Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.75 KB, 64 trang )

NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

NGUYỆN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN VÀ SỰ
VẬN DỤNG CỦA NGUYÊN TẮC NÀY TRONG LUẬT BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG 2020

1


NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NGUN TẮC NGƯỜI
GÂY Ơ NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN
I.
Những vấn đề lí luận
1. Khái niệm nguyên tắc người gây ơ nhiễm phải trả tiền
2. Lịch sử hình thành và phát triển nguyên tắc người gây ô nhiễm phải
trả tiền
2.1.

Nguồn gốc

2.2.

Pháp luật quy định

3. Những nguyên tắc cơ bản
3.1.



Nguyên tắc phòng ngừa

3.2.

Nguyên tắc đảm bảo hiệu quả của pháp luật

3.3.

Nguyên tắc đảm bảo phát triển bền vững

4. Nội dung của nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
II.

Mục đích của ngun tắc người gây ơ nhiễm phải trả tiền

CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH THỂ HIỆN NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô
NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN TRONG LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
2020
1. Sự thể hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền thông qua
phps luật và Luật bảo vệ môi trường 2020
1.1.

Luật bảo vệ môi trường (2020)

1.2.

Thuế tài nguyên

1.3.


Thuế bảo vệ mơi trường

1.4.

Phí bảo vệ mơi trường

1.5.

Đối tượng nộp thuế bảo vệ môi trường

1.6.

Đối tượng thu thuế bảo vệ môi trường
2


NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

2. Sự thể hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền thông qua một số
hoạt động khác
3. Những hiểu lầm về nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
4. Các hình thức của ngun tắc người gây ơ nhiễm phải trả tiền
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGUYÊN
TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN TRONG PHÁP
LUẬT VIỆT NAM
1. Đánh giá
1.1.

Sự vận dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền trong

quản lý môi trường ở Việt Nam

1.2.

Những hạn chế

2. Kiến nghị
3. Giải pháp
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3


NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hưởng ứng “Tháng hành động vì mơi trường năm 2018: Giải quyết vấn
đề rác thải nhựa và túi ni lông” do Bộ TN&MT phát động, ngày 24/7/2018,
tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA)
phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Cộng đồng tổ chức Hội
thảo “Ngun tắc “Người gây ơ nhiễm phải trả” - Ví dụ điển hình từ việc
quản lý chất thải rắn của Hàn Quốc”.
Hàn Quốc thực hiện các chính sách thúc đẩy đầu tư cho công tác BVMT
thông qua áp dụng triệt để nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”.
Trong thập niên 2000, Chính phủ Hàn Quốc đã tập trung vào cải cách hệ
thống thuế, phí và lệ phí mơi trường. Năm 2014, tổng thu ngân sách từ các
loại thuế, phí và lệ phí mơi trường ở Hàn Quốc đạt 2,25% tổng sản phẩm
quốc nội (GDP), cao thứ 14 trong số 39 quốc gia phát triển (gồm 34 quốc

gia thành viên khối hợp tác và phát triển kinh tế OECD và 5 quốc gia đối tác
của khối). Hiện nay, ở Hàn Quốc, nguồn thu từ thuế, phí và lệ phí mơi
trường đã có thể đủ bù đắp cho chi ngân sách cho hoạt động BVMT (bao
gồm cả chi cho cấp nước và BVMT thiên nhiên), tương đương với tổng mức
chi mơi trường chiếm hơn 2% GDP.
Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc cũng áp dụng rất nhiều chính sách
khác nhằm nâng cao hiệu suất cũng như lợi nhuận của các khoản đầu tư
trong lĩnh vực BVMT, ví dụ như chính sách bắt buộc phân loại rác thải
nguồn và chính sách đánh phí chất thải theo khối lượng xả thải, nhằm nâng
cao tỷ suất tái chế chất thải; thúc đẩy các hệ thống gián nhãn sinh thái/môi
trường cho các sản phẩm/dịch vụ, mua sắm xanh và lối sống xanh… nhằm
thúc đẩy và khuyến khích các nhóm cộng đồng và các tầng lớp xã hội khác
nhau thực hiện sản xuất sạch, tiết kiệm năng lượng và BVMT.
4


NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

Việt Nam hiện đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn như nợ cơng và
thâm hụt ngân sách cao, những khó khăn này làm cho nhiệm vụ huy động
vốn đầu tư cho cơng tác BVMT trở nên khó khăn. Do đó, Việt Nam nên tập
trung ưu tiên cải cách, đồng thời, các chính sách về thuế/phí mơi trường để
có thể áp dụng nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” trong việc huy
động các nguồn đầu tư cho môi trường cũng như các chính sách mơi trường
khác nhằm tối đa hoá hiệu quả cũng như lợi nhuận của các khoản đầu tư đó.
Tại Hội thảo, các đại biểu tập trung thảo luận một số nội dung như: Xác
định vấn đề chính trong quản lý rác thải ở nước ta; Các chính sách cần thiết
cho tuần hồn tài ngun: Thuận lợi và khó khăn ở Việt Nam; Vai trị của
khoa học cơng nghệ trong tuần hồn tài ngun…


