Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Tư tưởng HCM về đạo đức. Sinh viên học tập làm theo tư tưởng HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.93 KB, 44 trang )

ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC. SINH VIÊN HỌC TẬP
VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1.1. Cơ sở lý luận
Đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện ác, lương tâm, danh dự, trách nhiệm, về
lòng tự trọng, về công bằng hạnh phúc và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng
xử giữa người với người, cá nhân và xã hội. Hồ Chí Minh là lãnh tụ bàn nhiều nhất về đạo
đức, nhưng Người thực hành về đạo đức nhiều hơn những điều Người đã nói và viết về đạo
đức. Vì thế muốn nghiên cứu đạo đức Hồ Chí Minh thì khơng thể chỉ dừng lại ở những bài
viết, bài nói mà phải thâm nhập vào toàn bộ cuộc đời hoạt động của Người và những tiếng
nói tâm huyết của các học trị và bạn bè quốc tế về Người.
1.1.1. Truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt
Nam, đã được hình thành trong trường kỳ lịch sử. Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát triển
tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất vì độc lập, tự do của Tổ quốc, nhằm bảo vệ chủ
quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Trong lãnh đạo
nhân dân Việt Nam xây dựng và bảo vệ đất nước, Hồ Chí Minh cũng hết sức chú trọ kế thừa,
phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, đó là yêu nước gắn liền
với yêu dân, có tinh thần đoàn kết, nhân ái, khoan dung; tinh thần cần cù, dũng cảm, sáng
tạo, lạc quan, vì nghĩa, thương người của dân tộc Việt Nam.
Trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào về lịch sử, trân trọng
nền văn hóa, ngơn ngữ, phong tục, tập quán và những giá trị tốt đẹp khác của dân tộc. Đó
chính là cơ sở hình thành tư tưởng, phẩm chất đạo đức của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí
Minh. Từ hệ giá trị đạo đức dân tộc này Hồ Chí Minh tiếp thu, khai thác, và nâng cao những
giá trị đó lên trình độ mới.
1.1.2. Tinh hoa đạo đức nhân loại


Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái niệm, phạm trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ
trước, nhất là đạo đức Nho giáo. Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh được theo học chữ Nho


với các thầy vốn là những nhà Nho yêu nước. Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng tình cảm
của Người. Nếu từ đó lại cho rằng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức
Nho giáo thì hồn toàn sai lầm. Những khái niệm, phạm trù đánh dấu những bậc thang nhận
thức của loài người. Qua các thời đại lịch sử, những khái niệm, phạm trù đã trở thành tài sản
chung của nhân loại, nhưng nội dung đã có nhiều thay đổi. Những khái niệm như trung,
hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính... đã có trong Nho giáo từ mấy trăm năm trước
Công nguyên; dân chủ, tự do, công bằng, bác ái đã xuất hiện từ thời cổ đại Hy Lạp - La Mã.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh những yếu tố tích cực của đạo đức Nho giáo, Người nhắc đến
những mệnh đề “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, tứ hải giai huynh đệ” và đề cao thuyết “đại
đồng” của Nho giáo. Theo Người, Khổng giáo là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức
và phép ứng xử. Khổng tử có ưu điểm là tu dưỡng đạo đức cá nhân. Vì vậy, tuy Khổng tử là
phong kiến, song những điều hay trong đó thì ta nên học lấy. Mặt khác, Người chỉ ra nhiều
tiêu cực như Khổng giáo căn bản là sự bình n trong xã hội, khơng bao giờ thay đổi. Học
thuyết đạo đức Nho giáo nhằm phụng sự quyền lợi cho giai cấp phong kiến, đi ngược lại lẽ
tiến hố của lịch sử và lợi ích của nhân dân. Rõ ràng là giữa Hồ Chí Minh và đạo đức Nho
giáo có nhiều khác biệt. Nhận thức đúng đắn vấn đề này để thấy rằng, Người nhấn mạnh tác
dụng to lớn của đạo đức cách mạng, tiếp thu, trân trọng mặt tích cực, phê phán mặt tiêu cực
của đạo đức Nho giáo.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị đạo đức của tôn giáo. Đó là tư tưởng
từ bi, cứu nạn cứu khổ, thiện chí, bình đẳng, an lạc, hạnh phúc, sống hịa hợp với mơi
trường, tơn trọng sự sống dưới mọi hình thức của Phật Giáo. Tư tưởng bao dung nhân ái, hy
sinh cao cả của Thiên chúa. Tư tưởng tự do bình đẳng bác ái, coi trọng con người trong văn
hóa phương Tây, quan điểm nhân quyền, dân quyền trong tuyên ngôn độc lập Pháp, Mỹ.
1.1.3. Đến với đạo đức Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cuộc cách mạng về
đạo đức
Đến với chủ nghĩa Mác-LêNin, Hồ Chí Minh đã khám phá ra kho tàng đạo đức MacXit,
đó là thứ đạo đức đích thực, cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con


người, xã hội, mang lại tự do, ấm no, bình đẳng, hạnh phúc thật sự cho con người, vì sự tiến

