thời điểm năm 2009, do vậy tính ứng dụng của cơng trình nghiên cứu này
vào thực tiễn hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, khi mà đã 10 năm trơi qua kể từ ngày
tác giả viết cơng trình này.
Tiêu Hồng Tú Nghi (2018), Quy định của pháp luật về thành viên độc
lập hội đồng quản trị trong công ty cổ phần, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật,
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Tại cơng trình nghiên cứu này, tác
giả đã nghiên cứu về các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn liên quan đến chế định
thành viên độc lập HĐQT trong CTCP. Tuy nhiên, vì đối tượng nghiên cứu của
cơng trình này tập trung vào thành viên độc lập HĐQT trong CTCP nên đây vẫn chỉ
là một cơng trình nghiên cứu chỉ tập trung vào một vấn đề riêng biệt của HĐQT mà
không cho người đọc một cái nhìn tồn diện về HĐQT trong CTCP.
-

Monks, Robert A. G & Nell Minow (2007), Corporate Governance,

Fourth edition, Chichester, UK: Wiley. Tại tác phẩm này, tác giả đã cung cấp cho
người đọc những kiến thức cơ bản và chuyên sâu về kiểm soát quản trị (Corporate
Governance), từ đó làm rõ vai trị và cấu trúc của HĐQT trong mối tương quan với
các lý thuyết về kiểm soát quản trị. Tuy vậy, cũng như nhiều tác phẩm của nước
ngoài khác, việc nghiên cứu về HĐQT ở tác phẩm này chỉ mang tính chất tổng qt
mà khơng đi sâu vào hoàn cảnh cụ thể của các quốc gia, đặc biệt là Việt Nam. Đồng
thời việc nghiên cứu về HĐQT của tác phẩm được đặt dưới khía cạnh về kinh tế
quản trị mà khơng đặt dưới khía cạnh luật.
Bob Tricker (2012), Corporate Governance – Kiểm soát quản trị: Các

nguyên tắc, chính sách và thực hành về quản trị cơng ty và cơ chế kiểm soát quản
lý, bản dịch của Nguyễn Dương Hiếu và Nguyễn Thị Thu Hương, Nhà xuất bản
-

3


Thời Đại. Tại tác phẩm này, tác giả đã cho người đọc hiểu được một cách toàn diện
nhất về việc thực hành kiểm sốt quản trị trong các cơng ty nói chung và kể cả
CTCP nói riêng, việc nghiên cứu về kiểm soát quản trị của tác giả trong tác phẩm
này cũng bao gồm cả việc nghiên cứu về bộ máy quản trị - điều hành trong CTCP
mà trung tâm là HĐQT, cụ thể là về cấu trúc của HĐQT, cơ cấu thành viên và các
ủy ban của HĐQT. Tuy nhiên, vì đây là một tác phẩm tập trung chủ yếu vào khía
cạnh quản trị, nên khía cạnh về luật pháp chưa được tác giả chú trọng. Đồng tác
phẩm này cũng là một tác phẩm của nước ngồi, do đó tác giả không nghiên cứu về
chế định HĐQT trong mối tương quan với tình hình thực tiễn tại Việt Nam cũng
như luật thực định của Việt Nam. Tuy vậy, tác phẩm cũng đã cung cấp cho người
đọc hệ thống những vấn đề về lý luận rất sâu sắc về HĐQT trong CTCP mà Việt
Nam có thể học hỏi trong quá trình xây dựng luật thực định của mình.
3.

Mục đích nghiên cứu đề tài

Đề tài được thực hiện với mục đích là đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện
chế định HĐQT trong CTCP trong những lần sửa đổi LDN ở tương lai. Những giải
pháp, kiến nghị tác giả đưa ra chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận được trình bày, phân
tích trong khóa luận cũng như những quan điểm của các chuyên gia và kinh nghiệm
của nhiều quốc gia trên thế giới trong sự cân nhắc đến các điều kiện kinh tế - xã hội
của Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, tác giả cũng sẽ đưa ra những kiến nghị nhất định
dựa trên những kiến thức mà bản thân đã tích lũy được trong q trình học tập tại

Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Để thực hiện được mục đích nói trên, tác giả đã nghiên cứu tổng thể về các
vấn đề lý luận liên quan đến chế định HĐQT trong CTCP trên cơ sở phân tích
những quan điểm khoa học của nhiều học giả khác nhau tại Việt Nam và trên thế
giới.
Tác giả cũng nghiên cứu về các quy định của LDN năm 2014 về chế định
HĐQT trong CTCP trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các quan điểm lý luận đã được
trình bày trước đó. Từ việc nghiên cứu các quy định của LDN năm 2014 nói trên,
tác giả sẽ đưa ra các phân tích, bình luận chun sâu nhằm giúp người đọc hiểu rõ
hơn về mục đích ban hành cũng như cách thức vận hành các quy định pháp luật về
HĐQT trong CTCP trên thực tế. Đồng thời, tác giả cũng sẽ phân tích về những hạn
chế, bất cập cịn tồn đọng trong LDN năm 2014 liên quan đến chế định HĐQT trong
CTCP.
4.

Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài

4.1.

Đối tượng nghiên cứu đề tài
4


Đối tượng nghiên cứu của đề tài này chủ yếu là chế định HĐQT trong
CTCP theo quy định của LDN năm 2014, ngoài ra chế định về HĐQT trong CTCP
đại chung theo quy định của pháp luật chứng khoán cũng là đối tượng nghiên cứu
trong một số phần nhất định của khóa luận.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu đề tài

Phạm vi nghiên cứu của đề tài này tập trung chủ yếu trong các quy định của

LDN năm 2014, ngồi ra cịn có một số quy định của pháp luật về chứng khoán liên
quan đến công ty niêm yết, hay một số quy định của LDN năm 2005
5.

Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Đề tài này được tác giả tiến hành dựa trên các phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: được tác giả sử dụng
xuyên suốt trong khóa luận, nhằm mục đích thu thập và phân tích các thông tin, các
quan điểm của các học giả trên thế giới cũng như tại Việt Nam về chế định HĐQT
trong CTCP. Đồng thời tác giả cũng sử dụng phương pháp này để nghiên cứu về
quan điểm của các học giả liên quan đến các bất cập của LDN năm 2014 liên quan
đến chế định HĐQT trong CTCP, nghiên cứu về kinh nghiệm của các quốc gia trên
thế giới trong việc quy định về chế định này để đưa ra những kiến nghị phù hợp.
-

Phương pháp lịch sử: phương pháp này được tác giả sử dụng nhằm lý

giải lịch sử ra đời của CTCP tại Việt Nam, đồng thời cũng được sử dụng trong việc
phân tích một số quy định của LDN năm 2014.
6.

Bố cục tổng quát của khóa luận

Khóa luận bao gồm hai chương, ngoài Phần mở đầu và Phần kết luận được
trình bày tại phần đầu tiên và phần cuối cùng của khóa luận:
-


Chương 1: Lý luận chung về chế định hội đồng quản trị trong công ty

cổ phần.
Chương 2: Thực trạng quy định về hội đồng quản trị trong công ty cổ
phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 và một số kiến nghị.

