Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP NGỪA SẠC LỠ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỮU LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.9 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƠNG LÂM TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LÂM NGHIỆP

LÊ KIỀU TRINH

Báo cáo mơn học: Xói mịn
THỰC TRẠNG NGUN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP NGỪA SẠC LỠ Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỮU LONG


TP.HCM, tháng 4/2022


PHẦN I: MỞ ĐẦU
Nằm ở cuối nguồn sông Mê Kông, Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) được biết đến như một trong những khu vực chịu ảnh hưởng
nặng nề nhất của các dự án thủy điện và chuyển nước đang triển
khai trên thượng nguồn. Tác động của các dự án hồ chứa trên dịng
chính cùng với các hiệu ứng thời tiết cực đoan do biến đổi khí hậu
gây ra đã tạo nên “mối đe dọa kép” thách thức sự tồn tại của ĐBSCL
– vùng sản xuất nông nghiệp trù phú bậc nhất Đông Nam Á.
Thảm họa lâu dài của “mối đe dọa kép”, như cảnh báo từ các
nhà khoa học và chuyên gia, chính là sự tan rã của đồng bằng do
thiết hụt lượng lớn phù sa bồi đắp hàng năm và sự gia tăng mực
nước biển. Diễn biến trước mắt của q trình tan rã chính là tình
trạng sạt lở đang gia tăng về phạm vi và cường độ. Nếu như trước
năm 2015, các vụ sạt lở nghiêm trọng được phản ánh chủ yếu tập
trung ở khu vực bờ biển quanh Bán đảo Cà Mau, Bến Tre và một số
nơi có hoạt động khai thác cát tấp nập như An Giang, Cần Thơ… thì
hiện nay, phạm vi sạt lở đã lấn sâu vào nội địa, trên những con sông
và khu vực hợp lưu sông với tần suất tăng dần. Vụ sạt lở ở sơng Vàm


Nao nhấn chìm hơn 70m bờ sông cùng 16 căn nhà kiên cố ở Huyện
Chợ Mới – An Giang cuối tháng Tư vừa qua là một dấu hiệu báo động
cho quá trình tan rã đang hiện hữu.

PHẦN II: THỰC TRẠNG SẠT LỞ Ở ĐBSCL

Mỗi năm vùng ĐBSCL, đặc biệt là Mũi Cà Mau, lấn ra biển
khoảng trên 100m. Điều này, với nhiều thế hệ người dân vùng Đất
Mũi, đã trở nên quen thuộc bởi sự mở rộng của các bãi bồi đầy tơm
cá ở đây có thể cảm nhận được mỗi ngày. Nhưng kể từ cuối thập
niên 2000, triều cường kèm theo sóng lớn thường xuyên đã tạo ra


thực tế ngược lại: mỗi năm vùng Mũi Cà Mau bị cuốn trơi trung bình
5-8 km bờ biển, nhiều vạt rừng ngập mặt (đước, sú, vẹt…), vốn được
xem là những loài tiên phong mở đất lấn biển, nay bị nước biển
“nuốt trôi” hàng trăm hecta mỗi năm. Thực trạng sạt lở ở Mũi Cà
Mau nói riêng, vùng Bán đảo Cà Mau nói chung, nghiêm trọng đến
mức được các chuyên gia cảnh báo khu vực này sẽ mất 56% diện
tích đất trong 80-90 năm nữa nếu không được cải thiện.
Hiện nay, các điểm sạt lở nguy hiểm nhất ở Bán đảo Cà Mau
thuộc các xã biển Khánh Tiến (huyện U Minh), Khánh Bình Tây
(huyện Trần Văn Thời), Tân Hải (huyện Phú Tân), Đất Mũi (huyện
Ngọc Hiển), Tân Thuận (huyện Đầm Dơi) thuộc tỉnh Cà Mau với tổng
chiều dài hơn 14km. Ở Bạc Liêu, do bờ biển có hướng gần vng góc
với gió mùa Đơng Nam (“gió chướng” – loại gió mùa thổi ngược chiều
với dịng chảy sơng Tiền và sơng Hậu) nên bị tác động mạnh của
sóng và dịng triều ven bờ, tạo ra ít nhất 30 điểm xâm thực, sạt lở,
trượt đất quy mô lớn và thường xuyên như Nhà Mát, Vĩnh Hậu A,
Điền Hải, Long Điền Tây và Gành Hào với tổng chiều dài trên 18km.

