Câu 1: Anh (chị) hãy trình bày và phân tích những yêu cầu phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay?
Phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách
và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng từng con người lao động (trí
tuệ, thể chất và phẩm chất tâm lý - xã hội) đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Phát triển nguồn nhân lực
gắn liền với sự hoàn thiện, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thể hiện ở việc nâng
cao trình độ giáo dục quốc dân, trình độ kỹ thuật, chuyên môn, sức khoẻ và thể lực
cũng như ý thức hệ, đạo đức của người lao động.
Để đáp ứng cho sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta,
sự phát triển nguồn nhân lực phải thoả mãn trên cả ba phương diện thể lực, trí lực và
cả phẩm chất tâm lý xã hội:
- Về mặt thể lực: CNH, HĐH gắn liền với việc áp dụng phổ biến các phương
pháp sản xuất công nghiệp, các thiết bị và cơng nghệ hiện đại. Do đó, nâng cao thể
lực cho người lao động là một yêu cầu không thể xem nhẹ trong sự phát triển nguồn
nhân lực nước ta. Sự nghiệp CNH, HĐH với việc áp dụng phổ biến các kỹ thuật và
cơng nghệ hiện đại địi hỏi sức khỏe và thể lực cường tráng của nguồn lao động trên
các khía cạnh:
+ Có sức chịu đựng dẻo dai, đáp ứng những q trình sản xuất liên tục, kéo dài.
+ Có các thông số nhân chủng học đáp ứng được các hệ thống thiết bị công
nghệ được sản xuất phổ biến và trao đổi trên thị trường khu vực và thế giới. Việc thiết
kế và sản xuất riêng các thiết bị công nghệ đáp ứng các yếu tố nhân chủng học của
từng quốc gia thường có giá thành cao và mặt khác nếu các yếu tố nhân chủng học
của người lao động khơng đáp ứng được kích thước của các thiết bị cơng nghệ phổ
biến trên thị trường thì sẽ khơng phát huy được công suất của thiết bị và làm tăng tai
nạn lao động, giảm chất lượng sản phẩm.
+ Luôn ln có sự tỉnh táo, sảng khối tinh thần, những điều này lại phụ thuộc
chủ yếu vào trạng thái sức khỏe của người lao động. Kỹ thuật và công nghệ ngày càng
tinh vi, địi hỏi sự chính xác và an toàn cao độ; mặt khác giá trị của nhiều loại sản
phẩm rất lớn, chỉ một sơ suất nhỏ trong động tác, thao tác lao động có thể sẽ gây ra
tổn thất to lớn.
- Về mặt trí lực: Một lực lượng lao động đơng đảo có trình độ chun mơn kỹ
thuật ngày càng cao là đòi hỏi hàng đầu và là nhân tố quyết định sự thành công của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đi vào CNH, HĐH thì khơng có lĩnh vực nào lại khơng
địi hỏi người lao động phải có trình độ văn hố, chun mơn, kỹ thuật cao, nhất là
lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ tin học, tự động hố và cơng nghệ sinh học hiện
đại. Nguồn nhân lực phải được đào tạo có tay nghề chuyên môn cao trước hết ở các
loại:
+ Một đội ngũ ngày càng đơng đảo lao động trí tuệ có trình độ quản lý, chun
mơn và kỹ thuật cao có khả năng đảm nhiệm các chức năng quản lý ngày càng phức
tạp và các phương pháp quản lý hiện đại, nắm bắt và phát triển các công nghệ hiện đại
trong tất cả các lĩnh vực của sản xuất xã hội. Nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo
ngành nghề lên 40% (hiện nay 21%).
+ Một đội ngũ đông đảo công nhân kỹ thuật được đào tạo kỹ lưỡng, có chất
lượng, tay nghề cao. Hiện nay nước ta phần đông là lao động phổ thông không qua
đào tạo. Số lượng lao động được đào tạo nghề chỉ khoảng 10% tổng số lao động chân
tay. Hướng phấn đấu từ sau những năm 2000, tỷ lệ này ở mức 25%.
+ Sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực trước hết phải dựa vào đội ngũ những
nhà huấn luyện có số lượng đơng và có chất lượng cao.
- Về phẩm chất tâm lý xã hội của nguồn nhân lực: Cùng với sự tiến triển của
quá trình CNH, HĐH đất nước địi hỏi có sự chuyển biến căn bản về phẩm chất tâm lý
xã hội của nguồn nhân lực. Tác phong chậm chạp, lề mề, ý thức kỷ luật kém, tự do vô
tổ chức . . .sản phẩm của nền sản xuất tiểu nông thủ công, lạc hậu, phân tán cần phải
được khắc phục khi đi vào CNH, HĐH. Nó địi hỏi người lao động phải có những
phẩm chất tâm lý xã hội cơ bản sau:
+ Có tác phong cơng nghiệp (khẩn trương, đúng giờ giấc. . .)
+ Có ý thức kỹ luật tự giác cao.
+ Có niềm say mê nghề nghiệp, chuyên môn.
+ Sáng tạo, năng động trong cơng việc.
+ Có khả năng chuyển đổi cơng việc cao thích ứng với những thay đổi trong
lĩnh vực cơng nghệ và quản lý.
Chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta trong những năm qua đã được nâng lên
đáng kể. Tuy nhiên chất lượng nguồn nhân lực Việt nam vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu của sự nghiệp CNH, HĐH của nước ta, bởi vì nguồn nhân lực nước ta có những
hạn chế sau:
+ Về mặt thể lực: Nguồn nhân lực Việt Nam tuy đã được nâng cao về mặt thể
lực, sức khỏe; sự chịu đựng dẻo dai đã được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên người Việt
Nam vẫn chưa thể đáp ứng được những yêu cầu về thể lực của tình hình mới và cịn
kém xa so với các nước trên thế giới và khu vực.
+ Về mặt trí lực: Nguồn nhân lực nước ta tuy đã được đào tạo và nâng cao về
trình độ và tay nghề nhưng nhìn chung, nguồn nhân lực vẫn là người lao động phổ
thông, thủ công chưa qua đào tạo, số lượng lao động phổ thơng vẫn chiếm 72%, số
người được đào tạo cịn thấp và chất lượng đào tạo vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
công việc công nghệ cao.
+ Về tâm lý: Nhìn chung người lao động Việt Nam vẫn cịn giữa tác phong làm
việc nông nghiệp lạc hậu, khả năng làm việc độc lập kém, không chịu năng động sáng
tạo, sức ỳ vẫn cịn rất lớn.
Trong cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hoá của đất nước nhằm mục tiêu
đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Sự nghiệp này
đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với sự phát triển nguồn nhân lực ở nước ta, thể
hiện ở các mặt sau:
+ Phải đẩy mạnh phong trào thể dục, thể thao rèn luyện thân thể và tăng cường
cơng tác chăm sóc sức khỏe để nâng cao thể lực cho người Việt Nam, tạo ra một đội
ngũ lao động có sức khỏe và chịu đượng dẻo dai.
+ Phải tạo ra được một đội ngũ ngày càng đơng đảo lao động trí tuệ có trình độ
quản lý, chun mơn và kỹ thuật cao có khả năng đảm nhiệm các chức năng quản lý
ngày càng phức tạp và các phương pháp quản lý tiên tiến, nắm bắt và phát triển các
công nghệ hiện đại trong tất cả các lĩnh vực của sản xuất xã hội, đặc biệt là lực lượng
các nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực quản lý kinh tế và công nghệ, các kỹ sư
nắm bắt và điều khiển các công nghệ hiện đại, các nhà quản lý kinh doanh có năng
lực quản lý doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh
trong khu vực và thế giới ngày càng gay gắt.
+ Phải tạo ra được một đội ngũ đông đảo công nhân kỹ thuật được đào tạo kỹ
lưỡng, có chất lượng tay nghề cao đáp ứng yêu cầu của các cơ sở sản xuất với cơng
nghệ hiện đại và q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nền nơng nghiệp, nơng thơn.