5


CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
TRONG CƠNG TY CỔ PHẦN
1.1.

Khái niệm, đặc điểm cơng ty cổ phần

1.1.1.

Khái niệm công ty cổ phần

Năm 1492, Cristoforo Colombo tìm ra châu Mỹ đã mở ra một kỷ nguyên
mới cho nhân loại, các đế quốc châu Âu từ đây đã biết đến một châu lục gần như
chưa bị khai thác về tài nguyên thiên nhiên như ở châu Âu và châu Á, tạo ra một làn
sóng khai thác châu Mỹ của các đế quốc Á-Âu.
Việc khai thác châu Mỹ cùng với các vùng đất khác (mà điển hình là Ấn
Độ) lúc bấy giờ đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn. Tuy nhiên, với nhiều đoàn thám
hiểm đã gặp thất bại khi quay trở về từ châu Âu mà khơng tìm thấy gì hoặc gặp tai
nạn trên đường đi, thì khai thác châu Mỹ cùng các vùng đất mới tỏ ra là một việc rất
rủi ro tại thời điểm lúc bấy giờ, do đó các tổ chức tín dụng vẫn rất thận trọng và các
nước đế quốc rất khó để tìm ra được một nguồn vốn tín dụng đủ lớn để tiến hành
công cuộc khai thác6. Do vậy, các nước đế quốc sẽ gặp phải khó khăn rất lớn nếu

khơng có nguồn vốn đầu tư từ các nhà đầu tư công chúng. Tuy nhiên, tại thời điểm
này, để đầu tư vào một việc kinh doanh nào đó, thì nhà đầu tư phải gánh chịu trách
nhiệm vơ hạn, do đó, khi việc kinh doanh thất bại, nhà đầu tư phải trả nợ bằng chính
tài sản riêng của mình và khơng bị giới hạn, ngay cả khi nhà đầu tư buộc phải bán đi
nhà cửa, ruộng vườn của mình để có tiền trả nợ. Vì vậy, các nhà đầu tư cơng chúng
ở thời kỳ này thường hạn chế tối đa việc đầu tư của mình do lo sợ hệ quả của trách
nhiệm vơ hạn, từ đó khiến cho việc tìm kiếm vốn đầu tư của các nước đế quốc châu
Âu trở nên rất khó khăn.
Thực tế này đã dẫn đến một nhu cầu cấp thiết là cần phải có một loại hình
kinh doanh hạn chế được rủi ro từ việc chịu trách nhiệm vô hạn, và thúc đẩy các chủ
thể trong nền kinh tế tham gia vào hoạt động sản xuất, đầu tư, kinh doanh. Và một
sáng kiến quan trọng thời điểm đó chính là việc sáng tạo ra loại hình công ty với
trách nhiệm hữu hạn cho nhà đầu tư, được xem là phương thức phát triển cao nhất
cho đến nay của loài người để huy động vốn cho kinh doanh và qua đó làm cho nền
kinh tế của mỗi quốc gia phát triển7, đó chính là CTCP.
Ở thời kỳ đầu, các CTCP do chính quyền của các đế quốc thành lập nhằm
phục vụ cho việc khai thác thuộc địa, mà cụ thể là Ấn Độ và châu Mỹ. Một số
CTCP đầu tiên được thành lập tại thời điểm này có thể kể đến là Cơng ty Anh Đơng
6
7

Yuval Noal Harari (2018), Sapiens: Lược sử loài người, Nhà xuất bản Tri thức, tr. 398.
Nguyễn Ngọc Bích, tlđd (1), tr.18.

6


Ấn (British East India Company), Công ty Hà Lan Đông Ấn (Dutch East India
Company). Những CTCP đầu tiên này được hoàng gia của các đế quốc Anh và Hà
Lan ban cho những đặc quyền rất lớn, nó khơng chỉ đơn thuần là các pháp nhân

thương mại hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận, mà cịn được ban cho cả các quyền
chủ quyền như quyền chiến tranh, quyền tư pháp8. Ở thời kỳ này, việc các CTCP
th khơng chỉ lính tráng, mà cả tướng lĩnh và đô đốc, đại bác và tàu chiến, thậm
chí nguyên một đạo quân là rất phổ biến. Các CTCP lúc bấy giờ không chỉ đơn
thuần là một loại hình doanh nghiệp, mà đơi khi nó giống như là một “đế chế”9.
Về mặt lịch sử hình thành, sự ra đời của CTCP không phải là sản phẩm của
các nhà lập pháp mà xuất phát từ thực tiễn10. Đặc điểm trách nhiệm hữu hạn dành
cho các cổ đông của CTCP đã tạo ra một ưu thế rất lớn cho nó. Vì thế nên sau sự
thành lập các CTCP đầu tiên bởi hoàng gia các nước đế quốc, giới kinh doanh tư
nhân cũng dần tiếp thu ưu điểm của CTCP và lập ra các loại hình cơng ty với trách
nhiệm hữu hạn cho các nhà đầu tư, mặc dù về mặt pháp lý, vẫn chưa có bất kỳ văn
bản quy phạm pháp luật nào ghi nhận loại hình CTCP. Chẳng hạn như ở Anh, Luật
công ty được ban hành lần đầu tiên năm 1844 nhưng trước đó hơn 100 năm đã có sự
xuất hiện của các CTCP. Và đến năm 1856, ở Anh mới có Luật về CTCP11.
Chế định về CTCP được du nhập vào Việt Nam trong thời kỳ thực dân
Pháp đô hộ nước ta thông qua việc tiếp thu các quy định về CTCP theo hệ thống
pháp luật Pháp vào Việt Nam. CTCP lần đầu tiên được ghi nhận tại Việt Nam trong
Bộ Dân luật thi hành tại các tòa Nam Án Bắc Kỳ năm 1931, trong đó tiết thứ 5
(Chương IX) nói về hội bn được chia thành hai loại là hội người và hội vốn.
Trong đó hội vốn được chia thành hai loại là hội vô danh (CTCP) và hội hợp cổ
(Công ty hợp vốn đơn giản)12. Dù rằng đã có sự ghi nhận về CTCP, tuy nhiên các
quy định về CTCP ở thời kỳ này còn khá sơ khai, điều này xuất phát từ các nguyên
nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ được vận hành dựa trên văn
hóa “trọng nơng ức thương, theo đó lấy nơng nghiệp và thủ công nghiệp làm gốc,
tạo ra phần lớn của cải trong nền kinh tế, trong khi đó thương nghiệp khơng được

8

Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về Chủ thể kinh doanh, Nhà xuất bản

Hồng Đức, tr. 225.
9
Yuval Noal Harari, tlđd (6), tr. 404.
10
Từ Thảo, “Lịch sử hình thành và phát triển Cơng ty cổ phần trên thế giới và ở Việt Nam”,
truy cập ngày 17/5/2019.
11
Từ Thảo, tlđd (10).
12
Lê Thị Châu (1997), Quyền sở hữu tài sản của công ty, Nhà xuất bản Lao Động, tr. 17.

