Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

thực trạng, nguyên nhân và cách thức giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước ngoài.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.68 KB, 11 trang )

BÀI LÀM
I. Giới thiệu chung
Trong những năm vừa qua, thực hiện đường lối đổi mới, tích cực hội nhập kinh
tế, mở rộng giao lưu trên phạm vi quốc tế, Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu
to lớn và quan trọng trong mọi mặt của đời sống xã hội. Rất nhiều công dân Việt Nam
đã có điều kiện ra nước ngoài giao lưu, học tập, trao đổi kinh nghiệm. Giao lưu kinh tế
giữa các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài không ngừng phát triển.
Qua đó, các mối quan hệ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ dân sự, hôn nhân -
gia đình đến kinh tế, thương mại, lao động ngày càng đa dạng và phát triển, góp phần
tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Nhiều người Việt Nam đã kết hôn
với người nước ngoài tạo thành những gia đình đa quốc tịch, đa văn hóa, trở thành cầu
nối giữa văn hóa Việt Nam và các nước trên thế giới. Nhiều người nước ngoài thuộc
đủ các quốc tịch khác nhau trên thế giới cũng đến Việt Nam và kết hôn với công dân
Việt Nam, hay xin con nuôi, một việc làm góp phần mang lại mái ấm gia đình cho
nhiều trẻ em bị mồ côi, bỏ rơi, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do hậu quả chiến tranh
để lại. Pháp luật Việt Nam, với nguyên tắc nhân đạo, thể hiện ở chỗ tất cả hệ thống
pháp luật phải thấm nhuần sự quan tâm đối với con người, đã sớm đặt ra những quy
định về hôn nhân và gia đình nhằm tạo ra một cơ sở pháp lý để cho việc kết hôn với
người nước ngoài. Cụ thể trong luật hôn nhân và gia đình năm 1959 có quy định “Con
trai và con gái đến tuổi, được hoàn toàn tự nguyện quyết định việc kết hôn của mình;
không bên nào được ép buộc bên nào, không một ai được cưỡng ép hoặc cản trở”
(Điều 4), (mặc dù không có quy định kết hôn với người nước ngoài nhưng cũng không
cấm việc này); hay luật hôn nhân và gia đình năm 1986, đã cụ thể hoá vấn đề kết hôn
với người nước ngoài từ Điều 52 đến Điều 54 thuộc chương 9 của bộ luật này. Cho
đến nay, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có những quy định rất cụ thể và chi
tiết về vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài. Cụ thể là ở các điều 7 (Áp dụng pháp luật
về hôn nhân và gia đình đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài),
Khoản 14 Điều 8 (giải thích từ ngữ), các điều từ Điều 100 đến Điều 106 thuộc chương
11 của luật này. Như vậy có thể thấy pháp luật đã có những quy định rất cụ thể về vấn
đề này, để có thể tạo một cơ sở cho việc kết hôn với người nước ngoài một cách dễ
dàng và thuận tiện nhất. Tuy nhiên thời gian gần đây, có một thực tế đáng buồn và


đáng báo động, đó là hiện tượng lợi dụng việc kết hôn với người nước ngoài để hướng
đến các quan hệ lợi ích. Cụ thể đó là việc một bộ phận không nhỏ phụ nữ Việt Nam có
xu hướng lấy chồng nước ngoài, tất nhiên nếu những cuộc hôn nhân này là kết quả
của tình yêu nam nữ thì không có gì để nói, nhưng có những người phụ nữ hướng đến
Bài tập lớn học kỳ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1
mục tiêu kinh tế, với suy nghĩ rất nông cạn là “ở nước ngoài, dù gì cũng đỡ khổ, cũng
tốt hơn ở quê”. Đậy là suy nghĩ rất phổ biến của các cô gái vùng thôn quê, có trình độ
văn hoá thấp, hoàn cảnh gia đình khó khăn, muốn lấy chồng nước ngoài mong cải
thiện cuộc sống. Tất nhiên, những cuộc hôn nhân này, những cuộc hôn nhân vì tiền
chứ không có tình yêu, không xuất phát từ tình yêu chân chính thì sớm muộn gì cũng
sẽ đổ vỡ. Điều đó góp phần dẫn đến một thực trạng là các vụ ly hôn giữa người Việt
Nam với người nước ngoài có xu hướng gia tăng. Vì vậy, một vấn đề cấp thiết được
đặt ra là, cần phải nghiên cứu để tìm ra, ngoài nguyên nhân như đã nói, thì còn những
nguyên nhân nào nữa dẫn đến tình trạng nêu trên. Từ đó sẽ tìm ra được cách giải
quyết một cách hợp tình, hợp lý, bảo đảm được quyền và lợi ích của các bên. Đó cũng
chính là cái mà Luật hôn nhân và gia đình nói riêng, pháp luật Việt Nam nói chung
hướng đến.
II. Một số nét về thực trạng, nguyên nhân và cách thức giải quyết việc ly hôn có
yếu tố nước ngoài.
1. Tìm hiểu chung.
a. Hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Là các quan hệ hôn nhân và gia đình sau:
► Có ít nhất một bên chủ thể là người nước ngoài. Ở Việt Nam, người nước
ngoài được hiểu là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch
một nước nào đó (có thể mang nhiều quốc tịch, nhưng không phải quốc tịch Việt
Nam) và người không có quốc tịch. Tóm lại, hiểu một cách đơn giản, quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài có thể xảy ra trong các trường hợp sau: Giữa
người Việt Nam với người nước ngoài; giữa người Việt Nam với người không có
quốc tịch; giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam; giữa người không
có quốc tịch với nhau thường trú tại Việt Nam.

►Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan
hệ đó theo pháp luật nước ngoài (Điểm c Khoản 14 Điều 8: “Giữa công dân Việt Nam
với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước
ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”). Theo đó, trong một số
trường hợp nhất định, pháp luật Việt Nam thừa nhận việc phát sinh, thay đổi, chấm
dứt các quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các công dân Việt Nam với nhau theo pháp
luật nước ngoài trong một chừng mực nhất định. Pháp luật nước ngoài sẽ chỉ được
xem xét áp dụng đối với các quan hệ giữa công dân Việt Nam với nhau trong khoảng
thời gian họ cứ trú trên lãnh thổ nước đó, đồng thời pháp luật nước đó cũng không
được trái với những nguyên tắc cớ bản của pháp luật Việt Nam.
b. Ly hôn có yếu tố nước ngoài.
Bài tập lớn học kỳ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
2
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam có quy định về ly hôn có yếu tố nước ngoài
như sau:
Điều 104. Ly hôn có yếu tố nước ngoài
1. Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước
ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của Luật này.
2. Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam vào
thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi
thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì theo pháp
luật Việt Nam.
3. Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp
luật của nước nơi có bất động sản đó.
4. Bản án, quyết định ly hôn của Toà án hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của
nước ngoài được công nhận tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Thực trạng vấn đề kết hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài.
Trong sự phát triển của tiến bộ xã hội, tự do kết hôn đã trở thành một giá trị cơ
bản của quyền con người. Chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam, trải qua 3 lần lập
pháp, đều nhất quán khẳng định mục tiêu xây dựng chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến

bộ nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững làm nền tảng cho sự phát triển của
tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu
hướng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, đời sống hôn nhân và gia đình Việt Nam
đang đứng trước sự phát sinh những hiện tượng hôn nhân không bình thường của việc
lợi dụng quyền tự do kết hôn nhằm hướng đến các quan hệ lợi ích. Trong đó, hiện
tượng kết hôn với người nước ngoài vì mục đích kinh tế với những động thái rõ nét
biểu hiện trong khoảng một thập kỷ qua có thể coi là ví dụ điển hình về sự tác động
tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường đối với quan hệ hôn nhân. Đây thực sự là một
vấn đề xã hội phức tạp trong sự quan tâm của dư luận xã hội cũng như các cơ quan
quản lý nhà nước, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề cần xem xét, giải quyết đối với
những nhà làm luật.
Những con số thống kê cho thấy, trong những năm gần đây nước ta rộ lên xu
hướng kết hôn với người nước ngoài. Thời gian đầu, số phụ nữ lấy chồng Đài Loan rất
cao nhưng những năm sau, số phụ nữ lấy chồng Hàn Quốc tăng vọt. Cụ thể, Theo
thống kê từ năm 1993 đến năm 2004, thành phố Hồ Chí Minh đã đăng ký 46.914
Bài tập lớn học kỳ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
3
trường hợp kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và người Việt Nam
định cư ở nước ngoài thuộc trên 55 quốc gia khác nhau. Trong đó:
- Kết hôn giữa công dân Việt Nam trong nước với người nước ngoài chiếm 40,
82%.
- Kết hôn giữa công dân Việt Nam trong nước với người Việt Nam định cư ở
nước ngoài là 58,79%.
- Kết hôn giữa công dân Việt Nam với người không quốc tịch đang sinh sống,
thường trú tại thành phố và công dân của nước có chung biên giới với Việt Nam là 46
trường hợp (0.39%).
Thế nhưng có một điểm đặc biệt, đó là từ năm 1993 đến 2004 chỉ có 03 trường
hợp đăng ký kết hôn giữa người nước ngoài với nhau đang sinh sống, làm việc tại
thành phố, một con số quả thực là vô cùng ít ỏi nếu biết chỉ riêng Thành phố Hồ Chí
Minh đã có tới 46.914 trường hợp kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước

ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong cùng thời điểm.
Từ năm 2005 đến nay, số lượng phụ nữ kết hôn với người Đài Loan đã giảm
mạnh, chỉ bằng 1/4 so với những năm 2003, 2004. Nguyên nhân chính là do Đài Loan
đã có những quy định mới về đăng ký kết hôn với người nước ngoài. Tuy nhiên
ngược lại phụ nữ Việt Nam lấy chồng là người Hàn Quốc có xu hướng tăng lên rõ rệt.
Số lượng phụ nữ kết hôn với người nước ngoài chủ yếu tập trung tại 12 tỉnh thành phố
phía Nam: Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Tây Ninh, Đồng Lai, An Giang, Tiền
Giang, Long An, Bến Tre, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Sóc Trăng. Đến nay tình hình phụ nữ
Việt Nam kết hôn với người Đài Loan, Hàn Quốc… có xu hướng giảm ở Thành phố
Hồ Chí Minh nhưng vẫn tiếp tục tăng tại một số tỉnh Cần Thơ, Tây Ninh, Đồng Tháp,
Bạc Liêu.
Số vụ ly hôn với người nước ngoài theo đó cũng tăng mạnh trong những năm gần
đây. Theo thống kê, trung bình mỗi tháng tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử
khoảng 50 vụ ly hôn, trong đó ly hôn có yếu tố nước ngoài chiếm 85%. Ở Cần Thơ,
trung bình một năm, tòa án tỉnh thụ lý gần 100 vụ án xin ly hôn với người nước ngoài,
trong đó trường hợp lấy chồng Đài Loan chiếm đa số.
Như vậy, có thể thấy, trong những năm gần đây, những cuộc hôn nhân có yếu tố
nước ngoài tại Việt Nam chủ yếu là xoay quanh việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với
Bài tập lớn học kỳ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
4
người nước ngoài. Bên cạnh việc tăng nhanh những vụ kết hôn với người nước ngoài
thì những vụ ly hôn với người nước noài cũng có xu hướng tăng cao. Tuy nhiên, có vẻ
như chúng ta chưa có sự quan tâm đúng mức đến vấn đề này, Bằng chứng là hầu như
không có những số liệu thống kê một cách cụ thể trên phạm vi toàn quốc, mà có chăng
cũng chỉ là dựa vào những số liệu của toà án ở những địa phương nhất định từ việc
giải quyết những vụ ly hôn đó. Có vẻ như chúng ta đang coi vấn đề hôn nhân có yếu
tố nước ngoài chỉ là “chuyện nhỏ” nên không có sự thống kê cụ thể. Ở Việt Nam “Cục
thống kê dường như “không thèm nắm mấy con số lặt vặt” đó. Bộ Tư pháp cũng không
phân tích số liệu phụ nữ Việt Nam lấy chồng các nước. Toà án tối cao không thống kê
tỷ lệ ly hôn với người nước ngoài, phân tích nguyên nhân. Sở Tư pháp cấp giấy kết hôn

với người nước ngoài, nhưng đến xin số liệu phải đợi tách ra từng nước”(Phụ nữ,
28.4.2006). Điều này dẫn đến khó khăn trong việc tìm hiểu thực trạng của tình trạng
ly hôn có yếu tố nước ngoài, từ đó không có được những biện pháp kịp thời để có thể
ngăn chặn vấn đề này.
3. Nguyên nhân của tình trạng trên.
Như đã nói, phần lớn các vụ ly hôn có yếu tố nước ngoài là giữa người Việt Nam
với người nước ngoài, trong đó chủ yếu nữ là người Việt Nam, còn nam là người nước
ngoài. Điều này là do một vài nguyên nhân chủ yếu sau:
Những cuộc hôn nhân này thường xuất phát từ mục đích kinh tế. Nói một cách cụ
thể thì những cô gái Việt Nam, thường là ở độ tuổi còn trẻ, có trình độ văn hoá thấp,
cư trú ở khu vực nông thôn thuộc các tỉnh và phần lớn không có việc làm, hoặc công
việc không ổn định để có thu nhập nuôi sống bản thân. Họ hy vọng việc kết hôn với
người nước ngoài sẽ giúp thay đổi hoàn cảnh sống và tạo điều kiện giúp đỡ gia đình
bớt khó khăn về kinh tế. Không ít chị em quyết định kết hôn với người nước ngoài
trong tình trạng gia đình đang túng quẫn, thiếu nợ. Trong tình trạng ấy, việc kết hôn
với người nước ngoài để có ngay một khoản tiền là biện pháp duy nhất được chọn lựa
để giúp gia đình giải quyết ngay những khó khăn trước mắt. Tuy nhiên, họ không
lường trước được rằng, mặc dù có nền kinh tế phát triển hơn nước ta, nhưng ở Hàn
Quốc, Đài Loan, Trung Quốc - những quốc gia phần lớn chị em hướng tới khi kết hôn
cũng có những người lao động nghèo khổ, cuộc sống khó khăn. Do đó, sau khi kết
hôn, mơ ước “đổi đời” tan vỡ, không ít người đã quay về nước và yêu cầu toà án cho
ly hôn. Hơn thế nữa, một cuộc hôn nhân mang tính vụ lợi chứ không xuất phát từ tình
yêu như thế thì khó long mà bền vững.
Bài tập lớn học kỳ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
5

×