Việt Nam đang nỗ lực phát triển theo hướng đảm bảo sự tăng trưởng kinh
tế gắn liền với các mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế – xã hội – môi
trường. Hướng tới sự bền vững về mơi trường, q trình điều chỉnh, sửa đổi
chính sách về bảo vệ mơi trường ở Việt Nam đã và đang vận dụng Nguyên
tắc người gây ô nhiễm trả tiền như là một hướng tiếp cận quan trọng. Trong
phiên họp thứ 44 của Quốc hội ngày 21/4/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội cơ bản thống nhất với việc sửa đổi tồn diện Luật Bảo vệ mơi trường
nhằm khắc phục những nhược điểm còn tồn tại, cập nhật với tình hình mới,
từ đó tạo ra hành lang pháp lý và mơi trường thuận lợi để khuyến khích sản
xuất, tiêu thụ bền vững. Một trong những chủ trương quan trọng của q
trình sửa đổi Luật Bảo vệ mơi trường năm 2020 là tăng cường vận dụng
Nguyên tắc người gây ơ nhiễm trả tiền. Bài viết này sẽ góp phần thảo luận
làm rõ thêm về nguyên tắc này, nhằm đóng góp vào q trình sửa đổi
Luật Bảo vệ mơi trường.

5


NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền yêu cầu những người gây ra
bất kỳ ô nhiễm nào cũng phải trả tiền cho hậu quả. Nguyên tắc này ảnh
hưởng đến bất kỳ loại ơ nhiễm nào, dù là đất, khơng khí hay nước. Ví dụ,
nếu một cơ sở cơng nghiệp tạo ra bất kỳ chất thải hoặc hóa chất độc hại nào
dưới dạng sản phẩm phụ trong quá trình hoạt động của họ, thì họ phải đảm
bảo xử lý an tồn các sản phẩm độc hại đó.
Với mong muốn cải thiện các bất cập, nhược điểm còn tồn đọng của luật
cũ, cập nhất tình hình, quy định mới trên thế giới về mơi trường, từ đó vận
dụng chun sâu vào lĩnh vực quy phạm pháp luật á Việt Nam. Trong
số các nội dung được xây dựng, duy trì thực hiện có thể chú trọng đến

nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền - là một nguyên tắc vô cùng quan
trọng và được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng phổ biến vào trong các
quy phạm pháp luật để duy trì trật tự, tạo nên sự cơng bằng trong giải quyết
các vấn đề về ô nhiễm môi trường, khi vấn đề ô nhiễm môi trường ngày
càng trá nên là mối quan tâm hàng đầu á các vấn gia phát triển và đang phát
triển, và đương nhiên là có cả Việt Nam để từ đó đưa ra đánh giá, kiến nghị
và giải pháp để hồn thiện hơn.

2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài tiểu luận hướng đến việc tìm hiểu sự hình thành, cơ sá lý luận
của nguyên tắc người gây ơ nhiễm phải trả tiền (PPP). Qua đó, phân tích các
quy định có trong Luật Bảo vệ mơi trường năm 2020 có thể hiện nội dung,
tinh thần của nguyên tắc này. Đồng thời, tác giả hướng đến việc so sánh,
đối chiếu với cách áp dụng nguyên tắc trên của một số quốc gia trên thế
giới với Việt Nam, cùng với sự nhìn nhận hiện trạng áp dụng pháp luật về
môi trường khi áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, để thể
hiện một số kiến nghị liên quan và từ đó trình bày quan điểm cá nhân trong
6


