Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Hủy bỏ hợp đồng theo quy định của bộ luật dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (956.53 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-----------***-----------TRUNG TÂM QUẢN LÝ ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO
VÀ ĐÀO TẠO QUỐC TẾ

HOÀNG MỸ DUYÊN

HỦY BỎ HỢP ĐỒNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Dân sự
Niên khóa: 2014 - 2018

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-----------***-----------TRUNG TÂM QUẢN LÝ ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO
VÀ ĐÀO TẠO QUỐC TẾ

HOÀNG MỸ DUYÊN

HỦY BỎ HỢP ĐỒNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Dân sự
Niên khóa: 2014 - 2018



Người hướng dẫn khoa học: Ths. Lê Thị Hồng Vân
Người thực hiện: Hoàng Mỹ Duyên
MSSV: 1453801012064
Lớp: CLC 39A

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “Hủy bỏ hợp đồng theo quy định của Bộ
luật Dân sự năm 2015” này là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung và kết
quả nghiên cứu nêu trong khóa luận đảm bảo tính trung thực. Để hồn thành khóa luận
tơi có tham khảo sử dụng một số nhận xét, đánh giá của các tác giả, cơ quan tổ chức
khác, đảm bảo tuân thủ các quy định về trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Nếu khơng đúng với cam đoan, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 06 năm 2018

Người thực hiện khóa luận

Hồng Mỹ Dun


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận này, tác giả xin gửi lời cảm ơn
đến các thầy cô tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh đã chỉ bảo, dạy dỗ trong suốt thời gian học tập tại
trường. Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất
đến cô Ths. Lê Thị Hồng Vân, cảm ơn cô vì đã tận tình

giúp đỡ và hướng dẫn trong suốt q trình tác giả thực
hiện khóa luận.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã ln ở bên động viên và
khun nhủ tác giả.
Xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015............................................................................... 1
1.1. Khái niệm hủy bỏ hợp đồng ......................................................................... 1
1.2. Căn cứ hủy bỏ hợp đồng ............................................................................... 3
1.2.1. Trường hợp một bên vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên
đã thỏa thuận ..................................................................................................... 3

1.2.2. Trường hợp một bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng ........... 4
1.2.3. Các trường hợp khác do luật định .......................................................... 8
1.3. Thủ tục hủy bỏ hợp đồng ............................................................................ 14
1.4. Hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng .............................................. 17
1.4.1. Về giá trị pháp lý .................................................................................... 17
1.4.2. Về lợi ích vật chất .................................................................................. 19
1.4.3. Về trách nhiệm pháp lý .......................................................................... 21
1.5. So sánh hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng
theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 ............................................................ 23
1.6. So sánh hủy bỏ hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015 với một số luật
khác của Việt Nam và nước ngoài .................................................................... 25
1.6.1. Với Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005 ................ 25
1.6.2. Với Luật Thương mại năm 2005 ........................................................... 28
1.6.3. Với Bộ luật Dân sự Pháp sửa đổi năm 2016 ......................................... 30
1.6.4. Với Công ước Liên hiệp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

năm 1980 .......................................................................................................... 32
1.7. Ý nghĩa của việc quy định về hủy bỏ hợp đồng ........................................ 34

Kết luận chương 1 ................................................................................................. 36
CHƯƠNG 2: NHỮNG BẤT CẬP TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .......................... 37


2.1. Hủy bỏ hợp đồng khi có sự vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng .. 37
2.2. Thủ tục hủy bỏ hợp đồng ............................................................................ 41
2.3. Hệ quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng ................................................. 44
2.3.1. Về hủy bỏ một phần hợp đồng ............................................................... 44
2.3.2. Về các điều khoản bảo lưu khi hủy bỏ hợp đồng .................................. 48
2.3.3. Về việc hồn trả tài sản và chi phí hợp lý khi hoàn trả tài sản ............ 49
2.3.4. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba khi hủy bỏ hợp đồng ..................... 53

Kết luận chương 2 ................................................................................................. 59
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh hội nhập, nền kinh tế đang phát triển vô cùng nhanh chóng và
mạnh mẽ, quan hệ hợp đồng trở thành loại giao dịch rất quan trọng và phổ biến
trong đời sống. Do đó, hợp đồng là một trong những chế định cơ bản trong pháp
luật dân sự của bất kì quốc gia nào. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Một trong những nguyên
tắc khi hai bên giao kết hợp đồng đó là phải hồn tồn tự nguyện. Vì vậy, các bên

phải có trách nhiệm thực hiện quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Tuy nhiên, vì
các nguyên nhân khác nhau mà rất nhiều hợp đồng dù được giao kết hợp pháp và có
hiệu lực nhưng khơng mang lại lợi ích mà các bên mong muốn. Khi đó, một trong
những giải pháp mà Bộ luật Dân sự cho phép các bên áp dụng để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình chính là hủy bỏ hợp đồng.
Quy định về hủy bỏ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2015 đã phần nào khắc
phục rất nhiều hạn chế của Bộ luật Dân sự 2005 về hủy bỏ hợp đồng. Mặc dù hủy
bỏ hợp đồng không phải là đề tài quá mới trong nghiên cứu luật học. Nhưng trong
bối cảnh Bộ luật Dân sự 2015 mới có hiệu lực thì việc nhận thức các thay đổi trong
quy định về hủy bỏ hợp đồng là một điều cần thiết. Bởi lẽ, nhận thức đầy đủ về hủy
bỏ hợp đồng sẽ giúp các bên nâng cao ý thức thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của bản
thân, ngăn chặn việc hủy bỏ hợp đồng, hiểu rõ và đưa ra lựa chọn thích đáng để giải
quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng giữa các bên.
Dựa trên sự nghiên cứu, phân tích các quy định về hủy bỏ hợp đồng và thực
tiễn áp dụng pháp luật, tác giả nhận ra rằng bên cạnh nhiều điểm mới tiến bộ, quy
định về hủy bỏ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2015 vẫn còn tồn tại những điểm hạn
chế nhất định. Vì thế, các quy định về hủy bỏ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2015
cần được nghiên cứu, trao đổi để ngày một hoàn thiện hơn. Từ những lý do trên, tác
giả quyết định chọn đề tài “Hủy bỏ hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm
2015” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đã có nhiều chuyên gia, học giả quan tâm, nghiên cứu về hủy bỏ
hợp đồng, trong đó có những cơng trình khai thác vấn đề ở góc độ chung, bao qt,
cũng có những cơng trình khai thác ở một số khía cạnh cụ thể. Đáng kể là những


cơng trình nghiên cứu của tác giả Đỗ Văn Đại. Cụ thể là “Vấn đề hủy bỏ, đình chỉ
hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam.”, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, số 9/2004; Tạp chí Khoa học pháp lý số 3/2004, đề tài nghiên cứu trên góc độ
có hành vi vi phạm hợp đồng trước và sau khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ nhưng