Suốt dải bờ biển dài gần 200km qua Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến
Tre đến Tiền Giang, dù gần các cửa sông Hậu, sông Tiền, có ưu thế
tích tụ phù sa hình thành nhiều cù lao và giồng cát ven biển nay
cũng bị bào mòn, sạt lở dữ dội. Trong đó, nghiêm trọng nhất ở đoạn
bờ biển qua các tỉnh Biến Tre, Trà Vinh và huyện Gị Cơng Đơng (tỉnh
Tiền Giang) – nơi có hàng chục km đê biển bị cuốn trơi và trung bình
mỗi năm sóng biển tiếp tục xâm lấn vào đất liền khoảng 160-200m
trên tổng chiều dài các điểm sạt lở hơn 18km.
Trong khi hàng chục km đê biển và các vạt rừng phịng hộ
đang thúc thủ và thối lui trước sự xâm lấn dữ dội của hiệu ứng nước
biển dâng, ĐBSCL lại đối đối mặt với tình trạng sạt lở nghiêm trọng
trong nội địa khi hàng trăm điểm sạt lở được nhận diện với tổng
chiều dài hàng chục km. Cụ thể, theo kết quả khảo sát tỉnh Đồng


Tháp có 34 điểm sạt lở bờ sơng nằm rải rác khắp 9/12 huyện thị
trong tỉnh với tổng chiều dài trên 5,5 km. Trong đó, một số đoạn
sơng thuộc các xã Long Thuận, Long Khánh A (huyện Hồng Ngự),
Tân Bình, An Phong, Bình Thành (huyện Thanh Bình), Tân Thuận
Đơng, Tịnh Thới (TP Cao Lãnh), Mỹ An Hưng B (huyện Lấp Vị), An
Hiệp (huyện Châu Thành) và Tân Khánh Đơng (TP Sa Đéc), đã bị sạt
lở ăn sâu vào bờ hàng chục mét, có nơi đã lên đến gần 40m.
Một tỉnh đầu nguồn khác ở ĐBSCL là An Giang cũng đang trong
tình cảnh tương tự: hơn 40 điểm sạt lở nghiêm trọng đã được xác
định ở khắp các huyện tiếp giáp sơng Tiền, sơng Hậu, trong đó có cả
khu vực vừa xảy ra sạt lở trên sông Vàm Nao cách nay chưa lâu.
Thành phố Cần Thơ là nạn nhân tiếp theo của sạt lở sơng ngịi. Hầu
hết các quận ven sơng Hậu của Cần Thơ đều đối mặt với tình trạng
sạt lở, trong đó khu vực cồn Tân Lộc (Quận Thốt Nốt), sông Cần Thơ
(Quận Ninh Kiều) và Quận Cái Răng là những điểm nóng về sạt lở bờ

sơng. Sóc Trăng và Tiền Giang là những tỉnh cuối nguồn chịu tác
động kép của sạt lở bờ biển và sạt lở trên cách sơng rạch. Ở Sóc
Trăng, khu vực Cù Lao Dung, Long Phú, Kế Sách… là những nơi bị
sạt lở thường xuyên nhất. Trong khi đó, cơ quan chức năng đã xác
định 15 điểm sạt lở nguy hiểm trên sông Tiền đoạn chảy qua địa
phận tỉnh Tiền Giang và nhiều sông lạch trong địa bàn tỉnh. Tổng
chiều dài của các điểm sạt lở này gần 3km, chủ yếu nằm ở khu vực
tập trung dân cư đông đúc.
Hệ quả mất đất từ sạt lở không chỉ là những ngôi nhà hay
những đoạn sơng bị “nuốt chửng” vào dịng nước xốy, một số cồn
đất màu mỡ trên sông Hậu cũng đã trở thành ký ức trước cơn xâm
thực. Điển hình nhất là cồn Cả Đôi được phù sa sông Hậu bồi đắp mà
thành với chiều dài trên 4km và rộng trên 20ha. Nhưng từ những
năm 1990, diện tích cồn mau chóng thu hẹp cịn 6ha và đến giữa
thập niên 2000, cồn Cả Đơi hoàn toàn biến mất.