NGUN TẮC NGƯỜI GÂY Ơ NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

q trình áp dụng nguyên tắc PPP, góp phần xây dựng các quy định liên
quan pháp luật về mơi trưßng dựa trên ngun tắc người gây ơ nhiễm phải
trả tiền thêm hồn thiện.
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Nội dung xuyên suốt của tiểu luận được thực hiện trên cơ sở áp
dụng các phương pháp nghiên cứu luật học, áp dụng công cụ phân tích lịch
sử đi đến phân tích quy định pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
- Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ nội dung nghiên cứu của bài
tiểu luận, tác giả hướng đến phạm vi nghiên cứu là các nội dung được
quy định trong Luật Bảo vệ mơi trưßng năm 2020, văn bản hướng dẫn
thi hành các quy định này của Luật có liên quan đến ngun tắc ngưßi
gây ơ nhiễm phải trả tiền. Đồng thßi, tác giả có sự khai thác các yếu tố
văn bản quốc tế có đề cập đến PPP để phục vụ cho mục đích nghiên
cứu mà tác giả hướng đến.
5. Ý nghĩa nghiên cứu đề tài
Ngày nay, việc khai thác mơi trường nước có thể tạo ra những thành
tựu cho đời sống kinh tế - xã hội, đồng thời có thể gây ra những tác hại tiêu
cực về sức khỏe cho con người, ảnh hưởng đến các động vật khác và làm
suy giảm chất lượng môi trường nước. Các thiệt hại này có thể được khắc
phục một phần qua chế tài về bồi thường thiệt hại do hành vi gây ơ nhiễm
mơi trường nước. Bài viết này bình luận các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
về bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường nước và thực tiễn
áp dụng các nguyên tắc đó tại Việt Nam.
6. Kết cấu của đề tài

7


NGUN TẮC NGƯỜI GÂY Ơ NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung bài
tiểu luận có kết cấu chia thành 3 Chương như sau:
+ Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc người gây ô nhiễm phải
trả tiền (PPP)
+ Chương 2: Quy định thể hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020

+ Chương 3: Kiến nghị và giải pháp hoàn thiện nguyên tắc người gây ô
nhiễm phải trả tiền trong pháp luật môi trường Việt Nam

8


NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PPP
OECD

The Polluter Pays Principle

Nguyên tắc người gây ô

Organisation for Economic Co-

nhiễm phải trả tiền
Tổ chức Hợp tác và phát

operation and Development
TN&M

triển kinh tế
Tài nguyên và môi trường

T
BVMT


Bảo vệ mơi trường

DANH MỤC HÌNH ẢNH
Ảnh 1. Hình ảnh lị nhơm gây ô nhiễm tại làng Mẫn Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc
Ninh....................................................................................................................................................52
Ảnh 2. "Làng ung thư" Mẫn Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.................................53

9


NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NGUN TẮC NGƯỜI
GÂY Ơ NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN
I.

Những vấn đề lí luận về nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả
tiền

1. Khái niệm nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
Nguyên tắc người gây ơ nhiễm trả tiền (Polluter-Pays Principle: PPP) có
xuất phát điểm là một nguyên tắc kinh tế về phân bổ chi phí, được đề xuất
nhằm “nội hóa” các khoản chi phí thiệt hại mơi trường, vốn thường bị người
sản xuất gây ô nhiễm môi trường bỏ qua và không được phản ánh trong giá
cả hàng hóa liên quan. Q trình “nội hóa” chi phí theo ngun tắc PPP có
thể được hiểu là người sản xuất gây ô nhiễm buộc phải chi trả cho các chi
phí mơi trường phát sinh do hành vi gây ơ nhiễm của họ, từ đó những khoản
chi phí này được phản ánh trong số sách kế toán và đưa vào giá thị trường
của các giao dịch kinh tế liên quan. Việc phải chi trả cho vấn đề ô nhiễm
môi trường sẽ tạo ra động lực kinh tế cho người gây ô nhiễm điều chỉnh

hành vi gây ô nhiễm của họ, nhờ đó giảm thiểu vấn đề ô nhiễm môi trường.
Từ một nguyên tắc kinh tế, nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền đã dần
được công nhận rộng rãi trên thế giới như là một nguyên tắc pháp lý cơ bản
trong hệ thống pháp luật về môi trường. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh
tế (Organisation for Economic Co-operation and Development: OECD) đã
đưa ra đề xuất áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền từ những năm
đầu thập kỷ 1970s. Các nỗ lực liên tục của Tổ chức OECD trong khoảng
thời gian hai thập kỷ đã đưa nguyên tắc PPP trở thành một nguyên tắc pháp
lý. Nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền đã được áp dụng chính thức tại
Châu Âu trong Đạo luật về Một Châu Âu đồng nhất năm 1987; và ở phạm vi
quốc tế nguyên tắc này đã được ghi nhận trong Nguyên tắc 16 của Tuyên bố
chung Rio của Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển năm 1992 (Luppi