+ Phải tạo ra được một đội ngũ những nhà “huấn luyện” có số lượng đông và
chất lượng cao. Đây là một yêu cầu bức xúc trong sự phát triển nguồn nhân lực, vì lực
lượng những người làm cơng tác giáo dục và đào tạo hiện khơng chỉ thiếu về số lượng
mà cịn chưa đáp ứng về chất lượng. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng của đội ngũ
thầy giáo các loại thông qua các hình thức đào tạo mới, đào tạo lại là một yêu cầu của
phát triển nguồn nhân lực.
+ Phải tạo ra được một đội ngũ lao động có ý thức tổ chức kỷ luật, có tác phong
làm việc của nền công nghiệp hiện đại, phát huy được những phẩm chất của dân tộc
thanh lịch, cần cù, sáng tạo.
Tóm lại, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đặt ra những yêu cầu cao đối với sự
phát triển nguồn nhân lực trên ba yếu tố: sức khỏe, trí tuệ và phẩm chất tâm lý xã
hội./.
Câu 2: Theo nhận định của một số nhà qlý, các nhà ktế, trong bối cảnh KT-XH hiện nay của
VN thì “nguồn nhân lực XH đang trong tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm, thừa lao động phổ
thông, thiếu lao động chuyên môn kỹ thuật, thừa thầy, thiếu thợ” Anh (chị) hãy làm rõ nhận định
trên?
Nguồn nhân lực xã hội hay còn gọi là nguồn lao động xã hội là dân số trong độ
tuổi lao động có khả năng lao động. Theo Tổ chức quốc tế về lao động (ILO) thì lực
lượng lao động là dân số trong độ tuổi lao động thực tế có việc làm và những người
thất nghiệp. Giữa các quốc gia có sự khác nhau về quy định độ tuổi lao động. Hiện
nay, nhiều nước lấy tuổi tối thiểu là 15 tuổi, còn tuổi tối đa vẫn cịn có sự khác nhau,
tuỳ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước, có nước quy định là
60, có nước 65, thậm chí có nước đến 70, 75 tuổi. Theo Bộ Luật LĐ nước ta quy định
tuổi lao động là từ 15 - 60 tuổi đối với nam và từ 15 - 55 tuổi đối với nữ.
Nguồn nhân lực VN có 3 đ/điểm cơ bản sau:
- Nguồn nhân lực dồi dào và tăng nhanh: VN là một quốc gia có nguồn nhân
lực dồi dào, đứng vào vị trí thứ 13 trên thế giới và thứ 2 trong khối ASEAN. Ở thập
niên 90, nước ta có trên 30 triệu lao động và đến đầu thế kỷ 21 là trên 49 triệu lao
động. Do dân số tăng nhanh từ trước cho nên nguồn nhân lực tiếp tục tăng với tốc độ
cao. Hàng năm có từ 1 đến 1,2 triệu lao động gia tăng. Nguồn nhân lực trẻ tăng nhanh
là một lợi thế đối với sự phát triển của nước ta. Nó bảo đảm một yếu tố cơ bản cho
đầu tư phát triển, phát triển theo chiều rộng và chiều sâu. Lao động trẻ có sức bật
nhanh thuận lợi cho sự phát triển chuyên môn, có sức khỏe dồi dào, đáp ứng yêu cầu
phát triển của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và thuận lợi phát triển hoạt động xuất
khẩu lao động, một dạng đặc thù của kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên điều đó cũng đặt ra
sự thách đố gay gắt đối với vấn đề giải quyết việc làm trong điều kiện nước ta còn
kém phát triển, vốn đầu tư cho phát triển kinh tế, tạo việc làm cịn hạn hẹp. Chính đặc
điểm này đã đặt nguồn nhân lực xã hội nước ta vào tình cảnh “thừa lao động, thiếu
việc làm”.