hành vi vi phạm đó các bên khơng có thỏa thuận hoặc pháp luật không quy định; về
khả năng hủy bỏ hợp đồng khi có vi phạm trong đề tài “Về vấn đề hủy bỏ hợp đồng
khi có vi phạm ở Việt Nam”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 2/2009; Ngồi ra, tác giả
Đỗ Văn Đại cịn có nghiên cứu rất nhiều về hủy bỏ hợp đồng, thể hiện trong cuốn
Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam
(sách chuyên khảo), Nxb. Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh - 2010, Bình luận
khoa học – Những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, Nxb. Chính trị quốc gia 2017 và trong một số bản án, quyết định tại Luật hợp đồng Việt Nam, Bản án và
bình luận Bản án, Nxb. Chính trị quốc gia – 2017.
Bên cạnh đó, cịn có một số cơng trình nghiên cứu khác về vấn đề hủy bỏ hợp
đồng như:
Nguyễn Nhật Thanh (2010), Hủy bỏ hợp đồng do vi phạm trong q trình thực
hiện, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Khóa
luận đi sâu phân tích những quy định về hủy bỏ hợp đồng khi có vi phạm theo Bộ
luật Dân sự 2005 đồng thời đưa ra những kiến nghị rất có tính tham khảo như kiến
nghị về ghi nhận vi phạm nghiêm trọng và hủy bỏ hợp đồng trước hạn,…
Võ Thị Thanh (2012), Hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt thực hiện
hợp đồng theo quy định của bộ luật dân sự 2005, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Khóa luận tập trung phân tích quy định về hủy bỏ
hợp đồng và đơn phương chấm dứt hủy bỏ hợp đồng, bên cạnh đó, tác giả cũng đưa
ra kiến nghị về hủy bỏ một phần hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng trước hạn,…
Ngô Thị Minh Loan (2014), Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong bộ luật dân
sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Luận
văn nghiên cứu rất sâu rộng các vấn đề về hủy bỏ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự
2005, đồng thời đưa ra nhiều kiến nghị có tính đóng góp như kiến nghị về hủy bỏ
hợp đồng khi có vi phạm nghiêm trọng, bảo vệ quyền lợi của người thứ ba khi hủy
bỏ hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng trước hạn,…


Nguyễn Khắc Cường (2013), Hoàn thiện quy định về hợp đồng và hủy bỏ hợp
đồng trong bộ luật dân sự, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 257/2013. Bài viết

phân tích những thiếu sót trong quy định về hủy bỏ hợp đồng theo Bộ luật Dân sự
2005 và đưa ra kiến nghị trên ba vấn đề hủy bỏ hợp đồng khi có vi phạm điều khoản
cơ bản, hủy bỏ hợp đồng khi có vi phạm thấy trước và bổ sung quy định về quyền
đánh giá của Tòa án khi có tranh chấp hủy bỏ hợp đồng.
Nguyễn Quốc Vinh (2015), Ba vấn đề vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong Bộ
luật Dân sự năm 2005: Kinh nghiệm nhìn từ Nhật Bản, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 12/2015. Bài viết phân tích quy định về hủy bỏ hợp đồng trong Bộ luật
Dân sự Nhật Bản, từ đó đối chiếu với Bộ luật Dân sự 2005 và đưa ra những kiến
nghị hoàn thiện.
Trần Thị Thu Ngân - Bùi Thị Hằng Nga (2016), Điều kiện hủy bỏ hợp đồng
theo quy định Bộ luật Dân sự, Tạp chí Kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao số
21/2016. Trong bài viết, tác giả đã phân tích, đánh giá sự cần thiết và tiến bộ của
căn cứ hủy bỏ hợp đồng khi có vi phạm nghiêm trọng; Ngồi ra, cịn có một vài
cơng trình nghiên cứu nổi bật khác như Hoàng Thế Liên (CB) (2013), Bình luận
khoa học Bộ luật Dân sự 2005, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội; Võ Văn Đạt
(2014), Chế tài hủy bỏ hợp đồng trong Luật Thương mại 2005, Luận văn thạc sĩ,
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Thùy Trang (2013), Một số
vấn đề pháp lý về hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng, Tạp chí Ngân hàng, số 20;
Võ Sỹ Mạnh (2017), “Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo Bộ luật Dân sự
2015”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 87;…
Nhìn chung, các cơng trình trên phần lớn đi sâu nghiên cứu các quy định về
hủy bỏ hợp đồng của BLDS 2005, vẫn chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu một
cách tổng quát các quy định về hủy bỏ hợp đồng theo BLDS 2015. Tác giả nhận
thấy rằng việc nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận cũng như thực tiễn áp
dụng pháp luật của quy định hủy bỏ hợp đồng trong BLDS 2015 sẽ cho thấy cái
nhìn tổng quan hơn và góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật liên quan
đến vấn đề này. Vì vậy, tác giả lựa chọn đi sâu nghiên cứu vấn đề này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định về hủy bỏ hợp đồng trong

Bộ luật Dân sự năm 2015.


Phạm vi nghiên cứu của đề tài là quy định về hủy bỏ hợp đồng trong Bộ luật
Dân sự 2015, so sánh các quy định đó với một số đạo luật khác của Việt Nam và
pháp luật nước ngoài. Đồng thời, đề tài có liên hệ với thực tiễn áp dụng quy định
pháp luật về hủy bỏ hợp đồng, phân tích các bất cập và đưa ra một số kiến nghị liên
quan đến quy định về hủy bỏ hợp đồng theo Bộ luật Dân sự 2015.
4. Mục đích nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài nhằm đi sâu phân tích, làm rõ nội dung các quy định
của Bộ luật Dân sự năm 2015 về vấn đề hủy bỏ hợp đồng. Tác giả so sánh hủy bỏ
hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 với các đạo luật khác trong hệ
thống pháp luật Việt Nam và các hệ thống pháp luật khác để chỉ rõ điểm tương
đồng và khác biệt. Bên cạnh đó, tác giả cũng tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng
pháp luật các quy định về hủy bỏ hợp đồng. Qua việc nghiên cứu thực tiễn, tác giả
thấy được những khó khăn, vướng mắc mà các bên trong hợp đồng cũng như Tòa
án gặp phải, từ đó, tìm ra ngun nhân và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
các quy định của pháp luật.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài bằng nhiều phương pháp khác nhau:
phương pháp tổng hợp, phân tích, bình luận, so sánh, thống kê,…để làm sáng tỏ nội
dung nghiên cứu. Trong đó, phương pháp phân tích, tổng hợp là phương pháp được
sử dụng chủ yếu trong chương 1 của khóa luận để giải thích và đi sâu vào các vấn
đề cần nghiên cứu. Phương pháp so sánh, đánh giá,… được sử dụng ở chương 2 để
chỉ ra sự khác biệt, ưu điểm, khuyết điểm và kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Về mặt lý luận: Đề tài góp phần làm sáng tỏ trong khoa học pháp lý các vấn đề
lý luận về hủy bỏ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2015. Kết quả nghiên cứu của đề
tài có thể làm tài liệu giúp các học giả nghiên cứu, tìm hiểu về hủy bỏ hợp đồng
trong Bộ luật Dân sự 2015. Đồng thời, một số kiến nghị trong đề tài có thể giúp

hồn thiện những quy định về hủy bỏ hợp đồng.