10


NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

và cộng sự, 2012). Hiệp định thư Kyoto về ứng phó với biến đổi khí hậu
năm 1992 cũng là một ví dụ về các quy định quốc tế đã áp dụng nguyên tắc
người gây ô nhiễm trả tiền. Trong khoảng 25 năm kể từ Tuyên bố chung Rio
1992, nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền đã được áp dụng rộng rãi trong
hệ thống pháp luật môi trường của nhiều quốc gia trên thế giới (Zahar,
2018).
Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền yêu cầu những người gây ra
bất kỳ ô nhiễm nào cũng phải trả tiền cho hậu quả. Nguyên tắc này ảnh
hưởng đến bất kỳ loại ô nhiễm nào, dù là đất, khơng khí hay nước. Ví dụ,
nếu một cơ sở công nghiệp tạo ra bất kỳ chất thải hoặc hóa chất độc hại nào
dưới dạng sản phẩm phụ trong quá trình hoạt động của họ, thì họ phải đảm
bảo xử lý an toàn các sản phẩm độc hại đó. Ngun tắc “người gây ơ nhiễm

phải trả tiền” là một thực tiễn được chấp nhận phổ biến mà những người
gây ra ơ nhiễm phải chịu chi phí quản lý để ngăn ngừa thiệt hại cho sức khỏe
con người hoặc mơi trường. Ví dụ, một nhà máy sản xuất một chất có khả
năng gây độc như một sản phẩm phụ của các hoạt động của nó thường phải
chịu trách nhiệm về việc loại bỏ nó một cách an tồn. Ngun tắc trả tiền
cho người gây ô nhiễm là một phần của bộ các nguyên tắc rộng hơn nhằm
hướng dẫn phát triển bền vững trên toàn thế giới.
Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền không có một định nghĩa
pháp lý cụ thể mà được hiểu xuyên suốt thông qua các quy định của pháp
luật về mơi trường. Dưới góc độ khái quát, nguyên tắc này được hiểu là việc
sử dụng biện pháp kinh tế để tác động vào chính hành vi của các chủ thể
theo hướng có lợi cho mơi trường. Nói cách khác, khi một chủ thể gây ô
nhiễm môi trường thì họ sẽ phải chịu những nghĩa vụ tài chính do hành vi
của họ gây ra. Mơi trường được xem như một loại hàng hóa đặc biệt được
lưu thơng trên thị trường. Sở dĩ nó là một loại hàng hóa đặc biệt vì nó mang
tính cộng đồng (không thuộc sở hữu của một cá nhân nào) và ai cũng phải
11


NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

sử dụng nó trong hoạt động thương mại lẫn phi thương mại. Do vậy, việc
gán nghĩa vụ tài chính vào mơi trường sẽ giúp quản lý một cách có hiệu quả
việc sử dụng và khai thác mơi trường.
2. Lịch sử hình thành và phát triển nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền
2.1.

Nguồn gốc


Kể từ năm 1972, phạm vi của PPP đã dần dần tăng lên. Nguyên tắc ban
đầu chỉ tập trung vào chi phí ngăn ngừa và kiểm sốt ơ nhiễm nhưng sau đó
đã được mở rộng để bao gồm cả chi phí của các biện pháp mà cơ quan chức
năng thực hiện để đối phó với phát thải chất ơ nhiễm. Một phần mở rộng
hơn nữa của nguyên tắc được bảo hiểm về trách nhiệm môi trường: người
gây ô nhiễm phải trả tiền cho những thiệt hại môi trường mà họ gây ra, bất
kể việc ô nhiễm gây ra thiệt hại là dưới giới hạn pháp luật (gọi là “ô nhiễm
tồn dư cho phép”) hay tình cờ.
Năm 1992, Tuyên bố của Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển
(thường được gọi là “Tuyên bố Rio”) đã đưa PPP vào làm một trong 27
nguyên tắc chỉ đạo cho sự phát triển bền vững trong tương lai.
Nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền, như hàm ý của tên gọi, đòi hỏi
người gây ơ nhiễm phải chi trả các chi phí phát sinh do vấn đề ô nhiễm môi
trường mà họ gây ra. Khi là một nguyên tắc pháp lý và được đưa vào các
quy định pháp luật, nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền sẽ được đảm bảo
thực thi bởi hệ thống bộ máy thực thi luật pháp, nhờ đó người gây ơ nhiễm
sẽ buộc phải chi trả các khoản chi phí phát sinh do ơ nhiễm. Các chi phí phát
sinh do ơ nhiễm có hàm ý rộng, và trong thực tế cách diễn giải về các khoản
chi phí mà người gây ô nhiễm phải trả cũng rất đa dạng.

