Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Ngoại lệ theo điều xxiv gatt 1994 xu hướng « khu vực hóa » trong hệ thống thương mại toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (931.59 KB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
-----------***-----------NGUYỄN ANH TRÂM
MSSV: 1553801015264

NGOẠI LỆ THEO ĐIỀU XXIV GATT 1994:
XU HƯỚNG « KHU VỰC HĨA » TRONG
HỆ THỐNG THƯƠNG MẠI TỒN CẦU
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2015 - 2019

Người hướng dẫn:
TS. Lê Thị Minh Ngọc

TP.HCM – Năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi,
khơng sao chép của bất cứ ai. Các quan điểm và lập luận được nêu trong nghiên cứu
này là trung thực và chưa được cơng bố ở các cơng trình khác. Nếu như khơng đúng
như trên, tơi xin chịu trách nhiệm hồn tồn về đề tài của mình.

Sinh viên thực hiện

Nguyễn Anh Trâm


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô khoa Luật Quốc tế trường Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh đã hỗ trợ, trang bị cho tôi những kiến thức lý luận cần thiết


và tạo điều kiện cho tơi được thực hiện khóa luận này. Tơi xin gửi lời cảm ơn một cách
chân thành nhất đến TS. Lê Thị Minh Ngọc, người đã cung cấp những tài liệu, thông
tin cần thiết cũng như những lời tư vấn bổ ích cho tơi và cũng là người trực tiếp hướng
dẫn, giúp đỡ tơi trong suốt q trình nghiên cứu. Và cuối cùng, tôi xin cảm ơn người
thân, bạn bè đã ở bên cạnh động viên, giúp đỡ tôi hồn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Một lần nữa, xin trân trọng cảm ơn!


NGOẠI LỆ THEO ĐIỀU XXIV GATT 1994: XU HƯỚNG “KHU VỰC HĨA”
TRONG HỆ THỐNG THƯƠNG MẠI TỒN CẦU
Mục lục
LỜI NĨI ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1..................................................................................................................... 6
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỆ THỐNG THƯƠNG MẠI ĐA PHƯƠNG VÀ
NGUYÊN TẮC MFN ..................................................................................................... 6
1.1

Về tổ chức thương mại thế giới WTO............................................................. 6

1.1.1

Khuôn khổ pháp lý của WTO................................................................... 7

1.1.2

Các nguyên tắc cơ bản của WTO ........................................................... 10

1.2

Ngoại lệ của nguyên tắc MFN theo điều XXIV GATT 1994 ...................... 15


1.2.1

Giới thiệu về điều XXIV GATT 1994 .................................................... 18

1.2.2

Nội dung của điều XXIV GATT 1994 .................................................... 20

1.2.3

Một số quy định liên quan đến ngoại lệ của nguyên tắc MFN ............ 23

1.3 Áp dụng ngoại lệ của nguyên tắc MFN trong các thiết chế thương mại khu
vực mà Việt Nam tham gia ...................................................................................... 27
1.3.1

Từ ASEAN đến CPTPP và học hỏi mơ hình liên minh Châu Âu EU . 27

1.3.2

Xu hướng hợp tác của một số mơ hình liên kết khu vực...................... 33

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ......................................................................................... 36
CHƯƠNG 2................................................................................................................... 37
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG NGOẠI LỆ ĐIỀU XXIV CỦA VIỆT NAM TRONG
LĨNH VỰC XUẤT XỨ HÀNG HÓA ......................................................................... 37
2.1

Khái quát về quy tắc xuất xứ hàng hóa ........................................................ 37


2.1.1

Khái niệm, nội dung và vai trị của xuất xứ hàng hóa ............................. 38

2.1.2

Quy định của hiệp định ROO về xuất xứ hàng hóa.............................. 43

2.1.3

Vai trị của WTO đối với xuất xứ hàng hóa .......................................... 45


2.2

Áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hóa của Việt Nam ....................................... 47

2.2.1

Trong các hiệp định thương mại khu vực truyền thống ...................... 48

2.2.2

Trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới ............................... 51

2.3 Đánh giá hiệu quả áp dụng ngoại lệ Điều XXIV trong lĩnh vực xuất xứ
hàng hóa của Việt Nam ............................................................................................ 58
2.3.1 Nhận định về sự tương thích giữa WTO và quy định tương ứng trong
các RTA .................................................................................................................. 59

2.3.2

Một số khuyến nghị cho Việt Nam ......................................................... 62

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ......................................................................................... 65
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 66
Danh mục tài liệu tham khảo


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GATT

General Agreement on Tariff and Trade
Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch

WTO

World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới

MFN

Most Favoured Nations
Nguyên tắc Tối huệ quốc

GATS

General Agreement on Trade in Service
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ


RTA

Region Trade Agreement
Thiết chế thương mại khu vực

FTA

Free Trade Agreement
Hiệp định thương mại tự do

NTM

Non-Tariff Measures
Biện pháp phi thuế quan

EFTA

European Free Trade Association
Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu

EU

European Union
Liên minh Châu Âu

ASEAN

Association of South East Asia Nations
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á


CMLV

Campuchia – Myanmar – Laos – Vietnam
Nhóm 4 nước kém phát triển nhất ASEAN

ROO

Rules of Origin
Quy tắc xuất xứ hàng hóa


CTC

Change in Tariff Classification
Chuyển đổi mã số hàng hóa

RVC

Regional Value Content
Hàm lượng giá trị khu vực

CPTPP

Comprehensive and Progressive Trans Pacific Partnership
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương


NGOẠI LỆ THEO ĐIỀU XXIV GATT 1994: XU HƯỚNG “KHU VỰC HĨA”
TRONG HỆ THỐNG THƯƠNG MẠI TỒN CẦU

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, tự do hóa thương mại trở
thành một vấn đề dành được sự quan tâm và nỗ lực thực hiện từ các quốc gia trên thế
giới. Xu hướng đẩy nhanh tự do hóa thương mại khơng chỉ xảy ra với hệ thống thương
mại tồn cầu mà cịn thúc đẩy sự hình thành của các thiết chế thương mại khu vực, với
kỳ vọng sẽ đạt được tự do hóa thương mại ở mức độ vượt trội chưa từng thấy. Các
RTA (thiết chế thương mại khu vực) tuy vẫn chịu sự điều phối chung của WTO (tổ
chức thương mại thế giới) nhưng hòa trong xu hướng chung của thế giới, chính các
RTA này đang đặt ra trở ngại đối với sứ mệnh thúc đẩy thương mại tồn cầu của WTO.
Nội dung khu vực hóa của các RTA thông thường cũng là những vấn đề thương
mại chủ yếu do WTO điều chỉnh, bao gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ
và sở hữu trí tuệ mà trọng tâm là lĩnh vực thương mại hàng hóa do tính chất định hình,
rõ ràng và dễ thực hiện của loại đối tượng này. Tuy nhiên, mức độ tự do hóa thương
mại càng cao thì các biện pháp phi thuế quan cũng càng trở nên phức tạp và để lại
nhiều hệ quả khó lường khi áp dụng, trong đó nổi lên là quy định về xuất xứ hàng hóa
do khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến việc hưởng các ưu đãi thương mại của các RTA
và tác động đến việc thực thi các biện pháp phi thuế cịn lại. Nhìn chung, các quy định
tự do hóa thương mại trong khu vực so với quy định của WTO về bản chất đã phải sâu
rộng hơn để đáp ứng điều kiện trở thành ngoại lệ của nguyên tắc MFN (nguyên tắc tối
huệ quốc) theo điều XXIV GATT 1994, nhưng với sự tồn tại đa dạng của các RTA như
hiện nay với những cấp độ liên kết khác nhau (hay còn gọi là hiện tượng “tơ mì
spaghetti”) đã làm phát sinh nhiều bất cập, có thể kể đến là những hiện tượng thương
1


mại tiêu cực như “chệch hướng thương mại”, gây ra nhiều thách thức cho việc thực thi,
kiểm tra, rà soát khơng chỉ cho WTO mà cịn đối với thành viên của chính các RTA đó.
Như vậy, với thực tiễn phát triển của các RTA hiện nay, đặc biệt là với sự ra đời
của các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới dường như đã vượt xa những yêu

cầu được WTO quy định. Là thành viên của WTO nhưng đồng thời cũng là thành viên
của nhiều RTA khác, đề tài này có tính cấp thiết ngay với chính quốc gia Việt Nam
trong nghĩa vụ rà soát lại các quy định và tạo cơ sở cho việc thực thi các cam kết
thương mại mới, nhất là với quy định về xuất xứ hàng hóa. Những nghĩa vụ trên chỉ có
thể được thực hiện khi chúng ta có được nhận định về sự tương thích giữa quy định của
WTO và các quy định tương ứng trong RTA, làm cơ sở cho việc tham gia vào tiến
trình tự do hóa thương mại một cách hiệu quả nhất. Đó chính là lý do tác giả chọn thực
hiện đề tài này.
2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung của khóa luận phân tích về việc áp dụng ngoại lệ của nguyên tắc MFN
theo Điều XXIV GATT 1994, tập trung vào lĩnh vực xuất xứ hàng hóa để làm rõ xu
hướng “khu vực hóa” trong hệ thống thương mại toàn cầu hiện nay. Thứ nhất, tác giả
trình bày khái qt về tổ chức thương mại tồn cầu và nguyên tắc MFN nhằm giới
thiệu về hoạt động của các RTA mà Việt Nam đang tham gia theo quy định của Điều
XXIV. Thứ hai, tác giả đi sâu vào phân tích một trong những lĩnh vực phi thuế quan
nổi bật hiện nay là quy tắc xuất xứ hàng hóa theo quy định của WTO và theo quy định
của các thiết chế thương mại khu vực. Cuối cùng, tác giả đánh giá kết quả áp dụng
ngoại lệ Điều XXIV trong các RTA mà Việt Nam tham gia qua việc nhận định về sự
tương thích giữa các quy định và đưa ra kiến nghị phù hợp cho Việt Nam.
3. Tình hình nghiên cứu
Một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu trong lĩnh vực này bao gồm:
2


1. Phạm vi trong nước: Trần Việt Dũng – Đặng Huỳnh Thiên Vy (2016), “Hàng
rào phi thuế quan trong thương mại quốc tế: Những vấn đề cần quan tâm đối với Việt
Nam”, Kỷ yếu hội thảo: Một số hàng rào thương mại phổ biến trong quá trình hội
nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam. Bài viết phân tích về các biện pháp phi thuế
quan nói chung, việc thực thi các biện pháp này trên thực tiễn, những tác động của
chúng đến việc vận hành thương mại quốc tế và những lưu ý cho Việt Nam, cung cấp

kiến thức nền tảng làm cơ sở để nhận định về các biện pháp này khi được thực hiện
theo quy định của các RTA.
2. Phạm vi thế giới: Rohini Acharya (2016), Regional Trade Agreements and The
Multilateral Trade System là một tác phẩm của WTO được xuất bản vào năm 2016.
Đây là công trình khoa học nghiên cứu về hoạt động của rất nhiều các RTA trên thế
giới trong hơn 10 năm, đặt ra vấn đề về tính tương thích trong việc thực hiện các cam
kết thương mại của các RTA so với WTO, đưa ra giải pháp cho việc củng cố vai trò
của WTO và kiến nghị để cả WTO và các thành viên của mình có thể thực hiện tự do
hóa thương mại một cách hiệu quả nhất.
3. Phạm vi trong nước: Nguyễn Tuấn Vũ (2017), Pháp luật Việt Nam về xuất xứ
hàng hóa, Luận văn thạc sĩ Luật Trường Đại học Luật Tp.HCM. Cơng trình nghiên cứu
là một hệ thống kiến thức đầy đủ, cụ thể và chuyên sâu về quy tắc xuất xứ hàng hóa
trong các RTA, cung cấp cái nhìn tồn diện từ lý thuyết đến thực tiễn về lĩnh vực phi
thuế quan này.
4. Phạm vi trong nước: Lê Nguyễn Quỳnh Anh (2014), Exception in accordance
with the Article XXIV GATT: “Regionalism” in the Multilateral Trade System, khóa
luận tốt nghiệp trường Đại học Luật Tp.HCM. Cơng trình nghiên cứu chủ yếu về điều
XXIV và mối liên hệ giữa Điều XXIV với các quy định của WTO nhằm thể hiện rằng
sự tồn tại của các thiết chế thương mại khu vực vẫn chưa được kiểm soát hiệu quả bởi
WTO do sự thiếu sót của các quy định liên quan.
5. Phạm vi trong nước: Lê Việt Hà (2016), Regionalism – Legal perspective from

3


the TPP in comparison with the WTO, khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Luật
Tp.HCM. Cơng trình có đối tượng nghiên cứu trọng tâm là Hiệp định TPP xoay quanh
những quy định mang tính thế hệ mới của Hiệp định nhằm thể hiện tính “khu vực hóa”
trong khn khổ WTO, rút ra những điểm tích cực và tiêu cực khi Hiệp định này tác
động đến Việt Nam.