Như vậy, có thể thấy rằng tình hình sạt lở ở ĐBSCL đang rất
phức tạp; sạt lở xảy ra ở hầu khắp các tỉnh nội địa lẫn ven biển.
Nhiều vụ sạt lở xảy ra một cách từ từ, nhưng số vụ sạt lở có tính bất
ngờ gây, thiệt hại lớn lại xuất hiện với tầng suất tăng dần. Điều đó
cho thấy xu hướng sạt lở sẽ còn tiếp tục mở rộng và diễn biến phức
tạp, nhất là trong bối cảnh diễn biến thời tiết và thay đổi chế độ thủy
văn ngày một cực đoan trong thời gian tới.

Sạt lở ở ĐBSCL đang ở mức báo động

PHẦN III: NGUYÊN NHÂN CẢNH BÁO
Để có thể đánh giá xu hướng sạt lở và các nguy cơ sạt lở trong
tương lai ở ĐBSCL, cần phải nhận diện được những nguyên nhân cốt

lõi gây ra sợt lở dưới lăng kính tiếp cận đa ngành. Bởi lẽ, sạt lở bờ
biển và ven sông là hệ quả của nhiều tác động khác nhau, từ yếu tố
địa chất-địa mạo, thủy văn, khí hậu cho đến các yếu tố tác động từ
con người. Trên quan điểm này, một số nguyên nhân chủ đạo được
nhận diện như sau:
3.1. Yếu tố địa chất – địa mạo
ĐBSCL là một trong những đồng bằng phù sa non trẻ nhất trên
thế giới. Dựa theo lịch sử hình thành các mảng lục địa thế giới, có
thể thấy vùng đồng bằng này khơng được hình thành trên nền địa


chất đá mẹ như vùng Đông Nam Bộ hay các đồng bằng khác. Phần
lớn diện tích của vùng được bồi tích từ giai đoạn Pleitocen sớm (cách
nay khoảng 1,2 đến 2 triệu năm) trong khi nhiều khu vực ven sông
Tiền, sông Hậu và các vùng đất ngập nước ở Đồng Tháp Mười, Tứ
Giác Long Xuyên… có tuổi đời từ 4.000 – 6.000 năm dựa theo các
phân tích C14. Vì vậy, sự ổn định của nền địa chất rất hạn chế. Tầng
đất mặt ở khu vực Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và vùng
trũng treo U Minh chủ yếu là đất phù sa dạng mùn, được hình thành
từ lớp thực bì rất dày bị phân hủy. Ở các khu vực ven sông là dải
phù sa ngọt tơi xốp trong khi càng ra phía biển là vùng đất giồng,
cấu tạo chủ yếu là đất cát pha với độ kết dính giảm dần. Chính vì
đặc tính như trên nên nhìn chung, khả năng tan rã tự nhiên của tầng
đất mặt ở ĐBSCL rất cao, độ cố kết và đàn hồi chịu đựng trước tác
động của dòng chảy là rất hạn chế.
Thêm vào đó, đặc điểm địa hình trũng thấp với độ cao trung
bình từ 1-1,2m cũng tạo ra lợi thế cho xâm thực, nhất là khi triều
cường (ở vùng ven biển), mưa lớn và vào mùa nước lên. Điều đáng
lưu ý nữa là hướng nghiêng địa hình theo hướng chảy của sơng Tiền
và sông Hậu (tây bắc – đông nam) nhưng dọc hai con sông lớn này

là mạng lưới kênh rạch kết nối chằng chịt với hướng chảy gần như
vng góc. Khi đó, sức nước ở những nơi hợp lưu sơng sẽ tạo ra
những xoáy ngầm rất mạnh. Khi các xoáy ngầm này di chuyển,
chúng sẽ tạo ra các “hàm ếch” ở ngã ba, ngã tư sông và ăn sâu vào
hai bên bờ cho đến khi bờ sông bị sụp đổ. Sông Vàm Nao, nơi xảy ra
vụ sạt lở kinh hoàng vừa rồi, là một ví dụ điển hình cho yếu tố này.
Vì đoạn sơng này nối liền giữa sơng Tiền và sông Hậu, nên sự va
chạm giữa hai con nước đã tạo nên rất nhiều xốy nước dọc con
sơng kèm theo sóng to và dễ gây đắm thuyền. Chính vì vậy, người
dân địa phương đã gọi nơi đây là Vàm Nao (“Vàm” nghĩa là mũi đất
nơi hợp lưu hai con sông, “nao” ngụ ý chỉ nước chảy xiết, cuồn cuộn,