7


chú trọng, phần lớn chỉ là làm ăn nhỏ lẻ, tổ chức sơ xài, và có rất ít trường hợp góp
vốn làm ăn, nếu có đa phần chỉ là nhất thời13.
Thứ hai, tâm lý của người dân Việt Nam lúc bấy giờ cũng khơng thích hợp
cho sự phát triển của các CTCP, khi mà phần đông bộ phận dân cư không quan tâm
đến vấn đề đầu tư kinh doanh hoặc khơng có đủ điều kiện đầu tư kinh doanh (có thể
liên quan đến khía cạnh tài chính hoặc các khía cạnh khác). Người dân Việt Nam tại
thời điểm này thường “q nghĩa khinh lợi”, “sống vì mồ mả chứ khơng vì cả bát
cơm”, và cho rằng “giàu nghèo là tại số”14, do đó họ khơng có nhu cầu phát triển
kinh doanh, kèm theo tâm lý gia đình nên cũng khơng có nhu cầu hợp tác kinh
doanh với người ngồi, vì vậy nên các CTCP được người dân Việt Nam thành lập
tại thời điểm này đa phần chỉ là các công ty gia đình, “một CTCP ở Việt Nam đơi
khi là một “gia đình lớn” được kiểm sốt bởi một vài gia đình và những chiến hữu
thân tín của họ”15.
Thứ ba, đại bộ phận dân cư lúc bấy giờ rơi vào tình trạng mù chữ, trong khi
việc thành lập các CTCP địi hỏi các cá nhân thành lập phải thơng qua hàng loạt các
thỏa thuận thành lập cũng như là các văn bản mang tính định hướng cho hoạt động

của cơng ty, vì vậy nên với đặc điểm này, họ cũng không đủ điều kiện để tham gia
thành lập các CTCP.
Từ những lý do nói trên nên việc phát triển chế định về CTCP là gần như
không cần thiết trong giai đoạn này và do đó, mặc dù CTCP đã du nhập vào Việt
Nam từ rất sớm, nhưng các quy định về CTCP mãi đến sau này mới được hoàn
thiện.
Sau khi thống nhất đất nước, đến năm 1990 thì Luật Cơng ty ra đời đã chính
thức ghi nhận về chế định CTCP. Giai đoạn này nước ta vừa mới trải qua thời kỳ
bao cấp, thương nghiệp tư nhân vừa mới được phục hồi, vì vậy nên CTCP cũng
khơng có điều kiện phát triển cho đến năm 1990, do đó các quy định về CTCP trong
Luật Cơng ty năm 1990 chỉ gói gọn trong vỏn vẹn 14 Điều luật, chủ yếu ghi nhận về
các đặc điểm cơ bản nhất của CTCP cũng như phác thảo sơ lược mơ hình tổ chức
CTCP (HĐQT, BKS). Các quy định về CTCP tại Luật Công ty năm 1990 đã tạo nền
tảng cho sự phát triển của CTCP sau này, tuy nhiên vẫn còn nhiều mặt hạn chế,
chẳng hạn như cơ chế cấp giấy phép thành lập cịn tốn nhiều thời gian (theo đó,
UBND nhận đơn phải cấp hoặc từ chối cấp giấy phép thành lập công ty trong thời

13

Phạm Duy Nghĩa (2013), Giáo trình Luật Kinh tế, Nhà xuất bản Công an nhân dân, tr. 143.
Phạm Duy Nghĩa, tlđd (13), tr. 144.
15
Phạm Duy Nghĩa, tlđd (13), tr. 153.
14

8


hạn sáu mươi ngày16) khiến cho các nhà đầu tư tư nhân cịn ngại thành lập cơng ty
tại thời điểm này.

Trải qua nhiều năm phát triển chế định về CTCP thông qua sự ra đời của
LDN năm 1999, LDN năm 2004, và đến ngày nay, chế định về CTCP được quy
định trong LDN năm 2014 với số lượng lên đến 61 Điều luật (chiếm số lượng nhiều
nhất trong tất cả các loại hình doanh nghiệp được quy định trong LDN năm 2014),
cho thấy chế định về CTCP đang ngày càng được quan tâm phát triển, hoàn thiện
bởi các nhà lập pháp Việt Nam17.
Mặc dù vậy nhưng hiện hay vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng trong luật
về CTCP, tuy nhiên, dựa trên những quy định về CTCP theo các văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành thì có thể nhận thấy rằng CTCP là một dạng doanh nghiệp có tư
cách pháp nhân và các cổ đông chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của
mình; vốn điều lệ của CTCP không là một khối thống nhất mà được chia nhỏ thành
những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được tự do chuyển nhượng; và có sự tách
bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản trị trong CTCP.
1.1.2.

Đặc điểm của cơng ty cổ phần

Từ khái niệm được trình bày ở trên, có thể thấy rằng CTCP có một số đặc
điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, CTCP có tư cách pháp nhân. Điều này có nghĩa là về mặt pháp
lý, CTCP được xem như là một con người, có tài sản riêng tách bạch với tài sản của
(những) người thành lập ra nó, có khả năng độc lập tham gia vào các mối quan hệ
dân sự, hành chính, hình sự…Tuy nhiên, dù rằng được xem như là một con người,
nhưng CTCP cũng chỉ là một sản phẩm sáng tạo của con người, nó khơng có cơ thể,
do đó nó không thể thực sự tham gia xác lập các mối quan hệ theo cách thông
thường như con người mà phải thông qua người đại diện của CTCP. Dù vậy, hệ
thống pháp luật Mỹ vẫn đối xử với các công ty này như những con người bằng
xương bằng thịt và gọi chúng là các pháp nhân (legal person hay legal entity)18.
Thứ hai, vốn điều lệ của CTCP không là một khối thống nhất mà được chia
nhỏ thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần (có thể có nhiều loại cổ phần khác

nhau, như cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đãi cổ tức hay cổ phần ưu đãi biểu quyết,
mỗi một loại cổ phần có những đặc tính riêng biệt), và mỗi cổ phần có một mệnh
giá xác định tùy thuộc vào quyết định của CTCP dựa trên nhu cầu huy động vốn của
16

Điều 16 Luật Công ty năm 1990.
Trường Đại học Luật Tp. Hồ chí Minh, tlđd (8), tr. 229.
18
Yuval Noal Harari, tlđd (6), tr. 45.
17