12


NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

Để giúp trả lời người gây ô nhiễm chi trả các khoản chi phí nào, Zahar
(2018) đã tổng kết khái quát hai cách hiểu chính về các khoản chi phí phát
sinh do ô nhiễm mà người gây ô nhiễm phải trả.
Theo nghĩa hẹp, người gây ơ nhiễm phải trả:
(1) chi phí của các biện pháp ngăn ngừa và kiểm sốt ơ nhiễm do họ

thực hiện nhằm tuân thủ các quy định bảo vệ mơi trường;
(2) chi phí thiệt hại do vấn đề ô nhiễm môi trường gây ra, bao gồm cả
những thiệt hại trong trường hợp tai nạn hay sự cố môi trường.
Theo nghĩa rộng thì ngồi 2 khoản chi phí trên, người gây ơ nhiễm cịn
phải trả các chi phí của cơ quan quản lý nhà nước nhằm đảm bảo thực thi
nguyên tắc PPP này, ví dụ như chi phí hành chính để thực thi các quy định
quản lý mơi trường, chi phí xác định mức thiệt hại dơ ơ nhiễm mơi trường,
chi phí xác định chủ thể gây ơ nhiễm phải chịu trách nhiệm cho thiệt hại môi
trường.
Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền được đề cập lần đầu tiên vào
năm 1972 bởi Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD1. Sau đó, OECD
tiếp tục xây dựng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền như một
nguyên tắc buộc người gây ô nhiễm phải chịu chi phí thực hiện các biện
pháp khắc phục và cải thiện môi trường theo quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước để đảm bảo mơi trường trong tình trạng có thể chấp nhận được. Từ
sự xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1972 đến nay, nguyên tắc người gây ô
nhiễm phải trả tiền đã trở nên phổ biến và được ghi nhận trong nhiều điều
ước quốc tế và pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Cụ thể, Nguyên tắc
số 16 thuộc Tuyên bố Rio về môi trường và phát triển năm 1992 khẳng định
Trong các khuyến nghị về nguyên tắc hướng dẫn liên quan đến khía cạnh kinh tế quốc tế của chính sách
mơi trường, OECD cho rằng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền được sử dụng để phân bổ chi phí
của cơng tác phịng chống ơ nhiễm và chi phí cho các biện pháp kiểm sốt ơ nhiễm để khuyến khích sử
dụng hợp lý các nguồn tài nguyên khan hiếm, giảm thiểu ô nhiễm môi trường
1

13


NGUN TẮC NGƯỜI GÂY Ơ NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN


chính phủ các quốc gia cần nỗ lực thúc đẩy việc nội luật hóa chi phí mơi
trường và áp dụng ngun tắc người gây ơ nhiễm phải trả tiền. Ngồi ra,
Điều 2 Nghị định thư Kyoto yêu cầu các bên gây ô nhiễm phải chịu chi phí
cho việc giảm phát thải khí nhà kính trên cơ sở ngun tắc người gây ơ
nhiễm phải trả tiền. Tại châu Á, Bangladesh đã thể chế hóa ngun tắc
người gây ơ nhiễm phải trả tiền trong các quy định của Luật Bảo vệ môi
trường 1995. Ấn Độ áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền vào
năm 2006, cịn Thái Lan trước đó đã đưa nguyên tắc người gây ô nhiễm môi
trường phải trả tiền vào trong Luật Môi trường của quốc gia này.

Tại Việt Nam, nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền được quy định
trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Việc trả tiền theo
nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền được thực hiện dưới các hình
thức như một khoản phải trả về khai thác tài nguyên (thuế tài nguyên, đấu
giá quyền khai thác tài nguyên), thuế mơi trường, phí bảo vệ mơi trường
(đối với nước thải, chất thải rắn, khai thác khoáng sản), khoản tiền phải trả
cho việc sử dụng dịch vụ (dịch vụ thu gom rác, dịch vụ quản lý các chất thải
nguy hại), khoản tiền phải trả cho việc sử dụng cơ sở hạ tầng (tiền thuê kết
cấu hạ tầng trong khu công nghiệp bao gồm cả tiền thuê hệ thống xử lý chất
thải tập trung), ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường trong hoạt động khai
thác tài nguyên thiên nhiên. Các khoản thu như thuế và phí lần lượt được
quy định tại các văn bản luật và các văn bản dưới luật. Trước hết, thuế môi
trường được quy định tại Luật Thuế bảo vệ môi trường 2010. Khoản 1 Điều
2 Luật Thuế bảo vệ môi trường xác định thuế bảo vệ môi trường là loại thuế
gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu đến môi
trường2. Mức thuế suất áp dụng với từng đối tượng chịu thuế là khác nhau.
Đối tượng chịu thuế bao gồm 8 nhóm hàng hóa: xăng dầu, than đá, dung dịch hydro-chloro-fluro-carbon
(HCFC), túi nilon, thuốc trừ cỏ, thuốc bảo quản lâm sản, thuốc khử trùng kho, thuốc trừ mối thuộc loại
hạn chế sử dụng. Người nộp thuế bảo vệ môi trường là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, nhập khẩu
hàng hóa thuộc nhóm đối tượng chịu thuế nói trên.