khiến dân thương hồ nao núng khi qua lại). Nơi đây vẫn còn lưu lại
nhiều câu hò mà dân gian truyền miệng:
Như vậy, đặc điểm địa chất và địa hình của vùng ĐBSCL bản
thân nó cũng tạo ra những hạn chế khiến cho các con nước có thể
dễ dàng xâm thực và gây sạt lở.
Biến đổi khí hậu, mà cụ thể nhất là mực nước biển dâng và gia
tăng biên độ nhiệt theo ngày đêm, cùng với các đập thủy điện ở
thượng nguồn sông Mê Kông đang tạo ra “tác động kép” lên môi
trường tự nhiên ở ĐBSCL, khiến cho các hệ quả tác động của chúng
diễn ra mau chóng và phức tạp hơn bất kỳ dự báo nào từ các kịch
bản biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Sự ấm lên toàn cầu làm mực nước
biển dâng trong khi nhiệt độ gia tăng lại khiến cho các dòng hải lưu
bị biến đổi về phạm vi và cường độ di chuyển. Sự gia tăng lưu lượng
nước biển do băng tan đã làm gia tăng lưu lượng và năng lược dòng
triều tác động vào bờ biển khi di chuyển. Trong bối cảnh này, sự tiếp
xúc của các dòng hải lưu ven bờ tất yếu tạo ra những áp lực lớn vào
thành bờ đưa đến sự bào mịn với quy mơ lớn. Vì vậy, đặc điểm địa

chất non trẻ và đường bờ biển lồi lõm theo hướng đi của dòng biển,
vùng cửa sông và ven biển từ Tiền Giang đến Mũi Cà Mau trở nên lý
tưởng nhất cho sự xâm thực của sóng biển.


Thêm vào đó, sự xuất hiện các con đập trên thượng nguồn đã
ngăn lại một lượng rất lớn phù sa và lưu lượng nước đổ về ĐBSCL
hàng năm. Điều này khơng chỉ gây thiếu hụt nguồn trầm tích để bồi
đắp mở rộng bờ biển, mà còn khiến lượng nước đổ ra từ sông Tiền,
sông Hậu bị thiếu hụt, không đủ để đẩy dòng hải lưu ven bờ ra xa
nhằm giảm sự xâm nhập mặn và hạn chế sức nước tác động lên bờ
biển. Trước sự xâm lấn gia tăng từ mực biển dâng trong khi nguồn
phù sa để bồi hoàn ngày càng cạn kiệt, sự thoái lui của bờ biển ở
ĐBSCL là khó tránh khỏi.

3.2. Khai thác cát
Khai thác cát chỉ tạo ra lợi ích cho doanh nghiệp (và cả những
cơ sở khai thác trái phép), nhưng hệ lụy môi trường và kinh tế là vơ
cùng lớn và rất khó để phục hồi. Với đặc điểm địa chất non trẻ như ở
ĐBSCL, việc khai thác cát sẽ tạo ra các hố sâu khổng lồ dưới đáy
sông, làm thay đổi gần như vĩnh viễn lịng sơng và đặc tính dịng
chảy tự nhiên. Theo các nhà khoa học, phải mất hàng trăm năm để
các mỏ cát dưới đáy sông Tiền, sông Hậu hình thành và cố định như
ngày nay. Trong bối cảnh phù sa khơng cịn dồi dào như trước do các
con đập trên thượng nguồn, việc mong đợi các mỏ cát tự lấp đầy và
hoàn nguyên sau khi khai thác là điều không tưởng.


Vì vậy, khi lịng sơng tồn tại nhiều hố sâu, nó sẽ làm đổi hướng
dịng chảy dưới đáy sơng và tạo ra những va chạm đủ lớn để tạo ra

các xoáy nước và sinh ra năng lượng tác động lên hai bên thành bờ
gấp nhiều lần so với mức bình thường. Trường hợp sạt lở thường
xuyên với quy mô lớn ở khu vực cù lao Tân Lộc (Quận Thốt Nốt) hay
các khu vực giáp sông Cần Thơ, sông Hậu thuộc Quận Ninh Kiều,
Quận Cái Răng (TP Cần Thơ) những năm gần đây là một minh chứng
cho thấy sự những hố sâu mà hoạt động khai thác cát tạo ra nguy
hiểm như thế nào.