9


mình. Mệnh giá cổ phần nói trên có thể thay đổi dựa trên quyết định của CTCP, nếu
pháp luật quốc gia khơng có quy định hạn chế quyền này19. Cổ phần là một phần
của vốn điều lệ trong CTCP, do đó, một tổ chức, cá nhân sở hữu cổ phần trong
CTCP dù với số lượng ít hay nhiều (hay thậm chí là chỉ sở hữu một cổ phần duy
nhất), thì cũng được xem là cổ đông của CTCP. Đặc điểm này xuất phát từ mục
đích hình thành của CTCP đó chính là thu hút vốn đầu tư từ cơng chúng. Do đó việc
chia vốn điều lệ của CTCP thành nhiều phần nhỏ bằng nhau sẽ tạo điều kiện cho
nhiều cá nhân tham gia góp vốn vào CTCP, bất kể tình trạng tài chính của những cá
nhân này.
Thứ ba, CTCP có tính mở (hay cịn gọi là tính xã hội). Như đã trình bày ở
đặc điểm thứ nhất, bất cứ tổ chức, cá nhân nào cũng có thể trở thành cổ đông của
CTCP thông qua việc sở hữu cổ phần, do vậy nên việc trở thành cổ đông của một
CTCP trở nên rất dễ dàng đối với công chúng (đặc biệt là đối với các công ty đại
chúng đã niêm yết trên sàn chứng khốn thì việc này lại càng dễ dàng hơn, chẳng
hạn, ngay cả là một sinh viên chưa tốt nghiệp đại học cũng có thể trở thành cổ đông
của một trong những công ty đại chúng hàng đầu Việt Nam như Vinamilk thông

qua việc mua cổ phiếu của Vinamilk tại Sở Giao dịch chứng khốn thành phố Hồ
Chí Minh). Không những thế, việc rút vốn ra khỏi CTCP cũng rất dễ dàng. Khác
với phần vốn góp trong các loại hình cơng ty khác thường có những giới hạn nhất
định trong việc chuyển nhượng (như đối với công ty TNHH, việc bán lại phần vốn
góp trong cơng ty thơng thường phải thông qua các thành viên của công ty rồi mới
có thể bán ra ngồi cơng chúng, điều này làm cho việc chuyển nhượng phần vốn
góp trong cơng ty TNHH có thể gặp những khó khăn nhất định khi các thành viên
cịn lại trong cơng ty cố tình gây khó khăn cho người chuyển nhượng), cổ phần
trong CTCP được xem là một loại tài sản được tự do chuyển nhượng, ngoại trừ một
số trường hợp hạn chế theo quy định của pháp luật quốc gia20. Tức là, trừ một số
hạn chế nhất định theo quy định của pháp luật hoặc theo các thỏa thuận giữa các cổ
đông hoặc các thỏa thuận khác, cổ đông được tự do mua bán, chuyển nhượng cổ
phần mà khơng cần phải có sự chấp thuận trước21. Lý do pháp luật cho phép chuyển
nhượng quyền sở hữu đối với cổ phần một cách dễ dàng như vậy là vì phần vốn góp
của cổ đơng vào công ty phải chịu rủi ro, trong khi quyền quản trị của họ đối với
19

Chẳng hạn như ở Việt Nam, mặc dù khơng có quy định minh thị cho phép việc thay đổi mệnh giá cổ phần,
tuy nhiên cũng không có quy định hạn chế quyền này của các CTCP, do đó dựa theo ngun tắc “làm những
gì pháp luật khơng cấm” thì các CTCP tại Việt Nam vẫn có quyền thay đổi mệnh giá cổ phần của mình nếu
cảm thấy cần thiết.
20
Chẳng hạn, LDN quy định về việc hạn chế chuyển nhượng đối với cổ phần của cổ đông sáng lập trong thời
hạn 03 năm kể từ ngày thành lập doanh nghiệp.
21
Tiêu Hồng Tú Nghi, Quy định của pháp luật về thành viên độc lập Hội đồng quản trị trong Cơng ty cổ
phần, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 5.

10



cơng ty lại bị hạn chế, vậy họ có quyền kiểm sốt sự rủi ro mình chịu bằng cách bán
nó đi bất cứ khi nào họ muốn22.
Thứ tư, CTCP cho phép các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong
phần vốn góp của mình. Đặc tính này xuất phát từ việc, CTCP là một pháp nhân, và
do đó nó hoàn toàn độc lập với những chủ thể thành lập ra nó (các cổ đơng), vì vậy
nên CTCP chỉ có thể chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản của mình23, mà khơng
có quyền đem các loại tài sản khác không phải của CTCP (chẳng hạn như tài sản
của các cổ đông) để chịu trách nhiệm cho các khoản nợ hay nghĩa vụ khác của mình
theo yêu cầu của bất kỳ chủ thể nào. Tài sản của CTCP bao gồm số vốn góp mà các
cổ đơng góp vào cơng ty (vốn điều lệ), và các tài sản khác phát sinh trong q trình
hoạt động của cơng ty (có thể là lợi nhuận, vốn vay, thặng dư cổ phần…). Do đó,
trong trường hợp xấu nhất khi công ty phải trả nợ bằng tất cả tài sản của mình thì về
nguyên tắc, các cổ đông cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn tương đương với
số vốn góp mà họ đã góp vào cơng ty (do số vốn góp này lúc bấy giờ đã trở thành
tài sản của công ty). Đặc điểm này đã tạo nên ưu thế rất lớn cho CTCP so với các
loại hình doanh nghiệp khác tại thời điểm nó mới được hình thành, từ đó tạo động
lực to lớn cho sự phát triển của chế định CTCP trên thế giới và cả Việt Nam.
Thứ năm, CTCP có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản trị cơng
ty. Với tính mở và cấu trúc thành viên đa dạng trong CTCP thì việc để cho những
cổ đơng có tồn quyền quản trị cơng ty, hay nói cách khác rằng quyền sở hữu sẽ
đồng nhất với quyền quản trị công ty, sẽ là không hiệu quả, và sẽ khiến cho hoạt
động kinh doanh của CTCP rơi vào bế tắc, khi mà những người quản lý (là cổ đông
trong giả định này) có thể đi vào và rút ra khỏi cơng ty một cách rất dễ dàng. Ngồi
ra, số lượng các cổ đông trong CTCP thường rất lớn và họ thường phân tán về mặt
địa lý. Khó có thể tưởng tượng được một CTCP với hàng trăm cổ đông mà mỗi cổ
đơng đều có quyền quản trị cơng ty, tình trạng này sẽ khiến cho khi CTCP cần đưa
ra một quyết định gì đó, cơng ty phải đối mặt với việc xem xét ý kiến của hàng trăm
người. Ngoài ra, đa phần các cổ đơng là những người khơng có, hoặc có nhưng rất
yếu, kiến thức về quản trị doanh nghiệp, vì thế nên việc để cho các cổ đơng này

tham gia vào quá trình điều hành CTCP sẽ là khơng hiệu quả. Ngồi ra, tại nhiều
quốc gia trên thế giới thì các cổ đơng cũng rất hưởng ứng tình trạng tách biệt giữa
quyền sở hữu và quyền quản trị trong CTCP khi cho rằng “cái lợi của họ là sự thu
lợi từ sự phát triển của công ty mà không phải bận tâm hay bỏ thời gian vào việc
22

Nguyễn Ngọc Bích, tlđd (1), tr. 44.
Phan Huy Hồng, Lê Nết (2005), “Trách nhiệm tài sản của pháp nhân: Hữu hạn hay vơ hạn?”, Tạp chí Khoa
học Pháp lý, số 6 (31)/2005, tr. 26.
23