6. Phạm vi trong nước: Trần Thị Thuận Giang – Ngô Nguyễn Thảo Vy (năm
2016), “Quy tắc xuất xứ hàng hóa ưu đãi đối với hàng dệt may và hiện tượng chệch
hướng thương mại: Tương lai của ASEAN và Việt Nam trong bối cảnh hội nhập”, Tài
liệu Hội thảo Quốc tế: Các thể chế pháp lý của Cộng đồng ASEAN: “Tác động đối với
pháp luật thương mại và đầu tư Việt Nam”. Bài viết nghiên cứu về hiện tượng chệch
hướng thương mại do việc thực hiện quy tắc xuất xứ trong các RTA gây ra, phân tích
sâu về các biện pháp xuất xứ hàng hóa được áp dụng cho mặt hàng dệt may trong
khn khổ Cộng đồng kinh tế AEC.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực này là rất nhiều, tùy vào mục
đích mà nội dung hoặc là nằm trong vấn đề nghiên cứu về tồn cầu hóa – khu vực hóa
hoặc là nghiên cứu về một lĩnh vực cụ thể và việc thực hiện trong các RTA chứ chưa
làm nổi bật được tính tương thích khi thực hiện các biện pháp phi thuế quan trong hệ
thống thương mại toàn cầu theo Điều XXIV GATT 1994 thông qua quy tắc xuất xứ
hàng hóa và liên hệ với những RTA mà Việt nam đang tham gia.
4. Phương pháp nghiên cứu
Do trọng tâm nghiên cứu của khóa luận là nhằm so sánh sự tương thích giữa các
quy định về lĩnh vực phi thuế quan của thiết chế thương mại khu vực và WTO nên
phương pháp chủ yếu là phương pháp so sánh luật học. Ngoài ra tác giả cũng nghiên
cứu về những RTA cụ thể đưa ra có những đánh giá liên quan đến các vấn đề đã đề cập
trước đó.

4


5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Thông qua đề tài, tác giả mong muốn cung cấp thông tin về mối liên hệ giữa các
quy định trong các thiết chế thương mại khu vực và trong khuôn khổ WTO để hiểu
đúng về xu thế “khu vực hóa” trong hệ thống thương mại tồn cầu. Khóa luận mang
giá trị thực tiễn khi có liên hệ với các RTA mà Việt Nam đang là thành viên, nhất là
trong lĩnh vực xuất xứ hàng hóa – là cửa ngõ quan trọng để tiến tới đảm bảo thực hiện

các mục tiêu tự do hóa thương mại trong bối cảnh phức tạp của vấn đề và tồn tại các
hiện tượng thương mại tiêu cực như “chệch hướng thương mại” hiện nay.
6. Kết cấu khóa luận
Khóa luận được chia làm 02 phần:
Chương 1: Khái quát chung về hệ thống thương mại đa phương và nguyên tắc
MFN
Chương 2: Thực trạng áp dụng ngoại lệ Điều XXIV của Việt Nam trong lĩnh vực
xuất xứ hàng hóa

5


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỆ THỐNG THƯƠNG MẠI ĐA PHƯƠNG VÀ
NGUYÊN TẮC MFN

1.1 Về tổ chức thương mại thế giới WTO
Chiến tranh thế giới lần II kết thúc để lại hậu quả nặng nề về kinh tế, nhưng cũng từ
đó nhen nhóm mong muốn một nền thương mại tồn cầu phát triển thịnh vượng dựa
trên nền tảng hịa bình và an ninh thế giới. Các quốc gia có xu hướng xích lại gần nhau
tuy vẫn bị chi phối bởi những sự khó khăn ban đầu và đặc biệt là sức ép từ “trật tự hai
cực Ianta”. GATT 1947 (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1947) ra đời là
một phần của Hiến chương ITO (International Trade Organization – Tổ chức thương
mại thế giới), mặc dù sau đó ITO không thể được thành lập theo dự kiến nhưng GATT
1947 vẫn được duy trì thực hiện, vì nó phù hợp và thỏa mãn được mục tiêu mà các bên
tham gia đặt ra. Trong suốt những năm từ khi GATT 1947 ra đời cho đến khi WTO
được thành lập, rất nhiều vịng đàm phán được tiến hành nhằm tìm kiếm sự thỏa hiệp
chung giữa những nền kinh tế trên thế giới với quy mô ngày càng rộng hơn.
Mãi cho đến những năm 90, sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết đã chấm dứt trật tự
hai cực Ianta với hai đối trọng là Mỹ và Liên Xô, nền thương mại thế giới lại một lần

nữa biến động và hứa hẹn nhiều chuyển biến tích cực dành cho các quốc gia thật sự
hiểu và tận dụng được lợi thế toàn cầu hóa. Tiến trình tự do hóa thương mại từ đó phát
triển vô cùng mạnh mẽ, đồng thời cũng gây ra nhiều diễn biến khó lường và điều đó đã
tác động trực tiếp đến các vòng đàm phán về sau của GATT. Vòng Uruguay là vòng
đàm phán cuối cùng của GATT kết thúc vào ngày 15/04/1994 với thành tựu nổi bật
nhất là sự thành lập tổ chức thương mại thế giới WTO.
Sự thành lập của WTO là một cột mốc quan trọng trong thương mại quốc tế vì nó

6


chính thức đưa hệ thống thương mại đa phương của GATT dưới sự điều phối của một
định chế quốc tế và đồng thời chấm dứt tình trạng “tạm thời” của GATT kể từ năm
1948. Đây là các tổ chức liên chính phủ được thành lập để thực hiện ba nhiệm vụ then
chốt: (i) thiết lập khung pháp lý làm cơ sở cho sự phát triển của thương mại quốc tế,
(ii) là diễn đàn để phát triển sự liên kết thương mại giữa các quốc gia và (iii) để giải
quyết các xung đột thương mại. Vai trò cơ bản của các tổ chức này là tạo cơ chế vận
hành cho thương mại quốc tế, đồng thời đảm bảo cho các quyền lợi kinh tế - thương
mại của các quốc gia thành viên được cân bằng và an toàn.1
Các mục tiêu nền tảng của WTO được ghi nhận trong Lời nói đầu của Hiệp định
thành lập WTO (Hiệp định Marrakesh). Phần này cũng nêu rõ định hướng và phương
hướng để đạt được các mục tiêu đề ra là các thành viên WTO sẽ tham gia vào những
thỏa thuận tương hỗ và cùng có lợi theo hướng (i) cắt giảm đáng kể thuế quan và các
hàng rào thương mại và (ii) loại bỏ sự phân biệt đối xử trong các mối quan hệ thương
mại quốc tế,2 điều chỉnh ba nhóm lĩnh vực trọng tâm là thương mại hàng hóa, thương
mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. WTO hiện đang có 164 quốc gia thành viên tính đến
ngày 30/9/2018, đại diện cho 98% thương mại toàn cầu và 22 quốc gia đang đàm phán
gia nhập.3
1.1.1 Khuôn khổ pháp lý của WTO
Để vận hành được hệ thống thương mại đa phương thì Hiệp định WTO cũng công

nhận các văn bản pháp lý không tách rời gồm cả những phần Phụ lục của Hiệp định, là
các hiệp định thương mại đa biên – ràng buộc tất cả các thành viên và các hiệp định