bộ, phát triển xã hội, đưa nhân loại từ chỗ bị tha hóa đến vương quốc tự do, vương quốc đích
thực, chủ nghĩa nhân đạo đích thực. Hồ Chí Minh còn thấy được ở Mác, Ăngghen, LêNin là
những tấm gương đạo đức sáng ngời, họ không chỉ là những lãnh tụ thiên tài về chính trị mà
cịn là những lãnh tụ giản dị, khiêm tốn, coi khinh xa hoa, yêu lao động, đời tư trong sáng.
Điều này đã được thể hiện trong những dòng viết đầy xúc động của Người sau khi Lênin
mất: Lênin là người "đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại và sự
khiêm tốn cao độ", "Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa
hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và
cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái
tim của họ hướng về Người, khơng có gì ngăn nổi". Đây khơng phải chỉ là tình cảm của Hồ
Chí Minh và dân tộc Việt Nam, mà cịn là tình cảm của tất cả các dân tộc thuộc địa đối với
Lênin vĩ đại.
Hồ Chí Minh chỉ rõ đạo đức cũ và đạo đức Mác-Lê Nin đối lập nhau. Đạo đức mới là
đạo đức vĩ đại, nó khơng phải vì danh vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, dân tộc,
nhân loại, nó địi hỏi phải phá tan xiềng xích nơ lệ, xây dựng xã hội mới bình đẳng tốt đẹp
cho mọi người. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng vơ sản, mang bản chất
cách mạng và khoa học, đậm đà bản sắc dân tộc, kết hợp tinh hoa giữa nhân loại, là 1 hệ
thống mở phát triển cùng với thực tiễn Việt Nam, góp phần tạo dựng bộ mặt văn hóa Việt
Nam, là vũ khí tinh thần trong cơng cuộc xây dựng đất nước theo con đường Xã hội chủ
nghĩa.
=> Hồ Chí Minh sử dụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã từng quen thuộc
với dân tộc Việt Nam từ lâu đời đưa vào đó những nội dung mới, đồng thời bổ sung những
khái niệm, những phạm trù đạo đức của thời đại mới. Chính vì vậy mà những giá trị đạo đức
mới đã hòa nhập với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm cho mỗi người Việt
Nam đều cảm thấy gần gũi hơn nữa, những giá trị đạo đức truyền thống lại được nâng lên
tầm cao mới, làm cho Người thực hiện được việc kết hợp truyền thống với hiện đại. Việc
tiếp thu những tinh hoa đạo đức của nhân loại đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên
phong phú, đã được đơng đảo những người nước ngồi chấp nhận, tìm thấy một Việt Nam
trong nhân loại, cũng như nhân loại trong Việt Nam. Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện



đại, giữa dân tộc và nhân loại cũng là một đặc trưng nổi bật của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1.Thực tiễn tình hình trong nước
Giữa thế kỷ XIX (1858), Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập đã bị chủ nghĩa
tư bản Pháp xâm lược, trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Sự xâm nhập của chủ
nghĩa tư bản Pháp đã làm nảy sinh trong xã hội Việt Nam hai giai cấp mới: giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, bị mất độc lập tự do, nhân dân ta
không ngừng nổi lên chống lại chúng.
Kể từ khi triều đình nhà Nguyễn kí Hiệp ước Patơnốt (6-6-1884) chịu sự bảo hộ của đế
quốc Pháp, trừ một số ít người cam tâm làm tay sai cho giặc, còn đại đa số nhân dân vẫn
nung nấu ý chí căm thù và chờ thời cơ vùng lên tự giải phóng. Lớp lớp sĩ phu và đồng bào
yêu nước đã liên tục đứng lên chiến đấu giành lại độc lập. Song, những kinh nghiệm lịch sử
chống ngoại xâm không phát huy được tác dụng trước một kẻ thù mới - chủ nghĩa đế quốc.
Các phong trào kháng chiến đều bị dìm trong máu, lửa. Sau thất bại của phong trào Cần
Vương và các phong trào cứu nước theo hệ tư tưởng tư sản, đất nước lâm vào tình trạng
khủng hoảng đường lối. Cả dân tộc chìm đắm trong đêm dài nơ lệ, tưởng chừng như khơng
có đường ra.
Từ những bối cảnh quốc tế và trong nước nêu trên, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu
nước và từng bước hình thành tư tưởng của mình, đáp ứng địi hỏi bức thiết của dân tộc và
thời đại.
Nói về Hồ Chí Minh, người sinh ra và lớn lên khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược,
nhân dân bị lầm than đói khổ. Ở Người, ý chí và nghị lực được hình thành, phát triển trong
mơi trường sống và điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của đất nước, từ những tố chất cá nhân của
Người và thừa hưởng từ cha mẹ, gia đình, quê hương. Người chứng kiến cảnh nhân dân bị
áp bức, bóc lột, chứng kiến những phịng trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
của các bậc tiền bối. Tuy các phong trào này thất bại, nhưng đã nhen nhóm tinh thần u
nước sục sơi trong lịng Người với mong muốn tìm ra con đường cứu nước, cứu dân thốt
khỏi ách nơ lệ. Trong q trình ra đi tìm đường cứu nước, Người cần cù, chịu khó làm đủ



mọi nghề để nuôi sống bản thân và luôn học hỏi, mở rộng kiến thức. Đây chính là vốn đạo
đức quý báu đã được hình thành trong Người. Khi quay trở về nước, Hồ Chí Minh đã trực
tiếp tham gia lãnh đạo các phong trào đấu tranh giành độc lập cho dân tộc Việt Nam, trải qua
những khó khăn, nguy hiểm nhưng bằng tinh thần đoàn kết, nghị lực, một lịng quyết chiến
thì Người cùng nhân dân đã giành lại được độc lập về cho nước nhà.
Dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, nhân dân ta chịu sự ràng buộc khắt khe của lễ
giáo phong kiến và sự áp đặt “lối sống tư sản”, cơ hội, thực dụng chạy theo đồng tiền, đề cao
chủ nghĩa cá nhân của chủ nghĩa thực dân là nguy cơ đe dọa đến những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và là một trở ngại to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta. Nhận thức rõ được điều đó, Hồ Chí Minh cho rằng đối với cách mạng nước ta,
muốn giải phóng triệt để cho người lao động phải đồng thời giải phóng cho họ cả về tư
tưởng, văn hố, đạo đức lối sống, thói quen lạc hậu. Bên cạnh đó, sau khi Cách mạng Tháng
Tám thành công, Người sớm phát hiện những hiện tượng sai lệch của một bộ phận cán bộ,
đảng viên như quan liêu, hách dịch, cậy chức, cậy quyền tham ô,...Những tệ nạn đó, nếu
khơng sớm được phát hiện, ngăn chặn dễ trở thành nguy cơ làm tổn hại đến thanh danh của
Đảng và toàn bộ sự nghiệp cách mạng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Như vậy, tình hình trong nước từ những trải nghiệm và thực tiễn trong đấu tranh, làm
việc, đã đúc kết hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
1.2.2. Thực tiễn tình hình thế giới
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới phát triển từ giai đoạn tự
do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền. Một số nước đế quốc như Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban
Nha, Ý, Đức, Nga, Nhật Bản, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan,…đã chi phối tồn bộ tình hình thế
giới.Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong phần lớn các nước châu Á,
châu Phi và khu vực Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của các nước đế quốc
lòng chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước tư
bản; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa, phụ
thuộc với chủ nghĩa đế quốc.
Sang đầu thế kỷ XX, những mâu thuẫn này ngày càng phát triển gay gắt. Giành độc lập