2

14


NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

Về căn cứ tính thuế và phương pháp tính thuế, căn cứ tính thuế bảo vệ mơi
trường là số lượng hàng hóa tính thuế và mức thuế tuyệt đối3. Phương pháp
tính thuế là số thuế bảo vệ môi trường phải nộp bằng số lượng đơn vị hàng
hóa chịu thuế nhân với mức thuế tuyệt đối quy định trên một đơn vị hàng
hóa4. Việc khai thuế, tính thuế, nộp thuế bảo vệ mơi trường đối với hàng hóa
sản xuất bán ra, trao đổi, tiêu dùng nội bộ, tặng cho được thực hiện theo
tháng và theo quy định của Luật Quản lý thuế năm 2019, có hiệu lực từ ngày
01/07/2020.
Về phí mơi trường, Luật Bảo vệ môi trường 2014 (khoản 1 Điều 148) quy
định tổ chức, cá nhân xả thải ra môi trường hoặc làm phát sinh tác động xấu
đối với môi trường phải nộp phí bảo vệ mơi trường. Theo Luật Phí và lệ phí
năm 2015, trong các loại hình phí bảo vệ mơi trường, phí liên quan tới thẩm
định là hình thức áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền, tập trung
vào chi phí của cơ quan nhà nước khi thực thi các quy định quản lý môi
trường. Đối với mơi trường nước được áp dụng phí bảo vệ mơi trường với
nước thải, mức phí, kê khai, nộp, quản lý và sử dụng phí bảo vệ mơi trường
đối với nước thải được thực hiện theo Nghị định số 53/2020/NĐ-CP. Cũng
liên quan tới nước thải, giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải được quy
định trong Nghị định số 80/2014/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải đã
xác định một trong những nguyên tắc chung quản lý thoát nước và xử lý
nước thải là người gây ô nhiễm phải trả tiền xử lý ô nhiễm; nguồn thu từ
dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải phải đáp ứng từng bước và tiến tới bù
đắp chi phí dịch vụ thoát nước (Khoản 2 Điều 3 của Nghị định số

80/2014/NĐ-CP). Ngoài ra, Điều 44 Nghị định số 80/2014/NĐ-CP cũng cho
Ví dụ: thuế suất đối với nhóm đối tượng chịu thuế là than đá thì mức thuế suất cao nhất là 50.000
đồng/tấn và mức thuế suất thấp nhất là 10.000 đồng/tấn, được áp dụng đối với than nâu, than mỡ và các
loại than đá khác; thuế suất đối với dung dịch hydro-chloro-fluro-carbon (HCFC) dao động từ 1.000 5.000 đồng/kg.
4
Số lượng hàng hóa được quy định như sau: đối với hàng hóa sản xuất trong nước, số lượng hàng hóa tính
thuế là số lượng hàng hóa sản xuất bán ra, trao đổi, tiêu dùng nội bộ, tặng cho; đối với hàng hóa nhập
khẩu, số lượng hàng hóa tính thuế là số lượng hàng hóa nhập khẩu và mức thuế tuyệt đối để tính thuế
được quy định tại Điều 8 của Luật Thuế Bảo vệ môi trường
3

15


NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

phép sử dụng một phần tiền thu được để chi trả cho dịch vụ đi thu, đánh giá,
lấy mẫu phân tích nước thải xác định hàm lượng COD. Như vậy, phí bảo vệ
môi trường với nước thải áp dụng tại Việt Nam buộc người gây ô nhiễm chi
trả tất cả các dạng chi phí gồm chi phí ngăn ngừa và kiểm sốt ô nhiễm, chi
phí thiệt hại do ô nhiễm và chi phí của cơ quan quản lý nhà nước khi thực
thi các quy định quản lý môi trường.
2.2.

Pháp luật quy định

 Luật thuế bảo vệ môi trường 57/2010/QH12 được thông qua ngày
15/11/2010 và có hiệu lực 01/01/2012 quy định về đối tượng chịu
thuế, đối tượng không chịu thuế, người nộp thuế , căn cứ tính thuế,
khai thuế, tính thuế, nộp thuế và hồn thuế bảo vệ mơi trường.

 Nghị định số 67/2011/NĐ-CP ngày 08/08/2011 quy định chi tiết và
hướng dẫn một số điều luật của thuế bảo vệ môi trường.
 THông tư 152/2011/TT-BTC ngày 11/11/2011 hướng dẫn nghị định
số 67/2011.
 Thông tư số 212/2015/TT-BTC hướng dẫn chính sách thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với hoạt động bảo vệ môi trường tại nghị định số
19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định chi tiết thi hành một số
điều luật bảo vệ môi trường.
3. Những nguyên tắc cơ bản
3.1.