1

Mai Hồng Quỳ - Trần Việt Dũng (2005), Luật Thương mại Quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Tp.HCM,
TP.HCM, tr.22.
2
Trường Đại học Luật TPHCM (2016), Giáo trình Luật Thương mại Quốc tế Phần 1, NXB Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, tr.66.
3
World
Trade
Organization,
“The
WTO
in
brief”
[ (truy cập lần cuối ngày 18/5/2019)

7


thương mại nhiều bên – chỉ ràng buộc với các thành viên tự nguyện tham gia,4 trong đó
phần Phụ lục 1 là phần cấu thành quan trọng nhất WTO. Phụ lục 1 bao gồm 3 phần:
Phần 1A bao gồm các Hiệp định chung về Thuế quan và thương mại (GATT 1994) và
13 hiệp định thương mại đa biên liên quan đến thương mại hàng hóa, mang tính bổ trợ
cho GATT 1994, nổi bật như là Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch
động thực vật (SPS), Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), Hiệp
định về quy tắc xuất xứ (ROO), các hiệp định về biện pháp phòng vệ thương mại; Phần

1B là Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS và Phần 1C là Hiệp định về các
khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS).
Chức năng giám sát điều phối thực hiện thương mại toàn cầu của WTO được đảm
bảo bằng nghĩa vụ tuân thủ các hiệp định thương mại đa biên của các quốc gia thành
viên, chia thành hai nhóm biện pháp thuế quan và phi thuế quan. WTO buộc các bên ký
kết phải cắt giảm thuế quan bằng cách hạn chế các hình thức thuế quan và cắt giảm
thuế suất theo quy định tại Biểu nhân nhượng thuế quan (Điều II Hiệp định GATT
1994) và những nhượng bộ thuế quan này phải được áp dụng tự động cho tất cả các
bên ký kết theo nghĩa vụ MFN (Đối xử tối huệ quốc) tại Điều I. Bên cạnh đó, GATT
1994 cũng quy định những quy tắc và nguyên tắc hành xử trong thương mại giữa các
bên ký kết chẳng hạn như thực hiện chế độ đãi ngộ quốc gia (Điều III), đảm bảo nhãn
xuất xứ (Điều XIX), đảm bảo cơng khai và minh bạch các chính sách, quy định thương
mại (Điều X)… và một số ngoại lệ như ngoại lệ với các nước đang phát triển (Điều
XII, XIII, XIV, XV và XVII), ngoại lệ nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia và lợi ích cộng
đồng (Điều XX, Điều XXI), ngoại lệ đối với trường hợp các thiết chế thương mại khu
vực (Điều XXIV)…5
Như vậy, có thể thấy với biện pháp thuế quan, các quốc gia cần bám sát và tuân thủ
4
5

Điều II Hiệp định WTO.
Trường Đại học Luật TPHCM (2016), tlđd (2), tr.58-60.

8


các quy định liên quan đến biểu nhân nhượng nên nhìn chung thì lĩnh vực này dễ thực
hiện và cũng dễ kiểm sốt. Thực tế là các vịng đàm phán về sau của GATT 1947 phần
lớn đều tập trung vào lĩnh vực phi thuế quan và trong Phụ lục 1A, ngồi Hiệp định
GATT 1994 thì các hiệp định cịn lại đều quy định về lĩnh vực phi thuế vì sự cắt giảm

hàng rào thuế quan đã dẫn đến việc các quốc gia tích cực sử dụng các biện pháp phi
thuế quan trở thành công cụ bảo hộ thương mại nhằm kiểm sốt và cản trở dịng chảy
tự do của thương mại quốc tế.6
Trên thực tế, các biện pháp phi thuế quan thường là những biện pháp có “tiềm
năng” bóp méo hoạt động thương mại quốc tế đáng kể cho dù mục tiêu gốc của chúng
có thể khơng phải là bảo hộ thương mại. Ví dụ, các biện pháp như tiêu chuẩn chất
lượng, mặc dù được ban hành không nhằm ý định bảo hộ, tuy nhiên lại gây ảnh hưởng
đáng kể đến việc nhập khẩu hàng hóa của các quốc gia khác, trực tiếp cản trở khả năng
thâm nhập thị trường của sản phẩm liên quan. Hơn nữa, nếu các biện pháp thuế quan
được cụ thể hóa bằng số liệu thì với tính chất khơng rõ ràng của mình, rất khó để đánh
giá về những trường hợp lạm dụng các biện pháp này nhằm bảo hộ ngành sản xuất
trong nước.7
Các quy định của WTO luôn cố gắng cân bằng giữa quyền tự chủ của các quốc gia
thành viên trong việc ban hành các biện pháp nhằm bảo vệ những giá trị cốt lõi nhưng
đồng thời cũng tránh việc lạm dụng các biện pháp phi thuế quan này tạo ra sự bảo hộ
mậu dịch, và trong sự phát triển của xu hướng hợp tác khu vực như hiện nay, thật khó
để chứng kiến một thế giới thương mại tồn tại khơng có biện pháp phi thuế quan đóng
vai trị trong việc kiểm sốt và cân bằng chất lượng của hàng hóa khi mức cắt giảm
6

Trích theo Lili Yan Ing và Santiago Fernandez de Cordoba, “Non-tariff measures in ASEAN”, Economic
Research Institute for ASEAN and East Asia and United Nations Conference on Trade and Development, April
2016: xii.
7
Trần Việt Dũng – Đặng Huỳnh Thiên Vy (2016), “Hàng rào phi thuế quan trong thương mại quốc tế: Những
vấn đề cần quan tâm đối với Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo: Một số hàng rào thương mại phổ biến trong quá trình
mfnhội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam, do Khoa Luật Quốc tế trường ĐH Luật TPHCM tổ chức, tr.3.