- Tỷ lệ lao động được đào tạo kỹ thuật, chun mơn vẫn cịn thấp, phần lớn là
lao động thủ công: Tỷ lệ lao động không qua đào tạo chiếm tỷ trọng rất lớn trong
tổng số lao động của VN. Năm 2000, số lao động chưa được đào tạo hoặc bồi dưỡng
khơng có bằng cấp chuyên môn vẫn chiếm một tỷ lệ khá cao - 72% - trong đó lao
động của các hộ sản xuất kinh doanh, còn chiếm tỷ lệ khoảng 68%, riêng ở khu vực
nơng thơn số lao động khơng có chun mơn kỹ thuật cịn chiếm tới 84%. Số liệu này
cũng cho thấy đại bộ phận lao động nông thôn là lao động phổ thơng, chưa có chun
mơn kỹ thuật. Đặc điểm này của nguồn nhân lực VN có ảnh hưởng khơng tốt đối với
q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập quốc tế của nước ta. Nó tạo ra
khoảng cách giữa nước ta với các nước khác trong khu vực và trên toàn thế giới. Lực
lượng lao động không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
không làm chủ được các công nghệ hiện đại tiên tiến của thế giới, không cạnh tranh
được với thị trường lao động của khu vực và trên thế giới do đó nó sẽ kìm hãm sự
phát triển của đất nước.
Ngay cả số lao động được qua đào tạo trong những năm qua cũng bị mất cân
đối nghiêm trọng, tỷ lệ lao động có trình độ đại học cao đẳng; trung học chuyên
nghiệp và công nhân kỹ thuật của Việt Nam so với tỷ lệ hợp lý chung của các nước
trên thế giới cũng còn nhiều lạc hậu, đội quân lý thuyết nhiều nhưng quân vận hành
tác nghiệp của công nhân kỹ thuật cịn ít và yếu (Tỷ lệ: kỷ sư – Trung cấp kỹ thuật – Công
nhân kỹ thuật là: 1: 4: 10; tỷ lệ này tương ứng ở Việt Nam năm 2000 là: 1: 1,6: 3,6; Phấn đấu đến
năm 2005 là: 1: 1,7: 5,5). Hiện nay, VN đang thiếu nhiều công nhân kỹ thuật, đặc biệt là
CNKT bậc cao. Hơn nữa, số người tốt nghiệp đại học nhiều nhưng chưa phát huy
được hiệu quả, tập trung quá nhiều vào khu vực hành chính, đồn thể, số sinh viên đại
học đào tạo gấp 5 lần số CNKT. Tỷ lệ học sinh học nghề còn thấp, một phần còn do
tâm lý của học sinh phổ thông đa số không muốn học nghề mà chỉ muốn thi vào đại
học. Nguyên nhân căn bản dẫn đến đặc điểm này là do nước ta đi lên từ xuất phát
điểm rất thấp, đồng thời trải qua các cuộc chiến tranh kéo dài, đầu tư cho giáo dục đào
tạo vẫn cịn hạn hẹp do đó chất lượng nguồn nhân lực bị hạn chế do không được đào
tạo. Và cũng chính từ đặc điểm này mà nhiều nhà quản lý, các nhà kinh tế đã nhận
định nguồn nhân lực xã hội nước ta đang trong tình trạng “thừa lao động phổ thông,
thiếu lao động chuyên môn kỹ thuật, thừa thầy, thiếu thợ”.
- Cơ cấu nguồn nhân lực VN vẫn còn lạc hậu so với thế giới, đặc biệt so với các
nước phát triển. Người lao động Việt Nam vẫn còn tập trung quá nhiều ở khu vực nơng nghiệp,
chiếm tới 62,56%, trong khi đó tỷ lệ này ở các nước phát triển thì rất thấp (Anh: 2%; Úc: 5%). Tỷ lệ
ở các ngành công nghiệp và dịch vụ thì lại chiếm rất ít, tương ứng là: 13,5% và 24,2%, trong khi đó,
tỷ lệ lao động này ở Anh là: 30% và 68% và ở Nhật là: 34% và 60%. Sở dĩ có tình trạng phân
bổ cơ cấu nguồn nhân lực như vậy là do kinh tế của ta chưa phát triển, nông nghiệp
vẫn là ngành sản xuất chủ yếu, công nghiệp và dịch vụ mới đang bước đầu phát triển.