Về mặt thực tiễn: việc làm rõ những vấn đề cịn bất cập trong q trình áp
dụng pháp luật và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện giúp các nhà áp dụng pháp


luật nắm rõ ý nghĩa của quy định hủy bỏ hợp đồng. Từ đó, có thể áp dụng biện pháp
này một cách hiệu quả và hợp lý hơn.
7. Bố cục của đề tài: Đề tài chia làm 2 chương
Chương 1: Khái quát về hủy bỏ hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự
2015. Chương này tác giả tập trung nghiên cứu khái quát về hủy bỏ hợp đồng theo
quy định của Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể như: khái niệm, căn cứ hủy bỏ, thủ tục áp
dụng, hậu quả pháp lý. Tác giả có liên hệ, so sánh với các quy định của một số đạo
luật khác của Việt Nam như Luật Thương mại 2005, Bộ luật Dân sự 1995 và 2005,
và với pháp luật nước ngoài như Bộ luật Dân sự Pháp, Công ước của liên hợp quốc
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980,…
Chương 2: Những bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hủy bỏ hợp
đồng và một số kiến nghị. Từ những vấn đề lý luận ở chương 1, sang chương 2, tác
giả tập trung nghiên cứu những vấn đề trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hủy bỏ
hợp đồng. Từ đó, chỉ ra những bất cập và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các
quy định về hủy bỏ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2015.


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
1.1. Khái niệm hủy bỏ hợp đồng
Hợp đồng luôn là một giao dịch dân sự quan trọng và cực kì phổ biến trong
cuộc sống của mỗi chúng ta. Khi nền kinh tế ngày một phát triển, pháp luật càng
được xem trọng thì các vấn đề pháp lý xung quanh hợp đồng cũng càng được chú ý
hơn. Hợp đồng là một thuật ngữ có từ rất lâu đời và lần đầu tiên được sử dụng tại

La Mã vào khoảng thế kỷ V-IV trước Công nguyên. Vốn dĩ thuật ngữ hợp đồng bắt
nguồn từ động từ “contrahere” trong tiếng La tinh, nó có nghĩa là “ràng buộc”. Các
luật gia La Mã định nghĩa hợp đồng là căn cứ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quan hệ pháp luật. Hợp đồng phải có hai dấu hiệu đặc trưng: thứ nhất là sự thỏa
thuận tức là phải có sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể bình đẳng về địa vị pháp lý
và thứ hai là phải có mục đích nhất định mà các bên hướng tới1. Bộ luật Dân sự
(BLDS) 2015 định nghĩa hợp đồng tại Điều 388, theo đó, “hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự”. Như vậy, “khái niệm hợp đồng trong BLDS 2015 có phạm vi điều chỉnh rộng,
bao gồm rất cả các loại hợp đồng trong đời sống dân sự”2.
Về nguyên tắc, hợp đồng được giao kết hợp pháp và có hiệu lực thì có giá trị
pháp lý ràng buộc các bên. Khi hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện nghĩa vụ
theo thoả thuận trong hợp đồng. Theo nguyên tắc của BLDS, các bên phải thực hiện
nghĩa vụ của mình một cách thiện chí, trung thực đúng theo những gì đã thỏa thuận.
BLDS 1995 và BLDS 2005 dành một điều khoản để quy định về nguyên tắc thực
hiện hợp đồng, tuy nhiên BLDS 2015 đã loại bỏ quy định này. Dù vậy, việc thực hiện
hợp đồng vẫn phải tuân theo các nguyên tắc chung quy được quy định tại Điều 3
BLDS 2015. Tuy nhiên, việc thực hiện hợp đồng không phải lúc nào cũng thuận lợi
như mong muốn của các bên, có nhiều trường hợp vì cố ý hoặc vơ ý, một trong các
bên có hành vi vi phạm hợp đồng. Vi phạm hợp đồng thường thể hiện ở ba dạng
chính đó là khơng thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng các
cam kết về thực hiện nghĩa vụ giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Hành

1

Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, tr. 29-30.
Nguyễn Thị Minh Phượng (2016), “Những điểm mới của quy định về giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân
sự 2015”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 22, tr. 13.
2


1


vi vi phạm hợp đồng có thể làm thiệt hại đến lợi ích của các bên và nghiêm trọng hơn
nó khiến các bên khơng đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các quan hệ hợp đồng mở rộng theo
hướng toàn cầu hóa thì tỷ lệ vi phạm hợp đồng ngày một cao hơn. Để hạn chế vi
phạm và giải quyết các hậu quả của nó, pháp luật dân sự của các nước đều quy định
nhiều chế tài cho phép bên bị vi phạm hợp đồng áp dụng khi bên kia vi phạm hợp
đồng. Một trong những biện pháp đó là hủy bỏ hợp đồng.
Theo từ điển, “hủy bỏ” được hiểu là loại bỏ những thứ đang tồn tại, làm cho
nó khơng cịn tồn tại nữa. Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học không quy định thế
nào là “hủy bỏ hợp đồng” mà thay vào đó quy định “hợp đồng bị hủy bỏ là hợp đồng
được giao kết hợp pháp nhưng bị coi là khơng có hiệu lực thực hiện nữa.”3 Nhìn lại,
Pháp lệnh Hợp đồng Dân sự 1991, BLDS 1995, 2005 và 2015 cũng khơng có định
nghĩa “hủy bỏ hợp đồng” mà chỉ quy định về các điều kiện hủy bỏ hợp đồng. Luật
Thương mại (LTM) 2005 không định nghĩa hủy bỏ hợp đồng nói chung mà thay vào
đó lại đưa ra hai khái niệm về “hủy bỏ một phần” và “hủy bỏ tồn bộ” hợp đồng.
Theo đó, Điều 312 LTM 2005 quy định “Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ
hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng”,
“Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng,
các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực”. Trong hệ thống thông luật, hủy bỏ
hợp đồng lại được định nghĩa “là hành động không thực hiện hợp đồng từ ban đầu”4.
Có quan điểm cho rằng “hủy bỏ hợp đồng là triệt tiêu quá khứ cũng như tương lai của
hợp đồng đã được giao kết hợp pháp và lý do triệt tiêu hợp đồng ở đây không tồn tại
vào thời điểm giao kết”5. Từ các định nghĩa trên, có thể hiểu hủy bỏ hợp đồng là việc
một bên đơn phương tuyên bố việc tiêu hủy hợp đồng, khi có căn cứ do các bên thỏa
thuận hoặc pháp luật quy định là điều kiện hủy bỏ hợp đồng 6.
Nguyên nhân dẫn đến hợp đồng bị hủy bỏ là các vi phạm trong quá trình thực
hiện hợp đồng. Vì thế, hợp đồng bị hủy bỏ phải là các hợp đồng được giao kết hợp

pháp và đang trong quá trình thực hiện. Thật vậy, chúng ta không thể hủy bỏ một
hợp đồng ở giai đoạn giao kết vì khi đó hợp đồng cịn chưa bước vào giai đoạn thực
3

Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb. Công an nhân dân, tr. 68.
Henry R. Cheeseman , Business Law (8th edition), tr. 276.
5
Đỗ Văn Đại (2009), “Về vấn đề hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm ở Việt Nam”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 1, tr. 29.
6
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Đỗ Văn Đại, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 254.
4