9



thuế quan gần như bằng 0% đối với mọi sản phẩm.8
Nhìn vào quy định trong các RTA (thiết chế thương mại khu vực), dựa theo Hệ
thống phân loại các biện pháp phi thuế quan của UNCTAD (United Nations
Conference on Trade and Development – Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và
phát triển) gồm 16 chương chủ yếu là các biện pháp liên quan đến sản phẩm nhập
khẩu, trừ chương cuối liên quan đến xuất khẩu, được chia thành hai nhóm là các biện
pháp kỹ thuật và phi kỹ thuật9 thì nổi bật hơn cả là 4 nhóm biện pháp về các hàng rào
kỹ thuật TBT và SPS (chương A), phòng vệ thương mại (chương I) và quy tắc xuất xứ
(chương O) xuất phát từ bản chất phức tạp của chúng. Nếu việc vận hành các biện pháp
khác trong khuôn khổ các RTA có thể dựa vào các quy định nền tảng của WTO thì với
4 nhóm biện pháp này, sự đa dạng được nhìn thấy rõ nét căn cứ vào mục tiêu và mức
độ hợp tác của các tổ chức khu vực. Là một quốc gia thành viên của WTO và đồng thời
cũng là thành viên của ngày càng nhiều các RTA, việc rà soát, kiểm tra các quy định
NTM (non-tariff measures - biện pháp phi thuế quan), quan tâm hơn đến việc ban hành
dựa trên tính cần thiết, áp dụng trên cơ sở bằng chứng khoa học, minh bạch hóa các
chính sách và biện pháp phi thuế quan là việc làm cần thiết cho Việt Nam.
1.1.2 Các nguyên tắc cơ bản của WTO
Hoạt động đàm phán, xây dựng và thực hiện nội dung của các biện pháp phi thuế
quan trong các RTA đều phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản của WTO để vận hành
thương mại toàn cầu vì xét về bản chất, mục đích của các RTA cũng tương tự như
WTO là nhằm đẩy mạnh tự do hóa thương mại, chỉ có sự khác biệt ở mức độ thực hiện
sự tự do hóa này. Vì thế, việc tìm hiểu và nắm rõ các nguyên tắc cơ bản là yêu cầu tối
quan trọng khi tiến hành hoạt động thương mại ở các RTA, đặc biệt với nền tảng là
8

Trần Việt Dũng – Đặng Huỳnh Thiên Vy (2016), tlđd (7), tr.9, 17.
UNCTAD,
“International
Classification

of
Non-Tariff
Measures”,
[ (truy cập lần cuối ngày 18/5/2019)
9

10

tr.3-5,


nguyên tắc không phân biệt đối xử (Non-discrimination), được thể hiện thông qua hai
quy chế pháp lý là Đãi ngộ Tối huệ quốc (Most Favoured Nation) và Đãi ngộ quốc gia
(National Treatment). Nguyên tắc không phân biệt đối xử trong thương mại tạo ra lợi
ích kinh tế đặc biệt cho các quốc gia, khi tiến hành các hoạt động thương mại trong
khuôn khổ hệ thống thương mại đa phương. Bên cạnh đó, hệ thống WTO cịn có những
ngun tắc pháp lý khác để hỗ trợ cho việc áp dụng nguyên tắc trên được hiệu quả, bao
gồm nguyên tắc minh bạch và dễ dự đốn, ngun tắc cân bằng lợi ích.10
Xét về nội dung của nguyên tắc MFN, quy chế đãi ngộ tối huệ quốc đòi hỏi quốc
gia phải dành cho đối tác thương mại của mình sự đối xử ưu đãi nhất và cấm phân biệt
đối xử giữa các quốc gia đối tác. Mục đích của các quy định trên là nhằm đảm bảo sự
bình đẳng đối với hàng hóa, dịch vụ… có nguồn gốc từ các nước thành viên, hay cụ thể
là giữa các đối tác khi nhập khẩu từ cũng như xuất khẩu vào thị trường thành viên
WTO.11 Như vậy, bản chất của vấn đề nằm ở nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm. Bất kỳ
một nội dung ưu đãi nào cũng phải đi kèm với việc chứng minh xuất xứ của sản phẩm
để xác định mối quan hệ giữa các bên đối tác của WTO và một bên nào khác, từ đó
phát sinh nghĩa vụ thực hiện nguyên tắc MFN giữa những đối tác này với nhau. Các
yêu cầu cần phải đáp ứng của MFN là: (i) phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc,12 (ii) xác
định “sản phẩm tương tự”, (iii) yêu cầu áp dụng “ngay lập tức và vơ điều kiện”.
Nếu việc tìm hiểu về phạm vi điều chỉnh sẽ giúp chúng ta xác định một sản phẩm

hàng hóa có được xem xét theo Điều I của Hiệp định GATT 1994 hay khơng thì việc

10

Trường Đại học Luật TPHCM (2016), tlđd (2), tr.100.
Trường Đại học Luật TPHCM (2016), tlđd (2), tr.105.
12
Phạm vi điều chỉnh của Đối xử tối huệ quốc, theo như Điều I GATT 1994, bao gồm ba nhóm biện pháp: (i)
thuế và các khoản thu, (ii) phương pháp đánh thuế hoặc áp dụng phụ thu, (iii) luật lệ và các thủ tục. Ngoài ra,
MFN còn điều chỉnh các biện pháp được quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều III GATT về Đãi ngộ quốc gia,
mà cụ thể là các biện pháp về thuế và các khoản thu nội địa, luật pháp, quy tắc và các quy định tác động đến việc
bán hàng, chào bán, mua, chuyên chở, phân phối hoặc sử dụng sản phẩm trên thị trường nội địa.
11