cho các dân tộc thuộc địa khơng chỉ là địi hỏi của riêng họ, mà cịn là mong muốn chung


của giai cấp vơ sản quốc tế; tình hình đó đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới phát triển. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa
Mác – Lênin ở một nước lớn rộng một phần sáu thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga đã
đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ phong kiến, lập lên một xã hội mới – xã hội chủ
nghĩa. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài
người – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới,
mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Trong cuộc đấu tranh đó, chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa lần lượt bị vạch mặt,
lên án. Mục tiêu, lý tưởng cách mạng, niềm tin vào đạo đức cộng sản không ngừng được
củng cố, mở rộng trên phạm vi thế giới. Thực tế đó đã được Hồ Chí Minh nhận thức, tiếp thu
một cách đúng đắn. Cùng với đó, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, sự ra đời của Nhà
nước Xô viết, Quốc tế Cộng sản và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô với sự
phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản, cơng nhân và phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới đã trở thành một động lực quan trọng để hình thành nên tư tưởng của Người về
đạo đức cách mạng.
Sự hình thành tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng bên cạnh những điều kiện
khách quan cần thiết, còn do những phẩm chất thuộc nhân cách của Hồ Chí Minh. Với tư
chất chính trực, tư duy độc lập sáng tạo và luôn gần gũi gắn bó sâu sắc với con người, trước
hết là người lao động, xây dựng sự tin tưởng của dân chúng thông qua các hành động và lời
nói của mình. Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức tốt đẹp
của dân tộc, tinh hoa đạo đức của nhân loại, kết hợp chặt chẽ giữa truyền thống với hiện đại,
là những nhân tố có ý nghĩa quan trọng trực tiếp tác động đến việc hình thành nên tư tưởng
của Người về đạo đức cách mạng. Chính vì vậy mà tư tưởng đạo đức của Người khơng chỉ
có sức hấp dẫn, thuyết phục to lớn đối với các thế hệ người Việt Nam, mà còn cả đối với
nhân dân lao động, u chuộng hồ bình và tiến bộ trên thế giới.
1.3. Nhân tố chủ quan
1.3.1. Phẩm chất Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh đã tiếp thu truyền thống tốt đẹp của quê hương, gia đình và dân tộc, hình
thành nên tư tưởng yêu nước và phẩm chất, nhân cách của Người. Sinh ra và gắn bó trên


mảnh đất Nghệ An, vùng quê nổi tiếng với truyền thống cách mạng, yêu nước, chống giặc
ngoại xâm, là nơi sinh ra nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử.
Cùng với đó, hồn cảnh gia đình cũng tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh, Cụ Phó
bảng Nguyễn Sinh Sắc, cha của Người, từ sớm đã dạy chữ, dạy làm người và giáo dục lòng
yêu nước cho con, Cụ còn tạo điều kiện cho con được “tham gia” vào các cuộc tiếp xúc của
mình với các văn thân sĩ khắp Trung Kỳ. Cụ thường tâm sự: “Quan trường là nô lệ trong
những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn”. Cụ thường dạy các con: “Đừng lấy phong cách nhà
quan làm phong cách nhà ta”. Chính vì và mối quan hệ thân thiết phụ tử nên những tinh
thần yêu nước, thương dân và nhân cách của cụ Nguyễn Sinh Sắc đã có ảnh hưởng lớn lao
đến tư tưởng, nhân cách Hồ Chí Minh thuở niên thiếu. Khơng thể khơng kể đến, mẹ của
Người - Bà Hoàng Thị Loan, bằng nhân cách chất phác, bằng sự lao động, bằng cả tấm lòng
yêu chồng thương con, Bà đã hi sinh tất cả và chính Bà đã vun đắp lên cuộc đời và sự nghiệp
đẹp đẽ của họ. Bà đã có tác động tích cực đến các con bằng tính tình giản dị, khiêm tốn, đức
hi sinh, chung thủy, yêu đời và yêu nước. Ngồi ra, Hồ Chí Minh cịn được ảnh hưởng đức
tính thương người, yêu nước, gan dạ từ các thành viên trong gia đình.
Hồ Chí Minh có lý tưởng cao cả và hồi bão lớn cứu dân, cứu nước thốt khỏi cảnh lầm
than, cơ cực để đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Người có ý chí, nghị lực to lớn, một
mình dám đi ra nước ngồi khảo sát thực tế các nước quốc tế giàu có cũng như các dân tộc
thuộc địa nghèo nàn, lạc hậu mà chỉ với hai bàn tay trắng. Người đã làm nhiều nghề nghiệp
khác nhau để kiếm sống, biết rất nhiều ngoại ngữ, tự học và hoạt động cách mạng. Kết hợp
học ở nhà trường, trong Sách vở, học trong thực tế hoạt động cách mạng, học ở nhân dân
khắp những nơi Người đã đến, Và đã có vốn học thức văn hóa sâu rộng Đơng Tây kim cổ để
vận dụng vào hoạt động cách mạng.
Đặc biệt, Hồ Chí Minh cịn là người có bản lĩnh tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, dầu
tính phê phán, đối mới và cách mạng; đã vận dụng đúng quy luật chung của xã hội loài
người, của cách mạng thế giới vào hoàn cảnh riêng, cụ thể của Việt Nam, đề xuất tư tưởng,

đường lối cách mạng mới đáp ứng đúng đòi hỏi thực tiễn; Có năng lực tổ chức biến tư
tưởng, đường lối thành hiện thực.


Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại, đã đưa cách mạng Việt
Nam vào dịng chảy chung của cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh là người có năng lực tổng
kết thực tiễn, năng lực tiên tri, dự báo tương lai chính xác và kỳ diệu để dẫn dắt toàn Đảng,
toàn dân, Toàn dân ta đi tới bến bờ thắng lợi vinh quang.
Hồ Chí Minh là người suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, là người suốt đời
đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của đảng Cộng sản Việt Nam và của cách mạng thế giới.
Những phẩm chất cá nhân đó là một nhân tố quyết định những thành công sáng tạo của Hồ
Chí Minh trong hoạt động lý luận và thực tiễn khơng vì cho sự nghiệp riêng của mình mà vì
cả dân tộc Việt Nam và nhân loại.
1.3.2. Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận
Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong phú, phi thường.
Trước khi trở thành chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã sống, học tập, hoạt động, công tác ở
khoảng 30 nước trên thế giới. Người hiểu sâu sắc chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và
chế độ thực dân khơng chị qua tìm hiểu trên các loại tài liệu, sách báo, Rio mà còn hiểu biết
sâu sắc về chúng qua cuộc sống và hoạt động thực tiễn tại các cường quốc đế quốc. Người
đặc biệt xác định rõ bản chất, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, thực dân; thấu hiểu tình cảm
người dân của nhiều nước thuộc hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc ở châu Á, châu
Phi và khu vực Mỹ La Tinh.
Người thấu hiểu về phong trào giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, về xây
dựng đảng Cộng sản,… không chị qua nghiên cứu lý luận mà còn qua việc tham gia sáng lập
đảng Cộng sản Pháp, qua hoạt động trong đảng Cộng sản Trung Quốc, qua tham gia phong
trào cộng sản quốc tế ở nhiều nước, qua nghiên cứu đời sống xã hội ở Liên Xô -nước xã hội
chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới,v.v.
Hồ Chí Minh là nhà tổ chức vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Người đã hiện thực hóa tư
tưởng, lý luận cách mạng thành hiện thực sinh động; Đồng thời tổng kết thực tiễn cách
mạng, bổ sung, phát triển lý luận, tư tưởng cách mạng. Cùng với việc tìm thấy mục tiêu,

phương hướng cách mạng Việt Nam ở chủ nghĩa Mác-Lênin, người tham gia sáng lập đảng
Cộng sản Pháp; Chuẩn bị về nhiều mặt cho sự ra đời của đảng Cộng sản Việt Nam - tổ chức
lãnh đạo cách mạng Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Người sáng lập ra Mặt trận dân


tộc thống nhất; Sáng lập Quân đội nhân dân Việt Nam; khai sinh nhà nước kiểu mới ở Việt
Nam. Những phẩm chất cá nhân cùng những hoạt động thực tiễn phong phú trên nhiều lĩnh
vực khác nhau ở trong nước và trên Thế giới là nhân tố chủ quan hình thành nên tư tưởng
Hồ Chí Minh.

CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
2.1. Đạo dức là gốc, là nền tảng tinh thần tinh thần của xã hội, của người Cách mạng



Hồ chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, nhà cách mạng thế giới bàn nhiều

về vấn đề đạo đức và giáo dục, thực hành đạo đức:
Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nêu rõ:
Đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển của con người. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng
định đạo đức là gốc, là nền tảng, là sức mạnh, là tiêu chuẩn hàng đầu của người cách mạng.
Người coi đạo đức rất quan trọng như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông, suối.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), Người viết:“Cũng như sống thì có nguồn mới
có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng khơng lãnh đạo
được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc
to tát, mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì cịn
làm nổi được việc gì?”.
Bên cạnh đó, trong tác phẩm Đạo đức Cách mạng (1958), Hồ Chí Minh viết: “Làm cách
mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là

một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng,
mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Đạo đức trở thành nên tố quyết định sự thành công của mọi công việc, phẩm chất của
mỗi con người. Bởi vì, có đạo đức cách mạng trong sáng mới có thể làm được những việc
cao cả,vẻ vang. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là chỗ dựa giúp con người vững
vàng trong mọi thử thách:“Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khan, gian khổ, thất bại,


cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…, khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh
thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”.
Hồ Chí Minh thường nhắc lại tinh thần của V.I. Lenin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu
cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Trong di chúc, Người viết:
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân,
đồn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hang hái xung phong, khơng ngại
khó khan, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào
tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “ chuyên “.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế làm
thước đo. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh ln đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài,
lời nói đi đơi với hành động và hiệu quả trên thực tế. Người nói: “Phải lấy kết quả thiết thực
đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình.
Hãy kiên quyết chống bệnh nói sng, thói phơ trương hình thức, lối làm việc khơng nhằm
mục đích nâng cao sản xuất”.
Đức và tài phải là những phẩm chất thống nhất của con người. Nếu đạo đức là tiêu
chuẩn cho mục đích hành động thì tài là phương tiện thực hiện mục đích đó. Vì vậy, con
người cần có cả đức và tài, nếu thiếu tài thì làm việc gì cũng khó, thiếu đức thì vơ dụng,
thậm chí có hại. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và