2


hiện. Khi hợp đồng bị hủy bỏ, các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và trở về
tình trạng ban đầu như khi chưa có hợp đồng. Ví dụ, A bán cho B chiếc laptop trị
giá 10 triệu đồng, hai bên thỏa thuận A phải giao chiếc laptop cho B vào ngày
1/5/2018, nếu A khơng giao thì B có quyền hủy bỏ hợp đồng và A phải hồn trả cho
B số tiền 10 triệu đồng. Đến ngày 1/5/2018 A khơng thể giao laptop cho B vì A đã
mất chiếc laptop và trên thị trường hiện khơng có loại laptop nào cùng loại có thể
thay thế được. Như vậy, A đã có hành vi vi phạm hợp đồng. B có quyền hủy bỏ hợp
đồng và A phải trả lại cho B 10 triệu đồng.
Tóm lại, hủy bỏ hợp đồng có thể hiểu là việc một bên đơn phương tuyên bố
việc tiêu hủy hợp đồng, khi có căn cứ do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy
định là điều kiện hủy bỏ hợp đồng. Để áp dụng quy định về hủy bỏ hợp đồng, chúng
ta phải dựa trên những căn cứ và tuân thủ những trật tự, thủ tục do BLDS quy định.
1.2. Căn cứ hủy bỏ hợp đồng
Theo nguyên tắc, hủy bỏ hợp đồng chỉ có thể được áp dụng khi và chỉ khi có

sự vi phạm hợp đồng, tuy nhiên, không phải sự vi phạm hợp đồng nào cũng cho
phép bên bị vi phạm sử dụng biện pháp này. Theo quy định tại Điều 423 BLDS
2015, một bên được quyền hủy bỏ hợp đồng khi: một bên vi phạm hợp đồng là điều
kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận; bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp
đồng và trường hợp khác do luật quy định.
1.2.1. Trường hợp một bên vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các
bên đã thỏa thuận
Hợp đồng được giao kết có hiệu lực ràng buộc và hai bên phải thực hiện nghĩa
vụ trong hợp đồng một cách thiện chí. Tuy nhiên, khơng phải mọi hợp đồng đều có
thể được thực hiện và mang lại lợi ích như ý muốn. Rất nhiều hợp đồng xảy ra tình
trạng trong khi một bên thực hiện rất nghiêm túc thì bên kia lại lơ là, thiếu hợp tác,
thậm chí vi phạm hợp đồng. Vì thế, cần có chế tài bảo vệ bên luôn thực hiện hợp
đồng nghiêm túc và xử lý đối với bên vi phạm. Các bên trong hợp đồng hồn tồn
có quyền thỏa thuận mọi khía cạnh của hợp đồng, trong đó có hủy bỏ hợp đồng.
Điểm a khoản 1 Điều 423 BLDS 2015 quy định: “Một bên có quyền hủy bỏ hợp
đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp sau đây: Một bên vi
phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận”. LTM 2005 cũng có
quy định tương tự tại Điều 312: “Một bên được quy định thực hiện hợp đồng hoặc

3


hủy bỏ hợp đồng khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện
để hủy bỏ hợp đồng”.
Như vậy, để có thể hủy bỏ hợp đồng theo điều kiện này, cần thỏa mãn hai tiêu
chí. Thứ nhất, có vi phạm hợp đồng và thứ hai, các bên có thỏa thuận hành vi vi
phạm đó là điều kiện cho phép một bên được quyền hủy bỏ hợp đồng. BLDS 2015
khơng có định nghĩa về vi phạm hợp đồng, tuy nhiên khoản 1 Điều 351 BLDS 2015
có định nghĩa về vi phạm nghĩa vụ. Theo đó, vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa
vụ khơng thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc

thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ. Hợp đồng là căn cứ làm phát sinh các
nghĩa vụ nên có thể hiểu vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng là vi phạm hợp đồng.
LTM 2005 có định nghĩa về vi phạm hợp đồng “là việc một bên không thực hiện,
thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận của
các bên hoặc theo quy định của luật này”. Dựa vào hai định nghĩa trên, có thể hiểu,
vi phạm hợp đồng là việc bên có nghĩa vụ trong hợp đồng khơng thực hiện nghĩa vụ
đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội
dung của nghĩa vụ theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
Để có thể được hủy bỏ thì việc vi phạm hợp đồng phải nằm trong điều kiện hủy
bỏ mà các bên đã thỏa thuận. Trên thực tế, việc hủy bỏ triệt tiêu hoàn toàn sự tồn tại
của hợp đồng trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Đây là một kết cục rất nặng nề
và các bên nên hạn chế để nó xảy ra. Vì vậy, nhà làm luật theo quan điểm chỉ hủy bỏ
hợp đồng khi có vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nghiêm trọng. Tuy nhiên, bởi vì pháp
luật hợp đồng dựa trên nguyên tắc tự do ý chí nên nhà làm luật vẫn cho phép các bên
được quyền thỏa thuận hủy bỏ hợp đồng. Do đó, vẫn có thể hủy bỏ hợp đồng khi vi
phạm xảy ra chưa phải là vi phạm nghiêm trọng. Khi có tranh chấp xảy ra và một bên
yêu cầu hủy bỏ hợp đồng, Tòa án sẽ phải xác định có sự vi phạm hợp đồng hay
khơng, sau đó xem xét hành vi vi phạm đó có được các bên thỏa thuận trong hợp
đồng hay không để làm cơ sở quyết định việc hủy bỏ hợp đồng. Sự thỏa thuận phải
xảy ra trước hành vi vi phạm hợp đồng, tức là hai bên đưa ra thỏa thuận trước đó rằng
nếu một bên có hành vi vi phạm thì bên kia có quyền được hủy bỏ.
1.2.2. Trường hợp một bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng
BLDS 2005 chỉ quy định hai trường hợp hủy bỏ hợp đồng đó là (i) hủy bỏ khi
có hành vi vi phạm là điều kiện được hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận và (ii) hủy

4


bỏ trong trường hợp pháp luật có quy định. Cách quy định như trên của BLDS 2005
đã dẫn tới nhiều bất cập. Cụ thể, các trường hợp pháp luật quy định ở căn cứ (ii) lại

không được liệt kê đầy đủ dẫn đến tình trạng một vài trường hợp khơng thuộc căn
cứ (i) lẫn căn cứ (ii) thì các bên sẽ khơng được quyền hủy bỏ hợp đồng khi có vi
phạm. Ví dụ: A kí hợp đồng bán căn nhà của mình cho B với giá 1 tỷ đồng. Hai bên
thỏa thuận B phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền chậm nhất đến hết ngày
30/4/2018. Hợp đồng đã được công chứng theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, hết
thời hạn trên mà bên B mới chỉ thanh toán được 300 triệu, cịn 700 triệu chưa thanh
tốn. A cho rằng bên B đã vi phạm hợp đồng và muốn hủy bỏ hợp đồng. Giữa hai
bên khơng có thỏa thuận việc vi phạm nghĩa vụ thanh toán là điều kiện hủy bỏ hợp
đồng. BLDS 2005 cũng khơng có quy định nào cho phép hủy bỏ hợp đồng mua bán
nhà khi một bên vi phạm nghĩa vụ thanh tốn. Vì lẽ đó, hợp đồng của hai bên không
thể được hủy bỏ theo căn cứ (i) và (ii).
Tình trạng “lỗ hổng pháp lý” như trên đã gây ra rất nhiều khó khăn cho Tịa án
và hệ lụy của nó là việc các Tịa án đã “vượt rào” cho phép các bên hủy bỏ dù
khơng có quy định của pháp luật. Điều cần thiết là BLDS cần xây dựng một nguyên
tắc chung cho phép các bên được hủy bỏ hợp đồng khi có vi phạm. LTM 2005 đã có
quy định theo nguyên tắc chung rằng hủy bỏ hợp đồng được phép áp dụng khi một
bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Tham khảo quy định về hủy bỏ hợp đồng
trong pháp luật các nước khác, chúng ta nhận ra rằng họ đều có quy định một
nguyên tắc chung áp dụng cho mọi loại hợp đồng. Ví dụ, BLDS Pháp sửa đổi năm
2016 quy định tại Điều 1224 như sau: “Hủy bỏ hợp đồng bắt nguồn từ việc áp dụng
một điều khoản hủy bỏ, hoặc hành vi không thực hiện nghĩa vụ một cách nghiêm
trọng”. BLDS Nhật Bản cũng quy định các nguyên tắc chung cho phép hủy bỏ hợp
đồng định từ Điều 541 đến Điều 543 và nó được áp dụng cho tất cả các loại hợp
đồng. Điều 49 Công ước Viên 1980 quy định: “Người mua có thể tuyên bố hủy hợp
đồng nếu việc người bán không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ
hợp đồng hay từ Công ước này cấu thành một vi phạm chủ yếu đến hợp đồng”.
Tiếp thu pháp luật các nước và để khắc phục tình trạng trên, BLDS 2015 đã bổ
sung thêm điều kiện hủy bỏ khi một bên có vi phạm nghiêm trọng hợp đồng. Theo
khoản 3 Điều 423: “Vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ
của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết

hợp đồng”. Tiêu chí vi phạm nghiêm trọng khơng cịn là mới mẻ trong quá trình áp

5


dụng pháp luật tại Việt Nam. BLDS 2005 đã sử dụng thuật ngữ “vi phạm nghiêm
trọng” trong các quy định làm căn cứ cho phép áp dụng các chế tài. Ví dụ, Điều 521
BLDS 2005 quy định bên thuê dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng
nếu“Trong trường hợp bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thì
bên th dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi
thường thiệt hại”, Điều 550 quy định bên đặt gia công có quyền “Đơn phương
chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại khi bên nhận gia cơng
vi phạm nghiêm trọng hợp đồng”.
Để đảm bảo tính thống nhất xuyên suốt BLDS, nhà làm luật theo hướng sử
dụng thuật ngữ “vi phạm nghiêm trọng” thay vì “vi phạm cơ bản” của LTM 2005.
“Trong thực tiễn xét xử tại Tịa án, thuật ngữ “nghiêm trọng” cũng khơng xa lạ và
đoạn trích sau của một bản án cho thấy điều vừa nêu: “Theo trình bày của người đại
diện Ủy ban nhân dân quận 4 và có sự thừa nhận của bà Vân và ơng Cư thì ngay sau
khi ký hợp đồng thuê nhà, bà Vân và ông Cư đã vi phạm hợp đồng, không trả tiền
thuê nhà đầy đủ, đúng thời gian và kể từ tháng 2-2004 đến nay, bà Vân và ông Cư
không trả tiền thuê nhà, khi hết thời hạn thuê nhà cũng không trả nhà, mặc dù bên
cho thuê đã nhiều lần gửi thông báo nhắc nhở trả tiền thuê và yêu cầu trả nhà,
nhưng bà Vân và ông Cư không thực hiện. Như vậy, bà Vân và ông Cư đã vi phạm
nghiêm trọng hợp đồng”7.

Khoản 3 Điều 423 BLDS 2015 định nghĩa “vi phạm nghiêm trọng” như sau:
“Vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức
làm cho bên kia khơng đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Thực chất,
quy định này của BLDS có kế thừa từ quy định về “vi phạm cơ bản” trong LTM
2005. Đồng thời, quy định này cũng tương tự với khái niệm về vi phạm cơ bản trong

Điều 25 Công ước Viên 1980. Về nội hàm, sự vi phạm thường dẫn đến một hậu quả
đó là làm cho bên kia khơng đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Vậy mục
đích của việc giao kết hợp đồng là gì? Theo tác giả, giống như Cơng ước Viên đã ghi
nhận tại Điều 25, mục đích của việc giao kết hợp đồng là điều mà các bên mong
muốn đạt được hay là cái mà họ có quyền chờ đợi khi xác lập hợp đồng.
Tuy nhiên, khái niệm “vi phạm nghiêm trọng” trong BLDS 2015 vẫn có điểm
khác biệt cơ bản so với khái niệm “vi phạm cơ bản” trong LTM 2005 và Công ước
7

Đỗ Văn Đại (2017), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận Bản án, Nxb. Chính trị Quốc gia, tr. 683.

6


Viên 1980. Cụ thể, khái niệm “vi phạm cơ bản” có nhắc đến yếu tố “gây thiệt hại”
trong khi khái niệm “vi phạm nghiêm trọng” lại loại bỏ cụm từ “gây thiệt hại”. Điều
đó có nghĩa rằng, sự vi phạm không nhất thiết phải “gây thiệt hại” mới được xem là
vi phạm nghiêm trọng. Đây là một sự kế thừa có tiến bộ của BLDS 2015. Bởi lẽ
“Thuật ngữ vi phạm cơ bản chỉ được sử dụng trong LTM 2005 trong ba hồn cảnh
là “tạm ngừng”, “đình chỉ” và “hủy bỏ” hợp đồng, trong khi đó, ba biện pháp này có
thể được áp dụng mà khơng cần phải chứng minh thiệt hại tồn tại hay khơng. Do đó,
thuật ngữ “thiệt hại” phải được hiểu là khơng cần có thiệt hại (khác với trường hợp
giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại) và có lẽ chúng ta khơng nên giữ thuật ngữ
“thiệt hại” trong khái niệm này để tránh sự phiền phức khi giải quyết các vấn đề tạm
ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng (đã có trường hợp cơ quan tài phán mất rất nhiều
thời gian để tranh luận có cần chứng minh hay không sự tồn tại “thiệt hại” khi giải
quyết hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp không thực hiện đúng hợp đồng và cơ
quan tài phán đã theo hướng khơng cần chứng minh có tồn tại “thiệt hại”)”8.
Trong trường hợp, một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nhưng không gây thiệt
hại cho bên kia, tuy nhiên, điều đó lại khiến họ khơng đạt được mục đích của việc

giao kết hợp đồng. Nếu xét theo LTM 2005 thì sự vi phạm nghĩa vụ này sẽ khơng
tạo thành vi phạm cơ bản, điều đó đồng nghĩa với việc bên bị vi phạm khơng có
quyền hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, xét theo BLDS 2015 thì sự vi phạm đó rất có
thể trở thành một vi phạm nghiêm trọng và là căn cứ cho phép bên bị vi phạm hủy
bỏ hợp đồng. Cách quy định của BLDS 2015 sẽ khiến việc áp dụng pháp luật trở
nên dễ dàng hơn. Tịa án khơng cần phải chứng minh và đi tìm “thiệt hại” mà thay
vào đó chỉ cần chứng minh rằng đã có vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và vi phạm đó
khiến cho bên bị vi phạm khơng đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng là
đủ. Tuy nhiên, việc xác định đâu là mục đích của các bên khi tham gia hợp đồng và
liệu việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng có làm các bên khơng đạt được mục đích đó
hay khơng cịn gặp nhiều khó khăn.
Mỗi hợp đồng được giao kết đều nhằm các mục đích khác nhau. Vì vậy, vi
phạm hợp đồng có phải vi phạm nghiêm trọng hay không cũng khác nhau trong
từng trường hợp. Hiện tại, vẫn chưa có một tiêu chuẩn rõ ràng nào được pháp luật
dân sự đặt ra để vận dụng trong khi xác định yếu tố này. Có quan điểm cho rằng,
các trường hợp xác định việc vi phạm có phải là vi phạm nghiêm trọng hay khơng
8

Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (7), tr. 685.