11


xác định “sản phẩm tương tự” lại là một vấn đề quan trọng và khá phức tạp.13 Do bởi
WTO cũng khơng có bất kỳ một định nghĩa cụ thể nào về “sản phẩm tương tự”14 mà
việc xác định sẽ phải dựa trên bối cảnh cụ thể và cơ quan giải quyết tranh chấp sẽ có
những quan điểm cũng như những biện pháp để xác định các sản phẩm được xem xét
có phải là “sản phẩm tương tự” hay khơng, mà cũng qua từng vụ kiện để làm rõ về
định nghĩa này cho những vụ kiện sau.15 Yêu cầu “ngay lập tức và vô điều kiện” là sự
cam kết của các quốc gia sẽ dành cho nhau sự đối xử ưu đãi nhất ngay khi xác định
được sản phẩm có xuất xứ từ nước thành viên, theo đó các quốc gia thành viên phải
thực hiện nó vơ điều kiện trong tất cả các lĩnh vực thương mại của hệ thống trên
nguyên tắc về thuế quan thì phải thực hiện nghĩa vụ cắt giảm cịn về phi thuế quan thì
phải đảm bảo các biện pháp này được thực hiện đúng mục đích và là một sự cần thiết.
Xét về việc áp dụng nguyên tắc MFN trong WTO và trong các RTA, vì là một
nguyên tắc vận hành thương mại nền tảng nên hầu hết các RTA đều quy định về

nguyên tắc MFN trong các cam kết của mình.16 Điểm khác biệt giữa WTO và RTA là ở
tính mục đích hướng đến của MFN, thể hiện bằng việc nguyên tắc MFN trong các
RTA thường là áp dụng một cách có điều kiện. Nói cách khác, các RTA hướng đến
việc đảm bảo dành những ưu đãi thương mại tốt nhất trong phạm vi thành viên của
RTA nên sẽ có những điều kiện nhằm hạn chế bên thứ ba, thông thường sẽ bằng cách
đưa ra các quy định nghiêm ngặt về xuất xứ hàng hóa. WTO lại là một thiết chế tồn
13

Để xác định tính tương tự cần xét đến những tính chất sau: (i) thành phần, tính chất của sản phẩm là những yếu
tố tạo nên sự độc nhất của sản phẩm và ảnh hưởng tương quan đến cạnh tranh; (ii) tính năng sử dụng của sản
phẩm nhằm vào mục đích sử dụng cuối cùng của nó và (iii) thị hiếu và thói quen của người tiêu dùng ở việc có
thể thay thế được cho nhau khơng. Trong đó, tiêu chí cơ bản nhất để xác định tính tương tự của các sản phẩm là
sự phân loại thuế quan, được ghi nhận trong Hệ thống Hài hịa thuế quan (Harmonnized System HS).
14
Bên cạnh đó, thuật ngữ về “sản phẩm tương tự” còn được ghi nhận trong các Hiệp định khác của WTO như
Hiệp định chống bán phá giá (Điều 2.6), Hiệp định về Trợ cấp và Thuế Đối kháng (Điều 15.1 và footnote số 46),
theo đó: “Sản phẩm tương tự là sản phẩm giống hết sản phẩm đang xét hoặ có những tính chất giống với sản
phẩm đang xét”.
15
Nguyễn Văn Phái – Phan Lê Thu Thủy (2016), “Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc trong GATT 1994: Từ quy
định đến thực tiễn áp dụng”, Nghiên cứu lập pháp (19), tr.28.
16
Điều 5 Hiệp định ATIGA, Điều 4 Hiệp định EVFTA, Điều 29.3 và 29.4 Hiệp định CPTPP.

12


cầu, vì thế nguyên tắc MFN của WTO nhằm mở rộng quyền lợi đến mức tối đa cho các
thành viên của WTO nên không quy định về điều kiện được hưởng.17 Như vậy, các ưu
đãi được quy định trong MFN của WTO là các ưu đãi thơng thường cịn các ưu đãi do

thực hiện nghĩa vụ MFN trong các RTA sẽ là các ưu đãi đặc biệt. Sự khác biệt về ưu
đãi này chính là một hình thức của phân biệt đối xử nhưng WTO chấp nhận ngoại lệ
này với quy định tại Điều XXIV GATT về các thiết chế thương mại khu vực.
Xét về việc áp dụng nguyên tắc MFN của Việt Nam, chế định về Đối xử tối huệ
quốc và đối xử quốc gia – Pháp lệnh MFN-NT được Ủy ban thường vụ Quốc hội ban
hành năm 200218 với nội dung thừa nhận các quy tắc, nêu phạm vi áp dụng chung và
sau đó những nội dung cụ thể sẽ được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật
chuyên ngành như Luật Thuế Xuất nhập khẩu, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp… Từ
góc độ pháp lý, Việt Nam là quốc gia theo trường phái nhị nguyên luật nên việc áp
dụng các quy định từ pháp luật nước ngồi địi hỏi q trình nội luật hóa. Ngun tắc
MFN lại là nguyên tắc mang tính bao trùm nên với những lĩnh vực đặc thù riêng,
nguyên tắc này cũng cần được thiết kế tương ứng cho phù hợp.19 Với việc trở thành
thành viên của WTO, Việt Nam đã trao đổi MFN với tất cả thành viên của tổ chức này.
Trên cơ sở MFN của WTO, Việt Nam tiếp tục đàm phán và ký kết nhiều hiệp định
thương mại tự do khác với mức độ tự do hóa cao hơn trong khi MFN đã trở thành hình
thức đối xử tối thiểu chúng ta dành cho các đối tác.20
Cùng với quy chế MFN, quy chế NT là bộ phận cấu thành quan trọng của nguyên
17

Rohini Acharya (2016), Regional Trade Agreements and The Multilateral Trade System, World Trade
Organization, tr.52.
18
Pháp lệnh số 41/2002/PL-UBTVQH10 ngày 25/5/2002.
19
Theo quy định tại Điều 6 Luật Điều ước quốc tế 2016 thì khi chấp nhận sự ràng buộc của Điều ước quốc tế
(ĐƯQT), Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ sẽ đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp một phần hoặc toàn bộ
ĐƯQT trong trường hợp quy định tại ĐƯQT đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện. Như vậy trên tinh thần này, việc
trực tiếp áp dụng các điều khoản MFN từ các hiệp định quốc tế (GATT, FTA…) là phù hợp với thực tiễn và quy
định tại Việt Nam.
20

Nguyễn Sơn (2016), “Pháp Luật Việt Nam về đối xử Tối huệ quốc trong thương mại quốc tế”, Nhà nước &
Pháp luật (4), tr.78.