năng lực phải thống nhất làm một. Trong đó, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách
mạng. Người đòi hỏi tài năng phải gắn chặt và đặt vững trên nền tảng đạo đức. Hồ Chí Minh
thường khuyên: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức
Cách mạng. Đó là cái gốc, rất quan trọng. Nếu khơng có đạo đức cách mạng thì có tài cũng
vơ dụng”.
Vai trị của đạo đức còn thể hiện là thước đo lòng cao thượng của con người. Thực hành
tốt đạo đức cá nhân khơng chỉ có tác dụng tơn vinh nâng cao giá trị của mình mà cịn tạo ra
sức mạnh nội sinh giúp vượt qua mọi khó khăn thử thách. Hồ Chí Minh viết: “Tuy năng lực


và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ
được đạo đức đều là người cao thượng”.
Hồ Chí Minh hết sức quan tâm giáo dục toàn diện cho các em học sinh, sinh viên cả
“Đức, Trí, Thể, Mỹ”. Trong đó, đức là gốc, là trước hết; tài là cực kỳ quan trọng, khơng có
tài thì khơng xây dựng và phát triển được đất nước. Đức bao gồm cả nếp ăn ở, sinh hoạt
hằng ngày, trước hết là với gia đình, anh em, bạn bè, rộng ra là với quốc gia, dân tộc; học để
làm việc, làm người, làm cán bộ.
2.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức Cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách
mạng. Bắt nguồn từ chức năng điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của con người, đạo đức cách
mạng tạo ra động cơ hành động đúng đắn, tạo ra ý chí quyết tâm hồn thành nhiệm vụ của
con người. Từ đó Bác coi đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Bác viết: “Cũng
như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng
có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng khơng lãnh đạo được nhân dân.”
2.2.1. Trung với nước, hiếu với dân
Đây là chuẩn mực cơ bản nhất, quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm
chất khác.
Trung và hiếu là những khái niệm đạo đức có từ xa xưa trong tư tưởng truyền thống Việt
Nam và phương Đông. Những phẩm chất đạo đức này đã ăn sâu, bám rễ trong con người

Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử. Trước đây, trung là “trung quân ái quốc”, trung
thành với vua, vua là nước, là trời và nước là của vua, trung thành với vua là trung thành với
nước; còn hiếu chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình, là phận con cái phải hiếu kính cha mẹ,
ơng bà.
Vượt qua những hạn chế của chủ nghĩa yêu nước truyền thống, Người đã kế thừa các giá
trị đạo đức của dân tộc và phát triển, xây dựng một nền đạo đức mang tính cách mạng và
khoa học. Hồ Chí Minh đã lật ngược quan niệm đạo đức cũ “như người đầu ngược xuống
đất chân chổng lên trời”, xây dựng đạo đức mới “như người hai chân đứng vững được dưới


đất, đầu ngửng lên trời”. Trong Thư gửi thanh niên năm 1965, Người viết: “trung với nước
hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng”. Luận điểm đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng
chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng
trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Trung với nước là trung thành với lợi ích, sự nghiệp giữ nước và dựng nước; với sự
nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng; với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh cho rằng, người cách mạng phải đặt quyền lợi của Tổ quốc
lên trên hết và trước hết. Người cho rằng, từ người chủ tịch nước cho đến người cấp dưỡng,
quét rác, ai mà làm trịn nhiệm vụ của mình thì đều là người cao thượng, là người làm tròn
chữ “trung”.
Còn “hiếu với dân” theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đó chính là phải tơn trọng, u kính
nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, khẳng định sức mạnh to lớn của nhân dân và phải
coi dân là gốc, nền tảng của sự nghiệp cách mạng. “Dân là con nước, nước là mẹ chung”,
nước là của dân, của toàn dân tộc, mỗi người dân là chủ nhân của đất nước. Nói tóm lại,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đảng và Chính phủ là “đầy tớ nhân dân” chứ
khơng phải “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”. Quan niệm về nước và về dân đã
hoàn toàn đảo lộn so với trước. Rất ít lãnh tụ cách mạng đã nói vậy, điều này càng làm cho
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước. Bác cịn chỉ rõ: “Chính sách của
Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng

và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Đảng và chính
quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống nhân dân”.
Bác dạy rằng cán bộ các cấp đều là “công bộc của dân, nghĩa là gánh vác việc chung cho
dân”. Và “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức
tránh”. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh,
nâng cao dân trí. Phẩm chất trung với nước, hiếu với dân được coi là hạt nhân cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
2.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư


Khổng Tử đã từng nêu lên những khái niệm về cần, kiệm, liêm, chính tuy nhiên ơng cho
rằng cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính do “thiên phú”. Tuy nhiên, khi vận dụng
những khái niệm này của đạo đức cũ Người lại cho rằng cần, kiệm, liêm, chính khơng phải
do thiên phú mà do sự rèn luyện bền bỉ mà nên, cho nên Người đã khẳng định: đạo đức cách
mạng không phải từ trên trời sa xuống mà do sự rèn luyện bền bỉ mà nên.
Cần được hiểu là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai. Cần tức là lao động cần cù,
chịu khó, có kế hoạch, sáng tạo, đạt được năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh
sinh, chủ động, không lười biếng, không ỉ lại, không dựa dẫm. Mỗi người phải nhận định rõ:
“Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”. Bác cho
rằng “lười biếng là kẻ địch của cần”, vì vậy, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc.
Trong quan niệm về “cần” của Hồ Chí Minh, ngồi những nội dung trên đây, có hai
điểm đặc sắc:
Cần cịn là kiên trì, bền bỉ, dẻo dai, khơng lười biếng trong mọi cơng việc. Đó là đức
tính kiên tâm, quyết tâm làm bằng được những việc mà mình coi là đúng. Hồ Chí Minh cả
những lúc hịa bình, cả những lúc khẩn trương của chiến tranh, thường có kế hoạch cơng
việc thật tỉ mỉ và Người cố gắng hoàn thành theo đúng kế hoạch; nếu hơm nay chưa xong thì
hơm sau phải làm bù trở lại. Làm việc gì thì quyết tâm, kiên nhẫn, đời này chưa xong thì đời
tiếp làm cho xong. Đây là sự thi gan của một đức tính dẻo dai.
Cần cịn là tăng năng suất lao động, là làm việc có hiệu quả, có kết quả tốt. Khơng phải
cứ làm hùng hục là siêng năng, tích cực, là Cần. Làm hùng hục cả tuần, cả tháng mà khơng