7


được dựa theo các trường hợp sau: thứ nhất, hành vi vi phạm có làm cho bên bị vi
phạm khơng đạt được kết quả mà họ mong muốn khi giao kết hợp đồng hay không;
thứ hai, việc xem xét vi phạm hợp đồng có phải vi phạm nghiêm trọng hay khơng
tùy thuộc vào đặc tính của nghĩa vụ trong hợp đồng có cần phải tn thủ nghiêm
ngặt hay khơng; thứ ba, dựa vào việc hành vi vi phạm có thường xun hay khơng,
có khiến bên bị vi phạm có quyền khẳng định rằng họ không thể tiếp tục tin tưởng
vào việc thực hiện hợp đồng của bên kia nữa không; thứ tư, cần phải xem xét đến

những thiệt hại không cân xứng mà bên bị vi phạm phải gánh chịu9.
Thiết nghĩ, văn bản hướng dẫn BLDS 2015 nên đưa ra các tiêu chí rõ ràng về
vấn đề này để Tịa án có thể dễ dàng xác định thế nào là vi phạm nghiêm trọng
trong khi xét xử.
1.2.3. Các trường hợp khác do luật định
Ngoài hai trường hợp trên, BLDS 2015 còn quy định thêm các trường hợp hủy
bỏ hợp đồng khác trong phần quy định chung về chấm dứt hợp đồng và các quy
định hủy bỏ cụ thể. Các trường hợp hủy hợp đồng theo quy định chung của BLDS
2015 bao gồm các Điều 424, 425 và 426.
- Hủy bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ
Trường hợp vi phạm hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ được coi là sự vi
phạm của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền, cụ thể là vi phạm về thời hạn thực
hiện nghĩa vụ.
Theo khoản 1 Điều 424 BLDS 2015 thì “trường hợp bên có nghĩa vụ khơng
thực hiện đúng nghĩa vụ mà bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong một thời
hạn hợp lý nhưng bên có nghĩa vụ khơng thực hiện thì bên có quyền có thể hủy bỏ
hợp đồng”. Đối với trường hợp ở khoản 1, bên có quyền đã đưa ra một thời hạn và
yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ trong khoảng thời hạn đó. Việc bên
có nghĩa vụ khơng thực hiện hồn tồn xuất phát từ lí do ở chính bản thân họ chứ
khơng phải do ngun nhân khách quan hay từ bên có quyền. Khi hết thời hạn thỏa
thuận mà bên có nghĩa vụ vẫn khơng thực hiện nghĩa vụ thì bên có quyền có thể hủy
bỏ hợp đồng. BLDS Nhật Bản có quy định tương tự cho phép bên có quyền được
phép hủy bỏ hợp đồng nếu bên có nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ trong thời hạn
9

Nguyễn Xuân Quang - Lê Nết - Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc
gia thành phố Hồ Chí Minh, tr. 405 - 406.

8



hợp lí: “Nếu bên có nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có
quyền đưa ra một thời hạn hợp lý và yêu cầu bên có ngĩa vụ thực hiện trong thời
hạn đó. Nếu bên kia không thực hiện nghĩa vụ trong thời hạn đã định thì bên có
quyền được quyền hủy bỏ hợp đồng” (Điều 541). Việc vi phạm nghĩa vụ trong
trường hợp ở khoản 1 Điều 424 có thể khơng dẫn đến một vi phạm nghiêm trọng.
Tuy nhiên, bên có quyền vẫn có quyền hủy bỏ hợp đồng nếu bên kia không thực
hiện nghĩa vụ trong một thời hạn hợp lý mà họ đã yêu cầu.
Đối với quy định tại khoản 2 Điều 424 BLDS 2015 thì “trường hợp do tính
chất của hợp đồng hoặc do ý chí của các bên, hợp đồng sẽ khơng đạt được mục
đích nếu khơng được thực hiện trong thời hạn nhất định mà hết thời hạn đó bên có
nghĩa vụ khơng thực hiện đúng nghĩa vụ thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng mà
khơng phải tn theo quy định tại khoản 1 Điều này”. Quy định này cũng được tiếp
thu từ BLDS Nhật Bản, cụ thể tại Điều 542: “Căn cứ vào bản chất của hợp đồng
hoặc ý chí của các bên, nếu đối tượng của hợp đồng khơng thể đạt được trừ khi nó
được thực hiện tại một thời điểm hoặc trong một thời hạn định trước thì nếu một
bên hợp đồng đã để thời điểm hoặc thời hạn này trôi qua mà không thực hiện trái
vụ của mình, bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng ngay lập tức mà không cần đưa ra
một thời hạn bổ sung nêu tại điều trên”10. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan
cũng có quy định tương tự tại Điều 388:“Nếu đối tượng của hợp đồng, theo bản
chất và theo ý chí của các bên, chỉ có thể đạt được khi được thực hiện trong một
khoảng thời gian nhất định, và nếu hết khoảng thời gian này mà một bên khơng
thực hiện nghĩa vụ, bên cịn lại có thể hủy bỏ hợp đồng mà khơng cần phải thông
báo một thời hạn bổ sung như điều trên”.
Trong trường hợp quy định ở khoản 2 Điều 424, sự vi phạm thời hạn hợp đồng
là một vi phạm nghiêm trọng. Bên có quyền “sẽ khơng đạt được mục đích nếu không
được thực hiện trong thời hạn nhất định”. So với trường hợp ở khoản 1, sự vi phạm ở
khoản 2 nghiêm trọng hơn. Mặt khác, trong trường hợp ở khoản 2, bên có quyền có
thể khơng cần phải đưa ra một thời hạn nhất định với bên có nghĩa vụ mà vẫn có
quyền hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, bên có quyền phải chứng minh được tính chất

của hợp đồng hoặc ý chí của các bên cho thấy rằng họ sẽ khơng đạt được mục đích
của hợp đồng nếu bên có nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ trong thời hạn nhất định.
10

Nguyễn Quốc Vinh (2015), “Ba vấn đề vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2005: Kinh
nghiệm nhìn từ Nhật Bản”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12, tr. 58.

9


Giả sử, cơng ty A phải tiếp một đồn khách nước ngồi vào sáng ngày
1/5/2017, A kí hợp đồng dịch vụ với phiên dịch viên B. Công ty A yêu cầu B phải
có mặt tại cơng ty A vào 8h sáng ngày 1/5/2017 để thực hiện công việc. Tuy nhiên,
đến 8h sáng ngày 1/5/2017, B không đến công ty theo thỏa thuận. Trong trường hợp
này, dựa vào tính chất của hợp đồng, vi phạm của B đã khiến công ty A khơng đạt
được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Do vậy, cơng ty A có quyền hủy bỏ hợp
đồng với B theo khoản 2 Điều 424. Nếu áp dụng BLDS 2005, khi bên có nghĩa vụ
chậm trễ trong việc thực hiện nghĩa vụ, bên có quyền cũng khơng thể hủy bỏ hợp
đồng nếu sự vi phạm không được thỏa thuận là điều kiện hủy bỏ hoặc nếu phần các
hợp đồng thơng dụng khơng có quy định. Với quy định mới này, BLDS 2015 đã đặt
ra một nguyên tắc chung áp dụng cho mọi loại hợp đồng và lấp đầy những lỗ hổng
của BLDS 2005. Quy định về quyền hủy bỏ khi có một bên chậm thực hiện nghĩa
vụ có thể xem là sự tiến bộ của BLDS 2015.
- Hủy bỏ hợp đồng do khơng có khả năng thực hiện
Hủy bỏ hợp đồng do khơng có khả năng thực hiện được quy định tại Điều 425,
theo đó, “trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thể thực hiện được một phần hoặc tồn
bộ nghĩa vụ của mình làm cho mục đích của bên có quyền khơng thể đạt được thì
bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
“Bên có nghĩa vụ khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ được hiểu là bên có
nghĩa vụ khơng có đủ các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện nghĩa vụ (khả năng