13


tắc không phân biệt đối xử. Nếu quy chế MFN nhằm mục đích cấm sự phân biệt đối xử
giữa các đối tác thương mại thì quy chế NT ngăn cản sự phân biệt đối xử giữa đối tác
thương mại và nước nhập khẩu.21 Vấn đề này càng trở nên quan trọng khi các rào cản
thương mại, đặc biệt là các rào cản phi thuế quan đang ngày càng tinh vi, ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả của nguyên tắc này.22 Nhận thức được sự khơng rõ ràng này có
thể gây ra các hệ quả tiêu cực cho hoạt động thương mại tồn cầu, mục đích của
ngun tắc minh bạch lại nhằm định hướng phát triển lâu dài cho thương mại song
phương, giúp thương nhân các quốc gia dự trù hoạt động xuất nhập khẩu cũng như có
điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thuận lợi hơn.23 Ý nghĩa của
nguyên tắc này được đánh giá là chất xúc tác cho sự tin tưởng lẫn nhau, hợp tác kinh tế
và hạn chế những tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO.24 Cuối cùng, liên
quan đến việc thực hiện NTM, nguyên tắc cân bằng hợp lý nhằm xác định một biện
pháp của quốc gia thành viên có phù hợp với luật WTO hay không và ngăn cản quốc
gia thành viên ban hành, thực hiện các biện pháp hạn chế thương mại quá mức dựa trên
ba yêu cầu về sự phù hợp, sự cần thiết và cân bằng lợi ích.25
Như vậy, đây là những nguyên tắc nền tảng cho việc vận hành thương mại của
WTO trong nhiều hoạt động khác nhau, từ việc hình thành các hiệp định đa biên đến
việc đàm phán các hiệp định thương mại khu vực, là cơ sở để các quốc gia tiến hành
nội luật hóa, là tiêu chuẩn để WTO thực hiện chức năng giám sát và cũng là kim chỉ
nam cho hoạt động giải quyết tranh chấp của WTO. Lý giải cho mọi hoạt động thương
mại đều phải dựa vào và bắt nguồn từ việc đảm bảo các nguyên tắc này, đặc biệt là cho
21

Điều 3.1 GATT 1994 quy định các khoản thuế hay các quy định nội địa không được áp dụng với các sản phẩm

nội địa hoặc nhập khẩu với kết cục là bảo hộ hàng nội địa.
22
Trường Đại học Luật TPHCM (2016), tlđd (2), tr.131.
23
Trường Đại học Luật TPHCM (2016), tlđd (2), tr.140.
24
Điều X Hiệp định GATT quy định các quốc gia thành viên phải thực hiện nguyên tắc minh bạch qua ba nội
dung: (i) thông báo công khai và kịp thời về mọi quyết định, quy định và quy chế thương mại, (ii) thiết lập các cơ
quan chuyên trách để rà soát các quyết định thương mại và cung cấp các thơng tin cần thiết khi có yêu cầu và (iii)
thông báo kịp thời cho WTO mỗi khi có sự thay đổi chính sách thương mại.
25
Trường Đại học Luật TPHCM (2016), tlđd (2), tr.143-146.

14


hoạt động của các RTA hiện nay. Ngoại lệ của nguyên tắc MFN theo Điều XXIV
GATT thực chất là hoạt động của WTO ở một mức độ sâu và rộng hơn, với cơ sở xác
định là dựa trên nguồn gốc xuất xứ sản phẩm cho các ưu đãi đặc biệt, đặt ra vấn đề
phải nhìn nhận về lĩnh vực này trong khn khổ WTO và các RTA đang có hiệu lực.
1.2 Ngoại lệ của nguyên tắc MFN theo điều XXIV GATT 1994
Hoạt động của thiết chế thương mại khu vực là vấn đề đã được đề cập dưới hình
thức một điều khoản của Hiệp định GATT 1947, nghĩa là ngay từ khi mới bắt đầu soạn
thảo một khuôn khổ pháp lý cho sự hình thành và hoạt động của tổ chức thương mại
quốc tế đầu tiên trên thế giới – tổ chức ITO, các bên tham gia đã thừa nhận và cho phép
sự hình thành của các liên minh thuế quan và khu vực thương mại tự do. Điều này
được lý giải một phần là do bối cảnh lịch sử thực tế, khi mà tại thời điểm GATT 1947
ra đời đã có sự tồn tại của những ưu đãi được tạo ra bởi các nước như giữa Benelux và
Hoa Kỳ, hay Liên minh thuế quan Liban – Seri cho Palestin và Tranjordan… Hơn nữa,
dưới góc độ của Lý thuyết Balassa về hội nhập khu vực,26 sự phát triển của các Hiệp

định thương mại tự do hay các liên minh thuế quan đều mang tính q trình, nằm trong
xu thế vận động và phát triển chung của thương mại thế giới. Vì thế, các thiết chế
thương mại khu vực này được coi là tương thích với ngun tắc khơng phân biệt đối
xử:
“Các nhà sáng lập GATT thừa nhận hội nhập kinh tế giữa một số nước có thể có
các lý giải kinh tế tương tự như quá trình hội nhập trong phạm vi một quốc gia có chủ
quyền – điều này có nghĩa là các thỏa thuận hội nhập khu vực khơng dẫn tới một sự đe
dọa vốn có nào đối với các nỗ lực khuyến khích việc tiếp tục hội nhập trên phạm vi
26

“Theo lý thuyết Balassa, tiến trình hội nhập kinh tế khu vực được chia thành năm mức cơ bản từ thấp đến cao
như sau: Cấp độ 1 - Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA – Preferential Trade Area), Cấp độ 2 - Khu vực mậu
dịch tự do (FTA – Free Trade Agreement), Cấp độ 3 - Liên minh thuế quan (CU – Customs Union), Cấp độ 4 Thị trường chung và Cấp độ 5 - Liên minh kinh tế & tiền tệ”, trích theo Đinh Cơng Tuấn (2014), Nợ cơng Việt
Nam: Nhìn từ kinh nghiệm Châu Âu, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.133-153.

15


tồn thế giới”.27
Bên cạnh đó, cạnh tranh thương mại trong bối cảnh hiện nay diễn ra khốc liệt hơn
bao giờ hết, ngay cả ở thị trường nội địa bởi sự đổi mới và cải tiến liên tục của khoa
học – kỹ thuật. Những hình thái thương mại kiểu mới dần xuất hiện, chẳng hạn như sự
phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực thương mại dịch vụ. Hơn nữa còn là xu hướng liên
kết khu vực và sự gia nhập của các thành viên mới vào WTO với nét đặc trưng riêng
trong lợi thế cạnh tranh của quốc gia mình, song WTO lại thiếu các cơ chế đàm phán
đa phương.28
Có thể thấy rằng, mục tiêu “One rule fit all” của WTO trong thời đại hiện này
dường như rất khó có thể đạt được bởi vì chắc chắn, việc tiến hành thỏa thuận giữa
nhóm những quốc gia có sự tương đồng về sức mạnh kinh tế, về lợi thế thị trường địa
lý sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc đạt được thỏa thuận để có thể làm hài hịa lợi ích

của tất cả các bên. Ở một phạm vi hẹp, các quốc gia có thể đàm phán bỏ qua những
thương lượng khơng đạt được tiếng nói chung, đồng thời đưa ra các cam kết hay biện
pháp hạn chế khác ngoài các biện pháp thơng thường được quy định trong WTO.
Chính những điều này đã thúc đẩy việc xúc tiến và hợp tác thương mại quốc tế diễn ra
ở nhiều mức độ trong nhiều lĩnh vực thương mại khác nhau, hướng đến việc tạo ra cơ
hội để khuếch trương sản phẩm nội địa và khai thác những thị trường tiêu thụ mới.
Về khái niệm, thiết chế thương mại khu vực được hiểu là những thỏa thuận liên
minh thương mại giữa hai hoặc một nhóm các quốc gia nhằm xúc tiến tự do hóa
thương mại và triệt tiêu các rào cản thương mại giữa các thành viên của khối liên minh.
Trong khuôn khổ hệ thống GATT/WTO, các thiết chế thương mại khu vực (RTA –
Regional Trade Agreement) được phân thành hai nhóm: (i) liên minh hải quan (CU –