Nguyên tắc phòng ngừa

Nguyên tắc phòng ngừa (principle of preventive action) là một nguyên
tắc quan trọng trong pháp luật về bảo vệ mơi trường, bởi lẽ có những hậu
quả mơi trường khơng khắc phục được mà chỉ có thể phòng ngừa. Phòng
ngừa được hiểu là việc chủ động ngăn chặn nhằm loại bỏ những nguyên
nhân có thể gây ra những rủi ro gây nguy hại đối với môi trường trước khi
16


NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

những rủi ro đó xảy ra. Mục đích của ngun tắc phịng ngừa là nhằm ngăn
ngừa những rủi ro mà con người có thể gây ra cho mơi trường, giảm thiểu
chi phí được sử dụng để khắc phục hậu quả do hành vi gây ô nhiễm môi
trường, bảo vệ môi trường và phát triển nền kinh tế bền vững. Nguyên tắc
phòng ngừa lần đầu tiên được nhắc đến một cách gián tiếp tại Tuyên bố
Stockholm về môi trường và con người, sau đó được ghi nhận một cách trực
tiếp trong chương 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc về môi trường tự nhiên

1982. Nguyên tắc phòng ngừa cũng xuất hiện trong Tuyên bố Rio về mơi
trường và phát triển. Theo đó, các quốc gia thành viên phải áp dụng cách
tiếp cận phòng ngừa trong việc bảo vệ môi trường.
Tại Việt Nam, nguyên tắc phòng ngừa được đề cập đến ngay trong Hiến
pháp 2013 (Điều 63), văn kiện pháp lý cơ bản và có hiệu lực pháp lý cao
nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở Hiến pháp
2013, Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã ghi nhận nguyên tắc phịng ngừa là
một trong các ngun tắc chính của hoạt động bảo vệ môi trường tại Khoản
6 Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường, quy định hoạt động bảo vệ môi trường
phải được tiến hành thường xuyên và ưu tiên phịng ngừa ơ nhiễm, sự cố,
suy thối mơi trường. Ngồi ra, Luật Bảo vệ mơi trường 2014 có nhiều quy
định thể hiện nguyên tắc phòng ngừa như quy định về phịng ngừa, ứng phó
sự cố mơi trường, khắc phục ơ nhiễm và phục hồi môi trường.
3.2.

Nguyên tắc đảm bảo hiệu quả về pháp luật

Nguyên tắc đảm bảo hiệu quả về luật pháp được hiểu là sự hiệu quả trong
việc điều chỉnh nhóm các quan hệ xã hội của một văn bản quy phạm pháp
luật được ban hành. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả của pháp luật trong
pháp luật về mơi trường địi hỏi các quy phạm pháp luật về mơi trường phải
có tính khả thi và đạt được hiệu quả cao, hạn chế và giảm thiểu hành vi gây
ô nhiễm môi trường cũng như thiệt hại xảy ra do hành vi gây ô nhiễm môi

17


NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

trường. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả của pháp luật có mối liên hệ chặt

chẽ và mật thiết với nguyên tắc người gây ơ nhiễm phải trả tiền và ngun
tắc phịng ngừa. Bởi lẽ, nếu các quy phạm cụ thể hóa nguyên tắc người gây
ô nhiễm phải trả tiền và nguyên tắc phịng ngừa tạo ra những kết quả tích
cực trên thực tế, kiềm chế được hành vi gây ô nhiễm, ngăn chặn được những
thiệt hại mơi trường có thể xảy ra thì các quy phạm đó đã đáp ứng được
ngun tắc về tính hiệu quả của luật pháp khi được áp dụng và thực thi hợp
lý.
Hiệu quả của pháp luật thông qua hoạt động thực thi là một vấn đề lớn tại
nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Tại Việt Nam, mặc dù khung pháp lý
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường nước
đã tương đối hoàn thiện với các quy định trong Bộ luật Dân sự 2015, Luật
Bảo vệ môi trường 2014, Luật Tài nguyên nước 2012, và các văn bản quy
phạm pháp luật khác, song thực tế thực thi các văn bản quy phạm pháp luật
trên lại gặp nhiều vấn đề. Người bị thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm mơi
trường nước thường là bên yếu thế, cịn người thực hiện hành vi gây ô
nhiễm môi trường nước lại là những doanh nghiệp, tập đồn kinh tế có tiềm
lực tài chính mạnh. Do đó, sức mạnh trong q trình đàm phán, thương
lượng về chi phí bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường
nước thường thuộc về người thực hiện hành vi gây ô nhiễm môi trường
nước. Thậm chí, người thực hiện hành vi gây ơ nhiễm mơi trường cịn cố
tình chây ì, kéo dài thời gian tố tụng. Ngoài ra, những tranh chấp liên quan
đến địi bồi thường thiệt hại do hành vi gây ơ nhiễm môi trường nước không
xuất hiện nhiều do người dân cịn mang nặng tâm lý e ngại, thay vì đưa
tranh chấp ra Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích thì người
dân lại chọn cách tự giải quyết. Cuối cùng, vai trò của các thiết chế cơng
quyền như Tịa án hay các cơ quan hành pháp chưa được phát huy đúng
mức, một số cơ quan hành pháp chưa thực sự làm tròn trách nhiệm bảo vệ
18



NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

cho lợi ích của người dân khi những tranh chấp liên quan đến trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường nước xảy ra. Việc
đảm bảo hiệu quả của pháp luật thông qua hoạt động thực thi vẫn đang là
một nút thắt trong quá trình hướng tới mơ hình nhà nước pháp quyền tại
Việt Nam. Đồng thời, nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả của pháp luật vẫn
gặp nhiều khó khăn khi triển khai trên thực tế.
3.3.

Nguyên tắc đả bảo phát triển bền vững

Nguyên tắc đảm bảo phát triển bền vững được định nghĩa là sự phát triển
đáp ứng nhu cầu hiện tại không gây nguy hại tới khả năng tự đáp ứng nhu
cầu của các thế hệ tương lai. Phát triển bền vững hướng tới việc tập trung
những nỗ lực bảo vệ môi trường nhằm cải thiện điều kiện sống của con
người. Nguyên tắc phát triển bền vững được nhắc đến lần đầu tiên vào năm
1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn thế giới, được công bố bởi Hiệp hội
Bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc tế, với nội dung như sau:
“Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế
mà cịn phải tơn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến
môi trường sinh thái học”. Nguyên tắc phát triển bền vững sau đó cũng xuất
hiện trong Tuyên bố Stockholm về môi trường và con người 1972 với nội
dung yêu cầu chính sách mơi trường của các quốc gia phải làm tốt hơn và
không ảnh hưởng tiêu cực đến tiềm năng phát triển hiện tại và tương lai của
các nước đang phát triển (nguyên tắc số 11). Ngoài ra, nguyên tắc phát triển
bền vững cũng được đề cập tại nguyên tắc số 12 của Tuyên bố Rio về môi
trường và phát triển 1992: “Các quốc gia cần hợp tác để phát huy một hệ
thống kinh tế toàn cầu và giúp đỡ lẫn nhau trong việc hướng đến sự phát
triển kinh tế bền vững ở tất cả các quốc gia”.

Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, nguyên tắc phát triển bền vững
ngày càng được coi trọng. Khoản 1 Điều 63 Hiến pháp 2013 quy định Nhà

19


NGUN TẮC NGƯỜI GÂY Ơ NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN

nước có trách nhiệm quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Trong khi đó, Luật Bảo vệ môi trường 2014 ghi nhận
nguyên tắc phát triển bền vững bằng cách đưa ra định nghĩa về phát triển
bền vững tại khoản 4 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 20145. Đối với đảm
bảo phát triển bền vững môi trường nước, Luật Tài nguyên nước 2012 quy
định tài nguyên nước phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý,
tiết kiệm và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội
và bảo đảm quốc phòng, an ninh (khoản 1 Điều 4). Việc lập chiến lược tài
nguyên nước phải đáp ứng nhu cầu về sử dụng nước cho sinh hoạt, sản xuất,
phát triển bền vững kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; bảo vệ tài ngun
nước và phịng, chống có hiệu quả tác hại do nước gây ra; khai thác, sử dụng
tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên nước.
4. Nội dung của nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
Nội dung cơ bản của PPP được thể hiện ngay trong tên gọi của nó, đó là
các chủ thể gây ra ô nhiễm môi trường phải chịu chi phí cho việc khắc phục,
cải thiện môi trường bị ô nhiễm. Những người khai thác, sử dụng tài nguyên
thiên nhiên, những người có hành vi xả thải vào môi trường cũng như những
người có hành vi khác gây tác động xấu tới mơi trường đều phải trả tiền.
Theo PPP thì người gây ơ nhiễm phải chịu mọi khoản chi phí để thực
hiện các biện pháp làm giảm ơ nhiễm do chính quyền thực hiện, nhằm đảm
bảo các điều kiện môi trường ở mức chấp nhận được đối với sự tồn tại và
phát triển. PPP địi hỏi các chi phí giải quyết ơ nhiễm sẽ do những người gây

ra nó phải trả. Mục tiêu trước hết của nó là tiếp thu các yếu tố ngoại ứng về
môi trường của hoạt động kinh tế, do đó giá cả hàng hóa và dịch vụ phải
phản ánh đầy đủ các chi phí về mơi trường. Các bên gây ô nhiễm (được

Theo khoản 4 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2014, phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu
cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ
sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
5

20



×