có kết quả, khơng có hiệu quả, khơng có năng suất lao động cao thì khơng bằng làm chỉ có
một ngày mà có kết quả tốt. Cái năng suất lao động quan trọng lắm đối với thành quả lao
động của từng cá nhân và cả xã hội.
Kiệm là “tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, khơng bừa bãi”. Đây được hiểu là tiết
kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của nhân dân, cả nước, của bản thân
mình, tiết kiệm từ cái to đến nhỏ; khơng phơ trương hình thức, kiên quyết chống lãng phí, xa
hoa.
Thời gian đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh là vơ cùng q báu. Những lần đi công tác xa,
không cần nhiều cán bộ cùng đi, Bác cho những anh em còn lại về thăm gia đình. Bác dặn


“Các chú tranh thủ về thăm nhà, nhưng nhớ đúng hẹn lên đón Bác”. Điều đó thể hiện sự
quan tâm của Bác đối với con người và cũng là một hình thức tiết kiệm thời gian. Bên cạnh
đó, Người cịn tiết kiệm trong ăn, ở, mặc, chi tiêu hằng ngày. Người vẫn thường xuyên có sổ
tiết kiệm từ dành dụm lương, tiền nhuận bút để mua quà tặng mọi người, nhất là quà cho các
cháu thiếu niên, nhi đồng. Áo Bác rách, có khi vá đi vá lại, Bác mới cho thay.
Tuy nhiên, cũng nên suy nghĩ đúng đắn về “kiệm”. Phải phân biệt rõ “Tiết kiệm không
phải là bủn xỉn. Khi khơng nên tiêu xài thì một đồng xu cũng khơng nên tiêu. Khi có việc
đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu cơng, tốn bao nhiêu của,
cũng vui lịng. Như thế mới là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ khơng
phải là kiệm”.
Bên cạnh đó, cần và kiệm phải đi đôi với nhau. Cần mà không kiệm, “thì làm chừng nào
xào chừng ấy” cũng như cái thùng khơng có đáy, nước đổ vào chừng nào chảy ra hết chừng
ấy, khơng lại hồn khơng. Một dân tộc biết cần, biết kiệm là một dân tộc giàu về vật chất,
mạnh về tinh thần, một dân tộc văn minh tiến bộ.
Liêm là “trong sạch, không tham lam”, luôn tôn trọng tài sản của công và của nhân dân,
liêm khiết trong mọi hồn cảnh, khơng tham địa vị, tiền tài. Bác viết: “Những người ở các
công sở từ làng cho đến Chính phủ trung ương đều tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của
Chính phủ hoặc khoét đục của nhân dân. Đến khi lộ ra, bị phạt thì mất hết cả danh giá mà
của phi nghĩa đó cũng khơng được hưởng. Vậy những người trong công sở phải lấy liêm làm

đầu”.
“Chữ liêm phải đi đôi với chữ kiệm. Cũng như chữ kiệm phải đi đơi với chữ cần. Có
kiệm mới có liêm được” bởi tham lam ắt sẽ dẫn đến bất liêm. Để thực hiện mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, trước hết đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý phải là tấm gương về “liêm”, cán bộ không nghiêm sẽ không mang lại niềm tin cho
quần chúng, làm suy yếu nội bộ Đảng và xã hội.
Năm 1946, trả lời nhà báo nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh bộc bạch: “Tơi chỉ có một
sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hồn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng


phần tơi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm
chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, khơng dính líu gì với vịng danh lợi”.
Trong các cuộc đấu tranh thì tự mình đấu tranh với chính mình là điều khó khăn nhất,
tức là con người phải biết chế ngự bản thân mình, thốt khỏi sự ham hố hàng ngày. Những
cái tham thường có của con người được Hồ Chí Minh chỉ ra: tham tiền của, tham ăn ngon
mặc đẹp, nhưng Người còn chỉ ra: tham địa vị, tham danh tiếng, tham quyền lực để cậy thế
làm bậy. Người coi tham ơ, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, thứ giặc ở trong lòng, nó
nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Đây khơng đơn thuần là cách gọi tên mà liên quan đến
phương pháp xử lý. Phải dùng phương pháp chống giặc, giết giặc, tiêu diệt giặc.
Chính là khơng tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, chính trực. Chính được thể hiện rõ
trong ba mối quan hệ. Đối với mình, phải tìm hiểu, học hỏi cầu tiến bộ, không tự cao tự đại,
phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tiếp thu nhận xét của người khác. Đối với người, không nịnh
trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết.
Đối với việc, phải để cơng việc lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì
quyết làm cho bằng được, khơng sợ khó mà lùi; “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác dù
nhỏ mấy cũng tránh”.
Cần, kiệm, liêm là gốc của chính. Như vậy, một cây cần có gốc rễ, hoa, quả mới là cây
hoàn toàn. Một người phải cần, kiệm, liêm nhưng chính mới là người hồn tồn. Cần, kiệm,
liêm, chính cần thiết với tất cả mọi người, và lại càng cần thiết đối với cán bộ, đảng viên.