3.3. Sụt lún nền đất


Đây là một nguyên nhân ít được đề cập khi lý giải tình trạng
sạt lở ở ĐBSCL. Theo các kết quả quan trắc từ các tổ chức trong và
ngoài nước, trong đó có kết quả đã cơng bố của dự án “Rise and
Fall” (Đại học Cần Thơ kết hợp cùng Đại học Utrecht – Hà Lan) và
Viện Địa kỹ thuật hoàng gia Na Uy (NGI), tốc độ sụt lún nền đất
trung bình của ĐBSCL ở mức 1-2 cm/năm ở vùng nông thôn và
2,5cm/năm đối với khu vực thành thị và khu công nghiệp.

Nguyên nhân cốt lõi của sụt lún nền đất là do phát triển kinh tế
và bùng nổ dân số đã kéo theo gia tăng khai thác nguồn nước ngầm
tràn lan và mở rộng ồ ạt mạng lưới hạ tầng, tạo ra sức ép rất lớn lên
nền đất. Khi nền đất bị sụt lún, lớp đất mặt vốn có độ cố kết thấp sẽ
bị ép xuống, tiếp xúc với dịng chảy sơng ngịi và dịng biển. Kết quả
là q trình xói lở, trợt đất trở nên dễ dàng hơn và có xu hướng xảy
ra theo hiệu ứng “domino” – nghĩa là một khu vực bị sạt lở, nước sẽ
mau chóng tràn ngấm vào vùng lân cận và tiếp tục tạo ra các hố sạt
lở tiếp theo.
Việc xuất hiện liên tiếp các điểm sạt lở báo động khác cách
khu vực sạt lở ở sông Vàm Nao không xa cho thấy sạt lở và sụt lún

nền đất có mối liên hệ ở mức độ nhất định.


3.4. Yếu tố kinh tế – xã hội
Theo tập quán và yếu tố địa lý, các điểm dân cư thường tập
trung đông đúc ở những khúc sông thuận lợi cho sinh sống và giao
thương như ngã ba, ngã tư sông hay những doi, vịnh, cửa sông.
Không may, những nơi định cư chiến lược về kinh tế như vậy lại là
những nơi có nguy cơ cao về sạt lở (xem yếu tố địa hình đã phân
tích ở trên). Thêm vào đó, bùng nổ dân số và sự mở rộng mạng lưới
hạ tầng xây dựng (đường xá, nhà xưởng, khu công nghiệp…) ở
những nơi này đã làm gia tăng tốc độ sụt lún nền đất như vừa đề
cập bên trên, trong khi các nền móng xây dựng thường tự tạo ra sự
cơ lập với tầng đất xung quanh. Khi có sự kết hợp tác động từ các
yếu tố khác, như khai thác cát chẳng hạn, các hồ nước xốy “đói”
phù sa sẽ có xu hướng dịch chuyển đến các điểm đơ thị này và mau
chóng hình thành các “hàm ếch” với độ sâu (âm) hàng chục mét
dưới đáy sơng.
Chính vì vậy, việc quy hoạch các điểm dân cư ven sông đã đến
lúc cần tính tốn đến các yếu tố tải trọng và khả năng chịu lực của
nền địa chất tại chỗ để tránh việc người dân và doanh nghiệp tổ
chức xây dựng dựa trên khả năng tài chính của mình hơn là chú ý
đến khả năng sụt lún của nền đất.


Ngồi ra, gia tăng hoạt động cơng nghiệp hóa cũng đồng nghĩa
với sự thu hẹp các dải rừng tự nhiên ven sông. Một số địa phương,
như Cà Mau, đã chọn phá đi các vạt rừng dừa nước, đước, mắm ven
sông Ông Đốc – nơi có nguy cơ sạt lở cao – để phát triển các khu đô
thị và sản xuất công nghiệp. Về lâu dài, sự thay thế các vạt rừng này

bằng các bờ kè bê-tông không chỉ kết thúc tiến trình tích tụ bồi lắng
tự nhiên hai bên bờ sơng, mà cịn làm gia tăng sức nước và sóng tác
động vào bờ đê do sức gió đã khơng cịn bị cây rừng cản trở.