tài chính, khả năng tay nghề, khả năng trình độ,…) hoặc cũng có thể do nguyên
nhân khách quan khiến cho bên có nghĩa vụ khơng thể hiện hiện được nghĩa vụ”11.
Việc bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ bao gồm cả nghĩa vụ đã
đến thời hạn và cả nghĩa vụ chưa đến thời hạn. Điều đó có nghĩa rằng bên có quyền
có thể hủy bỏ hợp đồng kể cả khi chưa hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Đây là một
quy định mới rất tiến bộ, là biện pháp hợp lí để bảo vệ bên có quyền, giúp họ được
giải thốt khỏi hợp đồng khơng có kết quả khả quan và đi tìm cách khắc phục thiệt
hại. Xét lại quy định của BLDS 2005, một bên chỉ có quyền hủy bỏ hợp đồng khi
bên kia vi phạm nghĩa vụ đã hết hạn thực hiện. Kể cả khi bên bị vi phạm có minh
chứng rõ ràng rằng bên kia khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ khi chưa đến hạn,
họ cũng chỉ có thể hỗn thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại khoản 1 Điều 415. Tuy
11

Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ Luật dân sự 2015, Nxb. Công an nhân
dân, tr. 641.

10


nhiên, thực tế cho thấy việc hoãn thực hiện là biện pháp tạm thời và không phải
hướng giải quyết thuận lợi nhất cho bên bị vi phạm.
Ví dụ, trong trường hợp sau: “Ông Nguyễn Văn Tứ và bà Hồ Thị Lệ Thu
giao kết hợp đồng xây nhà ở cho bà Thu. Theo hợp đồng, trong thời hạn 8 tháng
kể từ ngày khởi cơng, ơng Tứ có nghĩa vụ đầu tư toàn bộ nguyên vật liệu và xây
xong căn hộ 5 tầng trên diện tích 100m2 đất ở cho bà Thu. Khi đã xây xong tầng 1
của căn hộ thì bà Thu bị khởi kiện dân sự do vi phạm hợp đồng và bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. Bà Thu bị phong tỏa tài khoản ở ngân hàng, phải thế
chấp nhà đang ở và chiếc xe ô tô đang dùng. Do nhận thức rằng tài sản của bà Thu
đang giảm sút, có khả năng dẫn đến tình trạng khơng thể thanh tốn khi làm xong
nhà nên ơng Tứ đã khơng tiếp tục thực hiện hợp đồng xây dựng mà đề nghị thanh

lý hợp đồng”12.
Nếu áp dụng BLDS 2005, ông Tứ không thể hủy bỏ hợp đồng hay đơn phương
chấm dứt thực hiện hợp đồng mà chỉ có thể tạm hỗn thực hiện hợp đồng mà thôi.
Biện pháp này sẽ khiến ông Tứ chịu rất nhiều bất lợi. Số vốn ông Tứ đổ bỏ ra để
đầu tư toàn bộ nguyên vật liệu bị ứ đọng, khơng được thanh tốn, điều này sẽ khiến
ơng gặp khó khăn trong việc quay vịng vốn và ảnh hưởng nặng nề đến công việc
kinh doanh. Quy định mới của BLDS 2015 đã đưa ra hướng giải quyết khả quan
hơn và đảm bảo lợi ích cho ơng Tứ.

Quy định này cũng đã xuất hiện trong pháp luật hợp đồng của các nước trên
thế giới. Điều 72 Công ước Viên 1980 quy định: “Nếu trước ngày quy định cho
việc thi hành hợp đồng, mà thấy hiển nhiên rằng một bên sẽ gây ra một vi phạm chủ
yếu đến hợp đồng, bên kia có thể tuyên bố hợp đồng bị hủy”. BLDS Nhật Bản cũng
có quy định tương tự ở Điều 543. Ở các nước theo hệ thống thông luật, vi phạm hợp
đồng được chia thành hai loại đó là vi phạm thực tế và vi phạm thấy trước. Trong
đó, vi phạm thấy trước là loại vi phạm mà một bên trong hợp đồng có biểu hiện
hành vi một cách rõ ràng hoặc ngầm định đe dọa đến việc sẽ không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng với những gì mà mình đã cam kết. Điều này làm cho bên kia
trong hợp đồng có cơ sở tin rằng vi phạm hợp đồng hồn tồn có thể xảy ra. Do đó,
bên có nguy cơ bị vi phạm được pháp luật trao quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu

12

Phạm Minh Lương – Đỗ Thị Hoa – Tạ Mạnh Tấn (2006), Hỏi đáp về pháp luật hợp đồng dân sự và giải
quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự, Nxb. Công an nhân dân, tr. 41.

11


bồi thường thiệt hại13. Như vậy, có thể thấy, BLDS 2015 đã theo kịp với pháp luật

các nước thế giới khi ghi nhận căn cứ hủy bỏ này.
Nhìn chung, quy định về trường hợp hủy bỏ hợp đồng do bên có nghĩa vụ
khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ là một điểm mới rất thuyết phục của BLDS
2015. Đặc biệt, quy định này đã mở ra quyền hủy bỏ hợp đồng trước hạn, điều mà
BLDS 2005 chưa có.
- Hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp tài sản bị mất, bị hư hỏng
Theo quy định tại Điều 426 BLDS 2015 thì “trường hợp một bên làm mất, làm
hư hỏng tài sản là đối tượng của hợp đồng mà không thể hồn trả, đền bù bằng tài sản
khác hoặc khơng thể sửa chữa, thay thế bằng tài sản cùng loại thì bên kia có quyền hủy
bỏ hợp đồng”. Đây lại tiếp tục là một quy định mới của BLDS 2015. Khi đối tượng của
hợp đồng bị hư hỏng, bị mất mà khơng thể hồn trả, đền bù bằng tài sản khác thì bên
kia có quyền hủy bỏ hợp đồng. Quy định này chính là sự triển khai quy định của khoản
5 Điều 422: “Khi đối tượng của hợp đồng khơng cịn”. Bên bị vi phạm có quyền hủy
bỏ hợp đồng ngay cả khi chưa đến hạn thực hiện nếu biết đối tượng của hợp đồng bị
mất, bị hư hỏng và không thể sửa chữa, thay thế bằng tài sản khác. Quy định này của
BLDS 2015 khá tiệm cận với quy định của các nước khác trên thế giới. Ví dụ, theo
Điều 48 của Luật Thống nhất về mua bán hàng động sản quốc tế, người mua có thể áp
dụng quyền được hủy hợp đồng thậm chí trước cả thời gian được ấn định cho việc giao
hàng nếu có bằng chứng rõ ràng rằng hàng hóa được giao sẽ khơng phù hợp với các
quy cách phẩm chất trong hợp đồng14. Theo Điều 1644 BLDS Pháp thì khi tài sản bán
có khuyết tật nghiêm trọng thì bên mua có quyền trả lại vật và đòi lại tiền. Điều 1722
BLDS Pháp quy định hợp đồng cho thuê bị chấm dứt khi tài sản thuê bị mất, bị hỏng
do sự cố bất khả kháng hay do lỗi của một bên15. Có thể thấy, quy định này của BLDS
2015 xuất phát từ sự tiếp thu và học hỏi rất nhiều từ pháp luật các nước khác trên thế
giới. Sự tiếp thu ấy khiến BLDS ngày một hoàn thiện, đầy đủ và tiến bộ hơn.
Khi vi phạm hợp đồng trong trường hợp này, bên vi phạm phải bồi thường
bằng tiền ngang với giá trị của tài sản bị mất, bị hư hỏng, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 351 và Điều 363.
13


Nguyễn Khắc Cường (2013), “Hoàn thiện quy định về vi phạm hợp đồng và quyền hủy bỏ hợp đồng trong
Bộ luật Dân sự”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 12, tr. 22.
14
Võ Văn Đạt (2014), Chế tài hủy bỏ hợp đồng trong Luật thương mại 2005, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 52.
15
Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (7), tr. 679.