Mặt khác, do nền kinh tế trong cả nước chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch
hoá tập trung trước đây. Điều này thể hiện ở nhiều mặt cả về cơ cấu kinh tế, cơ sở hạ
tầng, tổ chức sản xuất, thiết bị công nghệ... Nhưng điều quan trọng nhất là chất lượng
nguồn nhân lực với những tập quán, thói quen, nếp nghĩ cũ đã tác động xấu, làm cho
hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao. Tác phong lao động cũng như lề lối làm việc
của người lao động trên cả nước chưa phù hợp với công cuộc đổi mới hiện nay. Trong
những năm tới cơ cấu nguồn nhân lực nước ta sẽ có sự thay đổi tăng dần tỷ trọng lao
động công nghiệp và dịch vụ, giảm dần lao động nông nghiệp, để đáp ứng u cầu
của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Vì thế, chúng ta cần phải có nhiều biện
pháp, cơ chế chính sách có tác dụng mạnh mẽ để đổi mới toàn diện nhằm cải thiện
chất lượng nguồn nhân lực nước ta bằng các cơ chế chính sách, bằng việc khuyến
khích lợi ích kinh tế, trước hết phải chú trọng đến việc nâng cao trình độ học vấn của
người dân, nâng tỷ trọng nhân lực được qua đào tạo và nâng cao trình độ chun mơn
cho nguồn nhân lực để nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 như Đại hội
IX của Đảng đã xác định.
Muốn làm được điều đó thì chúng ta phải phát triển đồng bộ tất cả các lĩnh vực
kinh tế - xã hội, văn hoá, y tế, giáo dục... để đưa đất nước ta tiến lên, trước hết là: Phải nhanh chóng tạo ra một đội ngũ đông đảo người lao động có kỹ thuật, có chun
mơn, có sức khỏe để phục vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, thơng qua việc
thực hiện cho đạt những chỉ tiêu chủ yếu như: + Đến năm 2010, nâng tỷ trọng dân số
trong độ tuổi từ 18 đến 23 được tham gia đào tạo học nghề là từ 80% trở lên; +Từ
năm 2005 đến 2010 mỗi năm tăng thêm 2% số lao động qua đào tạo trong tổng số lao
động đang làm việc. Từ năm 2010 đến 2020 mỗi năm tăng thêm 2-3% số lao động
qua đào tạo trong tổng số lao động đang làm việc. Đến năm 2020 số lao động qua đào
tạo chiếm trên 80%; + Nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật và kỹ năng cho người lao
động. Từng bước đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị cho khâu dạy nghề.Tăng cường chất
lượng giáo viên, trường dạy nghề để đạt chất lượng dạy nghề cao; + Từng bước hợp
lý hoá cấu trúc của đội ngũ lao động được đào tạo theo các bậc học theo cơ cấu đại
học - cao đẳng 1 – trung học chuyên nghiệp 2 – công nhân kỹ thuật 4 vào năm 2010
và tương ứng 1 – 2 – 8 vào năm 2020; - Phải tạo ra một sự chuyển biến trong c ơ cấu
lao động xã hội, trong đó lao động cơng nghiệp và dịch vụ tăng lên về tuyệt đối và
tương đối trong khi lao động nông nghiệp chuyển hướng ngược lại; - Phải tiến hành
sự phân bố dân số và nguồn nhân lực hợp lý theo lãnh thổ với tư cách là lực lượng lao
động chủ yếu, nhằm khai thác tối đa tiềm năng của đất nước, làm thay đổi bộ mặt và
sức sống của nền kinh tế; - Hình thành hệ thống những giá trị văn hoá, nhân văn mới
phù hợp với tiến trình CNH, HĐH đất nước trên nền tảng bản sắc văn hoá truyền
thống, giá trị nhân văn của dân tộc VN. Trên đây là ba đặc điểm cơ bản nhất của
nguồn nhân lực nước ta đòi hỏi các nhà q/lý cần quán triệt chúng để trong quá trình
hoạch định và thực thi các chính sách phát triển và sử dụng nguồn nhân lực xã hội
phù hợp từng giai đoạn phát triển của đất nước./.