PHẦN IV: NGUY CƠ ỨNG PHÓ

Với hàng chục km bờ biển và hàng trăm hecta đất bị sạt lở,
cuốn trôi ra biển mỗi năm, diện mạo ĐBSCL đang bị biến đổi nhanh
chóng hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh các nước ở phía thượng
nguồn và trung lưu sông Mê Kông đang ra sức chia sẻ nguồn nước
qua các dự án thủy điện và xây dựng kênh dẫn nước, lượng phù sa ít
ỏi cịn lại khi đến ĐBSCL chắc chắn sẽ khơng đủ để duy trì sự tồn tại
của đường bờ biển hiện tại. Khi đó, viễn cảnh về thu hẹp diện tích
đồng bằng hay mất đi một phần Bán đảo Cà Mau có thể sẽ đến sớm
hơn nhiều so với dự báo. Nhưng nguy cơ trước mắt chính là những
nguy cơ về an ninh trật tự, sinh kế và an ninh lương thực do vấn nạn
sạt lở bờ sơng gây ra.
Những ngun nhân phân tích trên đây một mặt cho thấy thực
trạng sạt lở đang gây ra bởi sự cộng hưởng của nhiều nguyên nhân,
do đó sạt lở sẽ trở nên có quy mơ lớn gấp nhiều lần so với thơng
thường và khó khăn hơn trong dự báo. Vì vậy, bên cạnh việc lập bản
đồ sạt lở để xác định và cảnh báo khu vực tiềm năng, việc tổng hợp
các yếu tố nguy cơ từ những nguyên nhân gây sạt lở bên trên có thể


là một cơ sở khả thi cho phép nhận diện sớm những khu vực dễ tổn
thương và có nguy cơ sạt lở cao.
Chẳng hạn, với những khu vực hợp lưu sơng, nhất là những nơi
mà hai chế độ dịng chảy khác biệt về cường độ và lưu lượng nước,
là những nơi thường tồn tại các xoáy nước ngầm và các hàm ếch

dưới đáy sông, cần tránh quy hoạch đông dân cư và xây dựng với
trọng tải lớn. Việc quy hoạch các điểm dân cư ven sơng đã đến lúc
cần tính toán đến các yếu tố tải trọng và khả năng chịu lực của nền
địa chất tại chỗ. Ngoài ra, khu vực xung quanh các điểm hoạt động
công nghiệp ven sông, nơi các nhà máy có khai thác nước ngầm để
sản xuất, cũng là điểm có nguy cơ cao về sạt lở.
Mặt khác, những nguyên nhân trên cũng cho thấy yếu tố con
người đang trở nên then chốt trong bức tranh sạt lở ở ĐBSCL hiện
nay. Trong khi dư luận trong nước và quốc tế đang phản đối các dự
án xây đập và chuyển dịng trên thượng nguồn sơng Mê Kơng, đã
đến lúc các ngành chức năng ở Việt Nam cần nhìn nhận những
ngun nhân bên trong – do chính chúng ta gây ra. Rõ ràng, tình
trạng thiếu hụt quy hoạch bền vững trong khai thác tài nguyên, cụ
thể là cát sông và nước ngầm, cùng với sự hạn chế trong quản lý của
các ngành chức năng địa phương suốt thời gian dài đã tạo ra những
tác động địa chất cực đoan (sụt lún nền đất, hình thành các hố sâu
dưới đáy sơng, thay đổi chế độ dịng chảy…) gần như khơng thể khơi
phục, khiến tình hình sạt lở diễn biến phức tạp và ngày một nghiêm
trọng hơn.

PHẦN V: GIẢI PHÁP


- Thúc đẩy các nỗ lực bảo vệ nguồn nước và lượng phù sa cịn
lại trên sơng Mê Kơng, chính sách tự lực cần thiết cho ĐBSCL lúc này
là quy hoạch đơ thị hóa và cơng nghiệp hóa bền vững,
- Gia tăng diện tích rừng che phủ để gia tăng lượng nước ngầm
và hạn chế tối đa các hoạt động thăm dị, khai thác cát nhất là trên
các sơng Tiền và sông Hậu.
- Ở các khu vực cửa sông và ven biển nơi chưa hoặc ít bị sạt lở

cần đẩy mạnh các hoạt động trồng các loại cây có khả năng chắn
sóng và lấn biển tốt như đước, mắn, dừa nước…
- Ở vùng sạt lở, các phương án xây đê chắn sóng cần kết hợp
lồng ghép với phương pháp xây bờ kè để giữ chân phù sa thay vì chỉ
tập trung dựng lên bức tường bê-tơng chắn sóng thuần túy như hiện
nay.



×