11


quản lý, việc quản lý công ty là công việc của Hội đồng quản trị và CEO”24, mặc dù
rằng tình trạng này có thể gây ra một số tác động xấu cho các cổ đơng (sẽ được
phân tích tại các phần sau của khóa luận). Do vậy, để hoạt động quản trị trong
CTCP được thống nhất, ổn định và đảm bảo những người vận hành công ty phải là
những người có kỹ năng quản trị doanh nghiệp thì việc tách bạch quyền sở hữu và
quyền quản trị công ty là một trong những đặc điểm rất quan trọng của CTCP.
Thực tế hiện nay cho thấy rằng, đối với nhiều CTCP lớn trên thế giới, người
quản lý công ty thường là những cổ đông lớn trong công ty, tuy nhiên, ngay cả
trong trường hợp này thì quyền sở hữu vẫn có sự tách bạch với quyền quản trị công
ty, điều này được thể hiện ở hai phương diện: i) người quản trị cơng ty dù có nắm
cổ phần cũng khơng nắm tồn bộ cổ phần trong cơng ty (mà ở các CTCP lớn thì
mức cổ phần này là rất thấp), do đó dù họ có quyền sở hữu, thì quyền này cũng
không đồng nhất với quyền sở hữu công ty; và ii) danh nghĩa “cổ đông” và danh
nghĩa “người quản lý” là hồn tồn tách bạch với nhau, theo đó dù cho với danh
nghĩa “cổ đơng” thì một cá nhân, tổ chức có thể rút khỏi cơng ty bất cứ lúc nào (trừ
một số hạn chế theo quy định của pháp luật từng quốc gia), nhưng với người quản

lý công ty thì họ khó có thể rút khỏi cơng ty một cách dễ dàng mà phải chịu sự ràng
buộc với những trách nhiệm cũng như nghĩa vụ của người quản lý, đặc biệt là khi
cơng ty đang gặp phải khó khăn.
1.2.

Khái niệm và đặc điểm của hội đồng quản trị

Sự cần thiết của việc tách bạch quyền sở hữu và quyền quản trị trong CTCP
như đã trình bày ở trên cũng dẫn đến sự cần thiết phải có một cơ quan quản trị tập
trung trong CTCP mà đó chính là HĐQT. Như vậy, sự hình thành và phát triển của
HĐQT gần như gắn liền với sự hình thành và phát triển của CTCP, bởi lẽ, các
CTCP ở thời kỳ đầu, vốn được lập ra để thu hút vốn đầu tư từ cơng chúng, sẽ khó
có thể tồn tại và phát triển nếu không tách bạch quyền sở hữu và quyền quản trị
cơng ty, hay nói cách khác, các CTCP này sẽ khó có thể tồn tại nếu khơng có
HĐQT, một cơ quan chuyên biệt nắm quyền quản trị công ty thay cho các cổ đơng
mà đơi khi là những người hồn tồn khơng có kiến thức về quản trị kinh doanh.
Tuy nhiên tại sao các quốc gia lại phát triển chế định HĐQT trong CTCP
không chỉ trong các quy định của pháp luật, mà thậm chí cịn ban hành các quy định
bên ngoài pháp luật để phát triển chế định HĐQT, đặc biệt là xác định ai là người

24

Monks, Robert A. G & Nell Minow (2007), Corporate Governance, Fourth edition, Chichester, UK:
Wiley, tr. 8.

12


quản lý công ty và các nghĩa vụ pháp lý của họ25? Sở dĩ các quốc gia cần phải phát
triển chế định HĐQT là vì các lý do sau:

Thứ nhất, đặc điểm tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản trị trong
CTCP sẽ dẫn đến một vấn đề rất quan trọng như sau: người góp tiền vào cơng ty
(các cổ đơng) thì lại chỉ kiểm sốt được một phần rất nhỏ số tiền của công ty, trong
khi những người khơng góp tiền vào cơng ty, hoặc có góp nhưng chỉ chiếm một
phần nhỏ số vốn của công ty (HĐQT) lại có quyền kiểm sốt gần như tồn bộ số
tiền của công ty. Điều này đã làm nảy sinh sự lo ngại về sự lạm quyền, tư lợi của
những người quản trị công ty, mà trước hết là HĐQT. Với đặc tính của cơng việc
quản lý khi mà quyền quản lý thường không gắn liền với quyền sở hữu trong cơng
ty, do đó người quản lý cơng ty thường có xu hướng khơng hành động như những gì
các cổ đơng muốn mà thường thiếu siêng năng, mẫn cán và lợi dụng vị trí của mình
để tìm kiếm lợi ích cá nhân cho chính họ mà bỏ qua lợi ích của các cổ đông và công
ty26. Sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản trị trong CTCP nói trên làm
phát sinh nhu cầu phải có các quy tắc để kiểm sốt và buộc người quản lý cơng ty
phải hành động vì lợi ích của cơng ty và đại bộ phận cổ đơng thay cho lợi ích của
bản thân mình27.
Thứ hai, CTCP có tư cách pháp nhân, được thừa nhận là một chủ thể độc
lập tham gia vào các quan hệ dân sự, hành chính, hình sự. Tuy nhiên, bản thân
CTCP lại chỉ là một thực thể do con người sáng tạo ra để thúc đẩy môi trường kinh
doanh, do đó CTCP khơng có một cơ thể đúng nghĩa để tự mình tham gia vào các
quan hệ dân sự, hành chính, hình sự mà phải thơng qua người đại diện để xác lập và
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Từ giữa thế kỷ 19, các án lệ của các
nước theo truyền thống thông luật (common law) đã cho thấy rằng, cơng ty chỉ có
thể hành động thơng qua những người quản lý cơng ty, vì vậy nên hành động của cá
nhân các cổ đông không nhân danh công ty sẽ không ảnh hưởng và không ràng
buộc trách nhiệm pháp lý cho công ty, vốn là một thực thể pháp lý độc lập28. Do đó,
chế định HĐQT được phát triển cũng nhằm vào mục đích xác lập các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của người quản trị công ty với tư cách đại diện cho công ty, phân
biệt sự tham gia của những người quản trị này vào các quan hệ dân sự, hành chính,
hình sự với tư cách cá nhân và với tư cách người quản trị công ty.


25

Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí
khoa học pháp lý, số 4 (41)/2007, tr. 21.
26
Adam Smith, tlđd (2), tr. 800.
27
Hà Thị Thanh Bình (2013), “Một số vấn đề pháp lý về quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam”, Tạp chí
Khoa học Pháp lý, số 5 (78)/2013, tr. 28.
28
Bùi Xuân Hải, tlđd (25), tr. 21.

13


Chính vì vậy nên địi hỏi các quốc gia phải phát triển chế định HĐQT nói
riêng và cơ chế kiểm sốt quản trị (Corporate Governance) nói chung để phản ứng
lại các vấn đề nói trên.
1.2.1.