12


- Các trường hợp khác về hủy bỏ hợp đồng được quy định trong phần hợp
đồng thông dụng của BLDS 2015
Mỗi loại hợp đồng có tính chất và đặc điểm khác nhau, vì lẽ đó, có thể phát
sinh rất nhiều tình huống khác nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng mà các bên
không thể dự liệu được. Nhà làm luật đã dự liệu trước thay các bên bằng cách đưa
ra các nguyên tắc chung áp dụng cho mọi loại hợp đồng từ quy định Điều 423 đến
Điều 426 BLDS 2015. Mặt khác, vì tính đặc trưng của mỗi loại hợp đồng, BLDS
2015 cũng quy định các trường hợp hủy bỏ hợp đồng dành riêng cho các hợp đồng
thông dụng. Trong phần hợp đồng mua bán, bên mua được phép hủy bỏ hợp đồng
khi bên bán giao hàng không đúng số lượng, không đồng bộ, không đúng chủng loại
(Điều 437, 438, 439 BLDS 2015). Trong hợp đồng thuê, bên thuê được hủy bỏ hợp
đồng khi bên cho thuê chậm giao tài sản thuê. Quyền hủy bỏ hợp đồng của bên đặt
gia cơng khi bên nhận gia cơng khơng thể hồn thành công việc trong thời gian thỏa
thuận (Điều 545),… Như vậy, các bên được quyền viện dẫn các quy định trong
phần hợp đồng thông dụng để hủy bỏ hợp đồng nếu các bên khơng có thỏa thuận
khác và các trường hợp đó khơng rơi vào các ngun tắc hủy bỏ chung mà BLDS
2015 đã dự liệu.
BLDS 2005 cũng đã có những quy định cho phép hủy bỏ hợp đồng trong phần
hợp đồng thơng dụng nhưng nhìn chung vẫn chưa có tính bao qt cao và vẫn cịn

thiếu sót. Những thiếu sót trong BLDS 2005 nay đã được BLDS 2015 hồn thiện
bằng cách đưa ra các nguyên tắc chung để các bên áp dụng khi hủy bỏ hợp đồng.
Ngoài ra, BLDS 2015 còn loại bỏ những quy định về hủy bỏ hợp đồng được
cho là máy móc, chưa hợp lý của BLDS 2005. Ví dụ, Điều 435 BLDS 2005 quy
định, bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng nếu bên bán giao vật ít hơn số lượng đã
thỏa thuận. Như vậy, quy định này cho bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng ngay
khi bên bán giao hàng hóa ít hơn số lượng trong hợp đồng. Quy định này khá không
hợp lý và có thể khiến cho bên mua lạm dụng quyền hủy bỏ của mình. BLDS 2015
đã thay đổi bằng cách quy định tại khoản 3 Điều 439 rằng bên mua chỉ có quyền
“Hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu việc vi phạm làm cho bên
mua khơng đạt được mục đích giao kết hợp đồng”. Bên cạnh đó, BLDS 2015 cịn
quy định thêm một điểm mới về trách nhiệm của bên hủy bỏ hợp đồng khi không
hủy bỏ đúng pháp luật. Theo Điều 427 BLDS 2015 thì nếu bên hủy bỏ hợp đồng
yêu cầu hủy bỏ không đúng các căn cứ cho phép hủy bỏ được quy định tại các Điều
13


423, 424, 425, 426 thì hành vi của họ sẽ cấu thành một vi phạm hợp đồng. Khi đó,
họ sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự như khi vi phạm hợp đồng. Đây là một quy định
mới rất thuyết phục. Bởi lẽ, việc hủy bỏ hợp đồng không nên được thực hiện một
cách quá dễ dàng. Đưa ra quy định như khoản 5 Điều 427 là một biện pháp để ngăn
ngừa việc hủy bỏ hợp đồng một cách tùy tiện. Đồng thời, nó giúp cho các bên phải
cân nhắc và cẩn thận trong việc đưa ra quyết định hủy bỏ hợp đồng.
Nhìn chung, BLDS 2015 đã bổ sung và hồn thiện các căn cứ hủy bỏ hợp
đồng theo hướng đưa ra các nguyên tắc chung cho phép hủy bỏ hợp đồng và áp
dụng cho mọi loại hợp đồng. Hướng quy định này của BLDS 2015 đã theo kịp với
các nước khác trên thế giới. Đồng thời, nó khiến cho các quy định về hủy bỏ hợp
đồng có tính khái qt cao, lấp đầy những lỗ hổng tồn tại trong BLDS 2005.
1.3. Thủ tục hủy bỏ hợp đồng
Theo Điều 423 BLDS 2015, bên hủy bỏ hợp đồng phải “thông báo ngay” cho

bên kia biết về việc hủy bỏ hợp đồng. Đây là quy định được tiếp tục giữ lại từ
BLDS 1995 và BLDS 2005. Kể cả LTM 2005 cũng có quy định tương tự về thông
báo khi hủy bỏ hợp đồng tại Điều 315. Việc này cho thấy sự quan trọng hành vi
thông báo. Thật vậy, việc thông báo trong hủy bỏ hợp đồng là một thủ tục rất cần
thiết. Có thể hiểu, thông báo là việc bên hủy bỏ hợp đồng báo cho bên kia biết về
việc họ thực hiện quyền hủy bỏ của mình. Hợp đồng được giao kết dựa trên sự thỏa
thuận của hai bên. Vì thế, khi hợp đồng chấm dứt theo hướng bị hủy bỏ, bên bị hủy
bỏ cũng cần phải được thơng báo. Đó là hành động cần thiết để bảo vệ quyền lợi
của bên bị hủy bỏ.
Tuy nhiên, khơng có một giải thích thỏa đáng “thông báo ngay” là thông báo
vào thời điểm nào. Có ý kiến cho rằng “thơng báo ngay là thơng báo phải tiến hành
trong khoảng thời gian hợp lý, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể”16. Lại có ý
kiến cho rằng “thông báo ngay là thông báo trong thời gian sớm nhất có thể”17. Một
tác giả khác lại theo quan điểm: “Nếu bên bị vi phạm muốn chấm dứt hợp đồng thì
phải thơng báo cho bên kia trong một khoảng thời gian hợp lý, sau khi họ biết hoặc
phải biết về việc vi phạm hợp đồng. Việc xem xét thời gian hợp lý tùy vào từng
16

Nguyễn Thị Việt Hà (2010), Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng trong hoạt động
thương mại, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 47.
17
Ngô Thị Minh Loan (2014), Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong bộ luật dân sự Việt Nam, Luận văn
Thạc sĩ, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 29.

14


×