27
28

Raj Bhala (2001), Luật thương mại quốc tế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Tư Pháp, Hà Nội, tr.520.
Rohini Acharya (2016), tlđd (17), tr.8.

16


Custom Union) và (ii) khu vực thương mại tự do (FTA – Free Trade Area).29 Đối với
khu vực thương mại tự do, thành viên của khối liên minh này sẽ cam kết dành cho nhau
những quyền ưu đãi và miễn trừ thương mại, nhưng bản thân mỗi thành viên vẫn được
quyền đàm phán tạo ra những cam kết riêng đối với những quốc gia không nằm trong
liên minh. Đặc điểm này tạo nên sự khác biệt đối với loại hình liên minh hải quan, khi
các thành viên của khối sẽ không chỉ cam kết dành sự ưu đãi cho nhau mà còn thỏa
thuận để áp dụng một cơ chế thương mại chung cho các quốc gia còn lại.
Nếu như trước đây đa phần các RTA được hình thành giữa các quốc gia Châu Âu
thì ở thời điểm hiện tại, tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như tầm nhìn khai thác tiềm

năng phong phú ở khu vực Châu Á đã dẫn đến việc các RTA lần lượt ra đời với số
lượng vượt trội. Theo số liệu thống kê của WTO, tính đến thời điểm hiện tại đã có 311
các thiết chế thương mại khu vực có hiệu lực, bao gồm lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ
dưới dạng các khu vực thương mại tự do và liên minh hải quan,30 trong đó Việt Nam
tham gia vào 12 hiệp định và 4 hiệp định khác đang trong quá trình đàm phán.
Khi một thành viên của WTO tham gia vào một thiết chế thương mại khu vực để
được hưởng và dành sự ưu đãi cho một nhóm các thành viên nhất định, điều này hoàn
toàn đi ngược lại yêu cầu của nguyên tắc MFN vì đã tạo ra tính phân biệt đối xử. Tuy
nhiên, mặc dù là nguyên tắc cơ bản chung và là xương sống cho việc vận hành hoạt
động thương mại toàn cầu của WTO, MFN lại ghi nhận hoạt động của các thiết chế
thương mại khu vực là một ngoại lệ của nguyên tắc này. Nói cách khác, MFN chấp
nhận một sự phân biệt đối xử ưu đãi chỉ cho một số quốc gia WTO là thành viên tham
gia các RTA trong trường hợp mục đích của sự phân biệt này là nhằm hướng đến mục
tiêu tự do hóa thương mại ở một phạm vi hẹp hơn với một mức độ cao hơn thông qua tỉ
lệ cắt giảm thuế và hạn chế phi thuế quan sâu hơn, bởi vì khi có sự cộng hưởng và kết
29

Trường Đại học Luật Tp.HCM (2016), tlđd (2), tr.118.
World Trade Organization, “Welcome to the Regional Trade Agreements Information System (RTA-IS)”
[ (cập nhật lần cuối ngày 26/2/2019)
30

17


nối giữa những thiết chế thương mại khu vực ở phạm vi nhỏ cũng sẽ góp phần vào tiến
trình tự do hóa thương mại chung ở phạm vi tồn cầu. Điều này dẫn chúng ta đến việc
xem xét các ngoại lệ của nguyên tắc MFN về các thiết chế thương mại khu vực sẽ được
WTO quy định như thế nào.
1.2.1 Giới thiệu về điều XXIV GATT 1994

WTO chấp nhận một ngoại lệ của nguyên tắc MFN đối với các RTA với mục tiêu
đẩy mạnh tự do hóa thương mại ở cấp độ khu vực, vì vậy, các thiết chế thương mại khu
vực phải thực sự hướng đến và thực hiện được mục tiêu này.31 Khoản 8 Điều XXIV
Hiệp định GATT 1994 quy định tính hợp pháp của các RTA, theo đó thuế quan và các
quy tắc điều chỉnh thương mại có tính chất hạn chế được triệt tiêu “một phần đáng kể
trong trao đổi thương mại giữa các quốc gia thành viên” hoặc ít nhất cũng được “loại
trừ về cơ bản với trao đổi hàng hóa có xuất xứ từ các quốc gia này”. Bên cạnh sự linh
hoạt đối với yêu cầu “một phần đáng kể”, các thành viên WTO cịn có thể “trong
chừng mực cần thiết” sử dụng các quyền của mình.32 Sự thiếu rõ ràng của các thuật
ngữ trên của WTO đã dẫn tới nhiều cuộc tranh cãi về bản chất của các RTA, chủ yếu ở
ba vấn đề sau:
Một là về cách xác định “giữa những quốc gia thành viên”. Như đã đề cập ở
phần nội dung về nguyên tắc MFN, yếu tố cơ bản để xác định liệu một sản phẩm có
được hưởng những cam kết ưu đãi hay không là do nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm
đó quyết định. Nói cách khác, RTA được hình thành trên ngun tắc hàng hóa, dịch vụ
của các quốc gia thành viên phải được hưởng ưu đãi đặc biệt để qua đó xúc tiến hoạt
động thương mại nội khối và trong bối cảnh toàn cầu hiện nay, khi q trình sản xuất
các sản phẩm hàng hóa có thể trải qua nhiều công đoạn sản xuất tại các quốc gia, việc
31

Khoản 4 Điều XXIV GATT 1994 quy định: “Mục tiêu của một liên minh thuế quan hay khu vực thương mại tự
do là thúc đẩy thương mại giữa các lãnh thổ thành viên và không được làm tăng các rào cản cho thương mại của
các bên tham gia GATT khác với lãnh thổ này”.
32
Điểm b khoản 8 Điều XXIV GATT 1994.

18



×