Khái niệm hội đồng quản trị

Mặc dù như đã phân tích nói trên, việc phát triển chế định HĐQT trong hệ
thống pháp luật của các quốc gia là rất cần thiết cho sự phát triển bền vững của các
CTCP. Tuy vậy, tại Việt Nam hiện nay vẫn cịn có nhiều điểm khơng tương đồng
giữa các khái niệm về HĐQT do các học giả thuộc các lĩnh vực khác nhau đưa ra.
Chẳng hạn, trong lĩnh vực kinh tế học, tác giả trong quá trình nghiên cứu
của mình mặc dù vẫn chưa tìm thấy được một khái niệm nào về “hội đồng quản trị”,
tuy nhiên lại có rất nhiều học giả đưa ra khái niệm về “quản trị”, theo đó quản trị là
q trình phối hợp hoạt động giữa những người khác nhau để đạt được kết quả mà

một người hoạt động thì khơng thể có được29, hay quản trị là việc thiết kế và duy trì
một mơi trường mà trong đó các cá nhân khác nhau có thể cùng nhau làm việc
nhằm hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu đã định30. Mặc dù rằng các học giả
trong lĩnh vực kinh tế học không đưa ra một khái niệm về “hội đồng quản trị”,
nhưng thông qua khái niệm về “quản trị”, có thể suy luận được rằng “hội đồng quản
trị” theo các quan điểm về kinh tế học là một hội đồng gồm nhiều người thực hiện
việc thiết kế và duy trì mơi trường mà tại đó những người khác nhau có thể cùng
nhau hành động nhằm thực hiện mục tiêu chung.
Nhìn chung, quan điểm về HĐQT trong kinh tế học hướng đến mục tiêu
cuối cùng của HĐQT, theo đó đây phải là một cơ quan tạo lập được mối gắn kết
giữa những người khác nhau trong CTCP, đảm bảo rằng mọi người phải cùng nhau
hoạt động, cùng hợp tác với nhau để hướng tới mục tiêu chung là sự phát triển và
lớn mạnh của một CTCP. Tuy vậy, quan điểm về HĐQT trong kinh tế học lại không
làm nổi bật được thế nào là một HĐQT đúng nghĩa, liệu rằng chỉ một nhóm người
được tổ chức trong CTCP nhằm thực hiện chức năng nói trên là đã trở thành
HĐQT, hay là cần phải có thêm các điều kiện khác? Vấn đề này xuất phát từ việc
khái niệm về “quản trị” trong kinh tế học là một khái niệm rất rộng, và tùy từng lĩnh
vực khác nhau sẽ có những khái niệm “quản trị” khác nhau ở phạm vi rộng hơn,
chẳng hạn như “quản trị tài chính”, “quản trị nguồn nhân lực”, “quản trị
marketing”... và đối với lĩnh vực doanh nghiệp thì vẫn có khái niệm về “quản trị
29

James H. Donnelly, JR., James L. Gibson và John M. Ivancevich (2001), Quản trị học căn bản, bản dịch
của Vũ Trọng Hùng, Nhà xuất bản Thống kê, tr. 12.
30
Koontz và O’Donnell (1992), Những vấn đề cốt yếu của quản lý, bản dịch của Vũ Thiếu, Nguyễn Mạnh
Quân, Nguyễn Đăng Dậu, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, tr. 19.

14



doanh nghiệp”, theo đó quản trị doanh nghiệp là một quá trình tác động của chủ
doanh nghiệp đến những người lao động trong doanh nghiệp nhằm thúc đẩy họ sử
dụng tốt nhất các tiềm năng và cơ hội để phát triển hoạt động kinh doanh nhằm mục
tiêu chung của doanh nghiệp31.
Như vậy, quan điểm về “quản trị” và “hội đồng quản trị” trong lĩnh vực
kinh tế học mang nặng tính kinh tế, do dó nếu chỉ dựa vào các khái niệm về “quản
trị” và “hội đồng quản trị” theo các quan điểm trong lĩnh vực kinh tế học thì khó có
thể hình dung được cách thức tổ chức cũng như cơ cấu thành viên của HĐQT trong
CTCP.
Khái niệm về HĐQT cũng được đề cập rất nhiều trong các cơng trình
nghiên cứu của các học giả thuộc lĩnh vực luật pháp, chẳng hạn như có thể kể đến
một số khái niệm như sau:
Ban biên soạn Từ điển luật học cho rằng “Hội đồng quản trị là cơ quan
quản lý của một số doanh nghiệp theo quy định của pháp luật […] Thành viên của
hội đồng quản trị hoặc đựợc các đồng chủ sở hữu bầu ra trong đại hội theo những
tiêu chuẩn và điều kiện mà điều lệ đặt ra (công ty cổ phần) […]”32. Tập thể giảng
viên bộ môn Luật Thương mại Đại học Luật Hà Nội cũng đưa ra định nghĩa về
HĐQT, theo đó “Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty cổ phần, thực hiện
chức năng quản lý công ty thay cho ĐHĐCĐ khi ĐHĐCĐ khơng họp. HĐQT có
tồn quyền nhân danh cơng ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
công ty không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ”33. Tương tự như vậy, tập thể giảng
viên Khoa Thương mại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng
“Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty. Để thực hiện chức năng này, HĐQT
có tồn quyền nhân danh cơng ty để quyết định và thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ”34.
Như vậy, có thể thấy các khái niệm nói trên về HĐQT theo các quan điểm
của những học giả trong lĩnh vực luật học khá tương đồng với nhau. Các khái niệm
này đều hướng tới việc mô tả cách thức hình thành, tổ chức cũng như chức năng của


31

Trần Thị Cẩm Thanh (2010), Quản trị doanh nghiệp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 16.
Nguyễn Hữu Đắc, Ngô Văn Thâu, Lê Kim Quế, Nguyễn Hữu Viện, Lê Đức Tiết và các tác giả khác
(1999), Từ điển luật học, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, tr. 222.
33
Nguyễn Thị Dung và tập thể giảng viên bộ môn Luật Thương mại Đại học Luật Hà Nội (2017), Luật Kinh
tế, Nhà xuất bản Lao động, tr.91, 92.
34
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), tlđd (8), tr. 276, 277.
32

15


HĐQT trong CTCP và khá tương đồng với định nghĩa về HĐQT được đưa ra trong
LDN năm 2014 cũng như LDN năm 200535.
Tóm lại, có thể hiểu HĐQT là cơ quan quản lý cao nhất trong CTCP, có
tồn quyền nhân danh, đại diện cho công ty để quyết định, thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ.
1.2.2.

Đặc điểm của hội đồng quản trị

Từ khái niệm nói trên có thể thấy HĐQT trong CTCP có một số đặc điểm
cơ bản như sau:
1.2.2.1. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý trong công ty cổ phần
Trên thực tế, mơ hình tổ chức quyền lực trong CTCP hiện nay có thể được
chia thành hai quyền, đó là quyền sở hữu và quyền quản lý (hay cịn gọi là quyền
quản trị cơng ty). Quyền sở hữu được giao cho cơ quan quyền lực cao nhất trong