Bởi vì, nếu cán bộ, đảng viên mắc sai lầm, khuyết điểm thì sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ
chung của cách mạng, đến uy tín của Đảng. Mặt khác, những người trong các cơng sở đều
có nhiều hoặc ít quyền hành.
Cần, kiệm, liêm, chính cịn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần,
sự văn minh tiến bộ của một dân tộc. “Nó” là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ,
để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
Chí cơng vơ tư là hồn tồn vì lợi ích chung, khơng vì tư lợi; là hết sức công bằng, công
tâm, không chút thiên tư, thiên vị, ln đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của dân tộc lên
hàng đầu, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn “chí cơng vơ tư” thì phải chiến thắng


được chủ nghĩa cá nhân vì “chủ nghĩa cá nhân là giặc nội xâm”, “nó kéo người ta xuống dốc
khơng phanh”. Đây chính là sự tiếp nối của cần, kiệm, liêm, chính.
Hồ Chí Minh viết: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có
sức hấp dẫn lớn, khơng nhất định hơm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Hồ Chí Minh cũng phân biệt
lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Chí cơng vơ tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân,
nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
là để vững vàng qua mọi thử thách: Giàu sang khơng quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển
lay, uy vũ không thể khuất phục.
Trong tháng 10/1948, sau khi nghe báo cáo lại kết quả thanh tra, kiểm tra nội vụ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã gửi một bức thư tay cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hoè: "Việc ân
xá, ân sám ở Thái Bình như thế là xong. Ông Giám đốc Nguyễn Văn Huyên tỏ ra tận tâm với
chức vụ, thì Chính phủ nên khen. Nhưng trong việc ở Thái Bình vừa rồi, ơng ấy làm quá
đáng, thì chúng ta phải phê bình để giúp ơng ấy sửa chữa và tiến bộ. Khơng vì cơng mà qn
lỗi, khơng vì lỗi mà qn cơng.''
Hồ Chí Minh cho rằng, có chí cơng vơ tư thì lịng dạ mới trong sáng, đầu óc mới sáng
suốt để chăm làm những việc ích quốc lợi dân. Người giải thích: lịng mình chỉ biết vì Tổ
quốc, vì đồng bào thì sẽ tiến đến chỗ chí cơng vơ tư; có chí cơng vơ tư thì mới có năm đức
tính tốt là nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm - là những phẩm chất đạo đức của người cách mạng.

Cần, kiêm, liêm, chính, chí cơng vơ tư có quan hệ mật thiết với nhau. Chí cơng vơ tư về
thực chất là sự tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm,
liêm, chính, chí cơng vơ tư là để người cách mạng vững vàng qua mọi thử thách: "Giàu sang
không quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay, uy vũ khơng thể khuất phục”.
2.2.3. Thương u con người, sống có tình có nghĩa
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Kế thừa truyền
thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng
sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ
Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.


Tình thương u con người ở Hồ Chí Minh khơng chung chung, trừu tượng kiểu tôn
giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản, dành
cho các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy
truyền thống nhân ái, nhân nghĩa của dân tộc kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại
mà đỉnh cao là chủ nghĩa nhân văn cộng sản chủ nghĩa. Bác Hồ đã xác định phẩm chất u
thương, q trọng con người, sống có tình có nghĩa là một trong những phẩm chất, chuẩn
mực đạo đức cách mạng cao đẹp nhất của người đảng viên.
Lòng yêu thương con người của Bác Hồ trước hết là dành cho đại đa số nhân dân lao
động, người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột trên hành tinh chúng ta. Bác Hồ chỉ có một ham
muốn duy nhất là: “Tơi chỉ có một ham muốn duy nhất, ham muốn tột bậc là làm sao cho
nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”. Đây là yếu tố cốt lõi đầu tiên tạo nên nền tảng tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh. Đó cũng là lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức và là lý tưởng nhân văn
của Người. Đối với Bác Hồ, cả cuộc đời chỉ vì dân, vì nước khơng có gì lớn lao và quý báu
hơn dân với nước.
Tấm lòng yêu thương con người của Bác Hồ còn được thể hiện rõ trong quan hệ đồng
chí, đồng đội, anh em. Đối với bản thân mình Bác địi hỏi phải nghiêm khắc, nhưng đối với
bạn bè, đồng chí phải rộng rãi, địi hỏi tất cả mọi người phải có sự tơn trọng con người, tơn
trọng lẫn nhau. Bác thường nói: “Chiến sĩ cịn đói khổ, tơi ăn ngon sao được!”. Đối với Bác

chỉ có nâng con người lên, chứ khơng cho phép hạ thấp, vùi dập con người xuống, dù cho họ
có khuyết điểm, thiếu sót. Với tấm lịng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng
ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lịng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi
con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách
mạng.” Vì vậy, phải thực hiện tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao điểm tích cực, hạn
chế những tiêu cực để mỗi người, ngày càng tốt hơn, có ích hơn cho Đảng, cho đất nước.
Tình u thương của Người cịn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm.
Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta
cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy
lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời".


2.2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất, hòa quyện giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan
trọng nhất của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất quốc tế của giai cấp
công nhân và của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Bác đã đến nhiều nước trên thế giới, các nước tư
bản cũng như thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực của giai cấp công nhân và
Nhân Dân lao động, đồng thời cũng thấy rõ cảnh sống xa hoa của giai cấp tư sản. Thực tế
sinh động đã giúp Người đồng cảm và nhận thức rõ: “Nơi đâu cũng có người nghèo như ở
xứ mình, dù ở các nước thuộc địa hay chính quốc, họ đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ
nghĩa thực dân tàn ác.” Người đi tới kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có
hai loại người: người áp bức và người bị áp bức. Cũng chỉ có một mối tính hữu ái là thật mà
thơi: tình hữu ái vơ sản.” Kết luận này cho thấy nhận thức của Người về ý thức dân tộc và ý
thức giai cấp đã vươn từ tầm nhìn quốc gia lên tầm nhìn quốc tế.
Tháng 6-1919, khi gửi tới Hội nghị Vécxây “Bản yêu sách của Nhân Dân An Nam”, lần
đầu tiên xuất hiện trên vũ đài quốc tế, Người đã thể hiện tư tưởng sát cánh cùng các dân tộc
bị áp bức đấu tranh cho sự bình đẳng. Người đã sớm xác định cuộc đấu tranh của Việt Nam,
cũng như cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức là một bộ phận của cách mạng

vô sản thế giới.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, từ thành quả
của Cách mạng tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra giữa các quốc gia, giữa các
dân tộc ở các châu lục cần có sự hợp tác giúp đỡ và học hỏi lẫn nhau. Trong những năm
tháng Nhân Dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập và bảo vệ nền độc lập của mình, Chủ tịch
Hồ Chí Minh hết sức quan tâm chăm lo phát triển tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước
ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh để mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam và khẳng
định sự ủng hộ của Nhân Dân Việt Nam đối với cuộc đấu tranh của Nhân Dân các nước vì
độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Đồng thời, Người cịn ln nhắc nhở Nhân Dân Việt Nam
về những nhiệm vụ đối với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của Nhân Dân các nước
này. Hồ Chí Minh tha thiết với độc lập tự do của dân tộc mình, cho nên cũng rất trân trọng


độc lập tự do của các dân tộc khác. Bởi thế, Người hết sức căm giận trước bất cứ một hành
động xâm lược nào và cho rằng: giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự do của họ cũng
chính là bảo vệ lợi ích của đất nước mình, “giúp bạn là tự giúp mình”. Đây chính là một
bước phát triển mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế. Vì lẽ đó, Người ln
động viên nhân dân Việt Nam vừa tiến hành sự nghiệp bảo vệ độc lập tự do của dân tộc
mình, vừa thực hiện sự giúp đỡ vơ tư chí tình, chí nghĩa đối với các dân tộc anh em.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Trong bài
“Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế” (1953), Người đã nhấn mạnh: “Tinh thần yêu
nước và tinh thần Quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến,
vừa tham gia phong trào ủng hộ hồ bình thế giới.” Nếu tinh thần u nước khơng chân
chính và tinh thần quốc tế khơng trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi,
hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền, kỳ thị chủng tộc… Những khuynh hướng sai lệch ấy
có thể dẫn đến chỗ phá vỡ một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá
vỡ tình đồn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng đối
đầu đối địch. Đây là một thực tế đã diễn ra ở châu Âu và nhiều khu vực trên thế giới hiện
nay.
Từ chủ nghĩa quốc tế trong sáng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và xây

dựng nên tình đồn kết quốc tế rộng lớn của nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên thế
giới, góp phần vào những thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Khi
bàn về mối quan hệ Việt – Trung, Bác nói: “Mối tình hữu nghị Việt –Trung/ Vừa là đồng chí
vừa là anh em”, nói về mối quan hệ Việt – Lào Bác đã khẳng định: “Việt, Lào hai nước
chúng ta/ Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”, nói về tình anh em vơ sản thế giới Người
từng nhắc nhở “Quan san muôn dặm một nhà/ Bốn phương vô sản đều là anh em”.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày cơng xây đắp tình đoàn
kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc
tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền văn hóa hịa bình cho nhân loại;
đó là di sản thời đại vô giá của Người về hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển giữa các
dân tộc.
2.3. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những nguyên tắc đạo đức Cách mạng


2.3.1. Nói đi đơi với làm, nêu gương về đạo đức
a, Nói đi đơi với làm
Nói đi đơi với làm là nét đẹp trong đạo đức truyền thống của dân tộc được Hồ Chí Minh
nâng lên một tầm cao mới. Người coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng
nền đạo đức mới. Nguyên tắc cơ bản này là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nó đã trở
thành phương pháp luận trong cuộc sống và là nền tảng triết lý sống hết sức bình dị mà vô
cùng sâu sắc của Người. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, khi đề cập tư cách một người
cách mệnh, Hồ Chí Minh u cầu: “Nói thì phải làm”. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí
Minh đã giáo dục mọi người và chính Người đã thực hiện điều đó một cách nghiêm túc và
đầy đủ nhất.
Nói đi đơi với làm là đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Theo
Người, về bản chất, “nói đi đôi với làm” không chỉ là nguyên tắc đạo đức, lẽ sống, phương
châm hoạt động mà còn là biểu hiện sinh động cụ thể của việc quán triệt sâu sắc nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa suy nghĩ và hành động, giữa tư tưởng đạo đức và
hành vi đạo đức của mỗi người. Nói đi đơi với làm đối lập hồn tồn với thói đạo đức giả,
nói một đằng làm một nẻo, nói nhiều làm ít, thậm chí nói mà khơng làm. Ngay sau thắng lợi

Cách mạng Tháng Tám 1945, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện của thói đạo đức giả ở
một số cán bộ “vác mặt làm quan cách mạng”. Sau này, Người đã nhiều lần bàn đến việc
quét sạch căn bệnh quan liêu, coi thường quần chúng của một số cán bộ, đảng viên “Miệng
thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần
chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương châm,
chính sách của Đảng và Chính phủ”, làm tổn hại đến uy tín của Đảng và Chính phủ trước
nhân dân.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về
phong cách “Nói đi đơi với làm”, Người nói ít làm nhiều, có nhiều vấn đề về đạo đức Người
làm mà khơng nói. Bác kêu gọi tồn dân tiết kiệm, bản thân Bác nghiêm túc thực hiện, từ
việc ăn, mặc đến sinh hoạt, làm việc hằng ngày, Bác đều mẫu mực làm trước. Hình ảnh Bác
- vị Chủ tịch Nước mặc quần áo giản dị, đi dép cao su, làm việc trong ngôi nhà sàn đơn sơ,



×