CTCP là ĐHĐCĐ, với tư cách là cơ quan sở hữu có quyền lực tối cao trong CTCP,
ĐHĐCĐ được tạo ra các luật lệ nền tảng, “hiến pháp” cho sự thành lập và vận hành
của CTCP như điều lệ và các thỏa thuận thành lập; ngồi ra, ĐHĐCĐ cịn có thể
đưa ra các nghị quyết xác định chủ trương, mục tiêu và hướng đi mang tính chất
định hướng vĩ mơ cho q trình vận hành của CTCP. Quyền quản lý cơng ty được
trao cho HĐQT và các nhà quản lý khác trong cơng ty (như các giám đốc), theo đó
quyền này cho phép HĐQT có thể ban hành ra các quy chế nội bộ, ban hành ra các
quyết định nhằm điều hành hoạt động của công ty một cách thường xuyên, đảm bảo
cho các luật lệ nền tảng của công ty, các chủ trương, chính sách do ĐHĐCĐ đưa ra
được vận hành trên thực tế.
Quyền quản lý công ty của HĐQT được thực hiện trên cơ sở đảm bảo
quyền lợi của các cổ đông và công ty, bởi lẽ HĐQT là cơ quan được các cổ đông
thành lập, đại diện cho các cổ đông và bảo vệ các cổ đông. Do vậy, trong quá trình
thực hiện quyền quản lý của mình trong cơng ty, HĐQT khơng được đặt lợi ích của
mình lên trên lợi ích của các cổ đơng và cơng ty, từ đó làm phương hại đến các chủ
thể này.
Thơng qua quyền quản lý, HĐQT khơng những có khả năng ban hành các
quy chế nội bộ trong công ty, mà cịn có thể quyết định cơ cấu tổ chức của công ty ở
35

Ở LDN năm 2005, “Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý cơng ty, có tồn quyền nhân danh công ty để
quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ
đông”, theo Điều 108.1;
Ở LDN năm 2014, “Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý cơng ty, có tồn quyền nhân danh cơng ty để quyết
định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông”, theo
Điều 149.1.

16



các cơ quan quản lý thấp hơn HĐQT sao cho phù hợp với đường lối, định hướng
phát triển công ty của mình (chẳng hạn như HĐQT có thể quyết định thành lập hay
giải thể đối với một số phòng ban trong CTCP).
Đặc điểm này của HĐQT còn được thể hiện thơng qua vai trị giám sát của
HĐQT đối với những cơ quan quản lý cấp dưới (như giám đốc, tổng giám đốc,
trưởng phịng, phó phịng…) và người lao động của công ty nhằm đảm bảo rằng
những chủ thể này thực hiện đúng những quy chế, những chủ trương, chính sách mà
HĐQT đã đề ra trong quá trình đảm bảo sự vận hành của các luật lệ nền tảng của
công ty, các văn bản do ĐHĐCĐ ban hành.
1.2.2.2. Hội đồng quản trị là cơ quan chấp hành của đại hội đồng cổ đông
HĐQT do ĐHĐCĐ bầu ra và chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ, hay nói cách
khác, HĐQT là cơ quan chấp hành của ĐHĐCĐ.
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, quyền bầu, bổ nhiệm các thành viên
của HĐQT, hay nói cách khác là quyền thành lập ra HĐQT thuộc về ĐHĐCĐ, là cơ
quan quyền lực cao nhất của CTCP. Tuy nhiên, theo các mơ hình CTCP đầu tiên
của thế kỷ XIX, các cổ đông sẽ họp và quyết định việc bổ nhiệm thành viên HĐQT
thông qua sự đề xuất của người sáng lập, chủ tịch, chủ doanh nghiệp và các thành
viên khác trong công ty. Đây cũng là cách mà các cơng ty tư nhân và cơng ty gia
đình đang sử dụng36. Đối với các công ty đại chúng có quy mơ lớn thì các thành
viên của HĐQT thường được chính các thành viên HĐQT đương nhiệm, đặc biệt là
các thành viên có tham gia điều hành, lựa chọn, và thường được cổ đông phê duyệt
ở đại hội cổ đơng thường niên37.
Dù trên thực tế có sự khác biệt, nhưng xét về mặt pháp lý, HĐQT vẫn là cơ
quan do ĐHĐCĐ bầu ra. Chính vì do ĐHĐCĐ bầu ra, và đồng thời HĐQT cũng là
cơ quan đại diện cho lợi ích của tồn cơng ty, của các cổ đơng, nên một trong những
nhiệm vụ quan trọng của HĐQT trong CTCP là báo cáo, giải trình đối với các cổ
đơng của cơng ty, hay nói cách khác là chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ, đặc điểm
này liên quan chặt chẽ đến vai trị đảm bảo tính tn thủ (conformance role). Theo
đó, HĐQT dù có thể đưa ra các định hướng, chủ trương, chính sách để dẫn dắt hoạt
động của cơng ty nhằm hướng tới sự phát triển bền vững của công ty, tuy nhiên các

chủ trương, chính sách này phải tuân thủ theo các luật lệ nền tảng mà ĐHĐCĐ đã
ban hành, ngay cả trong trường hợp các luật lệ nền tảng này khơng hồn tồn hợp lý
36

Bob Tricker (2012), Corporate Governance – Kiểm sốt quản trị: Các ngun tắc, chính sách và thực
hành về quản trị công ty và cơ chế kiểm soát quản trị, bản dịch của Nguyễn Dương Hiếu và Nguyễn Thị Thu
Hương, Nhà xuất bản Thời đại, tr. 118.
37
Bob Tricker, tlđd (36), tr. 118.

17


và có thể kiềm hãm sự phát triển của cơng ty (trong trường hợp này, HĐQT có thể
đề xuất ĐHĐCĐ thay đổi, điều chỉnh các luật lệ nền tảng này).
Tuy vậy, nhưng trong mối quan hệ với ĐHĐCĐ, HĐQT vẫn giữ vai trò độc
lập tương đối trong việc đưa ra các quyết định của mình. Bởi lẽ, thơng thường
ĐHĐCĐ chỉ họp từ 1-2 lần mỗi năm, do đó khả năng kiểm sốt các quyết định của
HĐQT từ phía cơ quan này thường không chặt chẽ. Đồng thời, xét về mặt chun
mơn thì HĐQT cũng thường là những người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực
kinh doanh của công ty cũng như kiến thức về quản trị, luật pháp cao hơn các cổ
đơng của cơng ty, do đó các luật lệ nền tảng được ĐHĐCĐ ban hành trong quá trình
hoạt động của CTCP cũng thường xuất phát từ kiến nghị và đóng góp xây dựng của
các thành viên HĐQT.
1.3.

Các kiểu cấu trúc quản trị phổ biến trên thế giới

CTCP vốn là một loại hình cơng ty với cơ chế rất đặc biệt, theo đó người
đầu tư tiền vào cơng ty thì lại khơng có quyền quản lý cơng ty, cịn người có quyền

quản lý cơng ty thì lại gần như không đầu tư tiền vào công ty. Điều này đã dẫn đến
một số lo ngại cho việc quản trị công ty và nhu cầu phát triển chế định HĐQT như
tác giả đã đề cập ở phần trên của khóa luận. Trên thực tế, việc phát triển chế định
HĐQT của CTCP gắn liền với một khái niệm đã tồn tại từ rất lâu về trước, nhưng
vẫn còn rất mới tại Việt Nam, đó là khái niệm kiểm sốt quản trị (corporate
governance)38.
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều quan điểm về khái niệm kiểm soát quản
trị, song dường như các nhà nghiên cứu, các nhà quản trị và các nhà làm luật vẫn
chưa thể thống nhất một định nghĩa về quản trị cơng ty mang tính tồn cầu39. Bộ
ngun tắc quản trị công ty của OECD (OECD Corporate Governance Principles
2004) định nghĩa quản trị công ty là một tập hợp các mối quan hệ rất rộng bao gồm
các mối quan hệ giữa Ban Giám đốc, HĐQT, cổ đông và các bên có quyền lợi liên
quan khác, quản trị cơng ty cũng là một phương thức để thiết lập cơ cấu qua đó giúp
xây dựng được các mục tiêu của cơng ty và xác định phương tiện cũng như thực

38

Thuật ngữ “kiểm soát quản trị” được hai dịch giả Nguyễn Dương Hiếu, Nguyễn Thị Thu Hương và chuyên
gia nghiên cứu kinh tế Giản Tư Trung sử dụng trong cuốn sách chuyên khảo: Corporate Governance – Kiểm
sốt quản trị: các ngun tắc, chính sách và thực hành về quản trị công ty và cơ chế kiểm soát quản trị do
Nhà xuất bản Thời đại xuất bản năm 2012. Quyển sách này được dịch từ nguyên bản tiếng Anh: Corporate
Governance: Principles, policies and practises, bản in lần đầu của tác giả Bob Tricker do Nhà xuất bản
Oxford University Press xuất bản năm 2009.
39
Bùi Xuân Hải (2012), “Lý luận về mơ hình quản trị cơng ty ở nước ngoài và vấn đề tiếp nhận vào Việt
Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5 (289)/2012, tr. 58.

18



hiện việc giám sát để đảm bảo mục tiêu được hồn thành40. Ở một khía cạnh khác,
Ủy ban về Các khía cạnh tài chính của quản trị cơng ty của Anh thông qua Báo cáo
Cadbury công bố năm 1992 cũng đưa ra định nghĩa về kiểm soát quản trị, theo đó
“kiểm sốt quản trị là một quy trình mà qua đó cơng ty được điều khiển, định hướng
và kiểm sốt”41. Tại Việt Nam, Bộ Tài chính cũng đưa ra một khái niệm về quản trị
cơng ty, theo đó “Quản trị công ty là hệ thống các quy tắc để đảm bảo cho công ty
được định hướng điều hành và được kiểm sốt một cách hiệu quả vì quyền lợi cổ
đơng và những người liên quan đến công ty”42.
Như vậy, kiểm sốt quản trị bao gồm rất nhiều cơng việc khác nhau, nó liên
quan đến HĐQT, đến BKS hay các cấp quản lý khác như các giám đốc, phó Giám
đốc…và kể cả các cổ đông. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận này
thì tác giả chỉ nghiên cứu về kiểm soát quản trị để bổ trợ cho việc nghiên cứu về
HĐQT. Theo đó, sự tác động của kiểm sốt quản trị lên HĐQT được thể hiện trước
hết thơng qua việc tổ chức cấu trúc quản trị tại các CTCP.
Cấu trúc quản trị trong CTCP là một nội dung rất rộng, bao hàm các vấn đề
liên quan đến mối quan hệ giữa nhiều cơ quan khác nhau trong CTCP, từ ĐHĐCĐ
đến HĐQT và đến các cơ quan quản lý khác trong cơng ty như BKS, các CEO,
giám đốc, phó giám đốc, trưởng phịng, phó phịng… Tuy nhiên, trong phạm vi
khóa luận này, các nội dung về cấu trúc quản trị trong CTCP chỉ được trình bày
trong mối tương quan với HĐQT để làm rõ các nội dung nghiên cứu về HĐQT.
Trong một số trường hợp, một số cơ quan khác thuộc cấu trúc quản trị trong CTCP
cũng được đề cập đến để làm rõ nội dung nghiên cứu về HĐQT (chẳng hạn như
BKS – Hội đồng giám sát).
Cấu trúc quản trị trong CTCP hiện nay vẫn là một vấn đề chưa được thống
nhất trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, nhìn
chung thì trên thế giới hiện nay có hai cấu trúc quản trị cơ bản: i) Cấu trúc hội đồng
kép hay còn gọi là cấu trúc hội đồng hai cấp hoặc cấu trúc hai hội đồng (dual board
hay two-tier board); và ii) Cấu trúc hội đồng đơn hay còn gọi là cấu trúc hội đồng
một cấp (unitary board hay one-tier board)43.
1.3.1.


Cấu trúc hội đồng một cấp

40

Organisation for Economic Co-operation and Development (OECD) (2004), OECD Principles of
Corporate Gorvenance, Paris, tr. 11.
41
The Committee on the Financial Aspects of Corporate Governance (1992), Cadbury Report: Financial
Aspects of Corporate Governance, London, Mục 2.5.
42
Điều 2.1(a) Quyết định 12/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ngày 13/03/2007 về việc ban hành quy chế
quản trị công ty áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán/Trung tâm Giao dịch
chứng khoán.
43
Bùi Xuân Hải (2012), tlđd (39), tr. 61.

19


Trong khi đó, cấu trúc hội đồng một cấp được thực hiện chủ yếu tại các
quốc gia theo hệ thống thơng luật, mà chủ yếu là Anh và Mỹ44, ngồi ra cịn có các
nước khác như Australia, New Zealand, Canada45 như là một cách để phản đối lại
cấu trúc hội đồng hai cấp đang được thực hiện tại các nước châu Âu lục địa. Sở dĩ
có sự khác biệt trong việc thiết lập cấu trúc quản trị tại các quốc gia nói trên là vì
Anh một phần cho rằng cấu trúc hội đồng hai cấp sẽ chia tách quyền lực của
HĐQT, và từ đó thay thế cái được xem là một hệ thống quản trị bền vững46.
Có thể khái quát cấu trúc hội đồng một cấp theo sơ đồ sau:
Hình 1: Cấu trúc hội đồng một cấp47
ĐHĐCĐ


HĐQT

Ghi chú:
Thành lập/Giám sát

CEO và đội ngũ
điều hành cấp cao

Các giám đốc
và nhân viên

Cấu trúc hội đồng một cấp là một cấu trúc tổ chức quản trị trong CTCP,
theo đó bộ phận quản lý – điều hành trong CTCP chỉ gồm duy nhất HĐQT do
ĐHĐCĐ thành lập mà khơng có bất kỳ một bộ phận riêng biệt khác thực hiện chức
năng giám sát HĐQT. Tuy nhiên, điều này khơng có nghĩa là các thành viên HĐQT
khơng bị giám sát, vì cấu trúc hội đồng một cấp ghi nhận một loại thành viên
HĐQT rất đặc biệt, đó là thành viên độc lập HĐQT, hay cịn gọi là thành viên
HĐQT không tham gia điều hành (non-executive directors). Trên thực tế, các thành
viên không tham gia điều hành trong HĐQT một cấp có thể đóng vai trị là các
44

Bob Tricker, tlđd (36), tr. 51.
Lê Đức Nghĩa (2011), Cấu trúc Hội đồng quản trị công ty đại chúng: So sánh pháp luật Việt Nam và Mỹ,
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 34.
46
Bob Tricker, tlđd (36), tr. 31.
47
Bob Tricker, tlđd (36), tr. 353.
45


20


×