Câu 3: Trình bày và phân tích các hình thức nhằm phát triển nguồn nhân lực thông qua hệ
thống các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay? Theo Anh (chị) cần có
các giải pháp nào để đổi mới các hình thức đó nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH
hiện nay.
Phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách
và biện pháp nhằm hồn thiện và nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực (trí lực, thể
chất và phẩm chất tâm lý – xã hội) nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự
phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Phát triển nguồn nhân lực có
vai trị và ý nghĩa quyết định hơn so với sự tăng trường nguồn nhân lực, nhất là trong
bối cảnh dân số, lao động và kinh tế như ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Theo quy định tại Nghị định 90/CP ngày 24/11/1993 hệ thống đào tạo chuyên
nghiệp nước ta bao gồm: các trường trung học công nghiệp và dạy nghề, các trường
cao đẳng, các trường đại học, các cơ sở đào tạo sau đại học. Đây là các hình thức chủ
yếu để phát triển nguồn nhân lực thông qua hệ thống các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp
ở nước ta:
- Các trường trung học chuyên nghiệp và trung học dạy nghề, gọi chung là
trung học chuyên nghiệp. Đây là hệ thống đào tạo ra các lực lượng lao động đảm
nhiệm các công việc thực hành về khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ, cầu nối giữa lực
lượng công nhân kỹ thuật (trực tiếp sản xuất) và lực lượng lao động có trình độ cao
đẳng, kỹ thuật và sau đại học. Trong hệ thống cơng chức họ được xếp vào ngạch cán
sự, cịn trong các doanh nghiệp họ còn được xếp vào chức danh nhân viên kỹ thuật,
nghiệp vụ. Vì chức năng hoạt động của lực lượng lao động này là thừa hành các cơng
việc mà lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao giao cho nên họ được đào tạo
nghiêng nhiều về thực hành chứ khơng phải lý thuyết. Trình độ học vấn đầu vào của
lực lượng lao động này cũng chỉ cần từ trình độ tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên.
- Các trường cao đẳng và đại học: Lực lượng lao động có trình độ cao đẳng và
đại học thường giữa vai trò thiết kế, tổ chức, hướng dẫn và điều hành mọi hoạt động
của đời sống xã hội. Do đó vai trị các trường cao đẳng và đại học có vai trị hết sức to
lớn:
+ Đào tạo ra một đội ngũ cán bộ chuyên môn, kỹ thuật và quản lý có trình độ
cao.
+ Phát triển những kiến thức mới thông qua nghiên cứu và đào tạo ở trình độ
cao; đồng thời chuyển giao, thích nghi và phổ biến những kiến thức mới.
+ Tạo cơ sở cho các diễn đàn, các cuộc thảo luận rộng rãi những vấn đề phát
triển và đổi mới đất nước.
+ Tạo ra những thay đổi về chất trong đời sống xã hội.
Những người lao động có trình độ cao đẳng, đại học được đào tạo kỹ lưỡng về
trí thức khoa học kỹ thuật và quản lý, thời gian đào tạo thường dài (4 –6 năm). Họ
không những am hiểu sâu sắc về lý thuyết mà cịn có khả năng hướng dẫn, tổ chức
các hoạt động thực tiễn.
- Các cơ sở đào tạo sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ): Các cơ sở đào tạo sau đại học
đào tạo ra những nhà khoa học có học vị khoa học cao nhất trong xã hội, đội quân kế
cận của những nhà khoa học đầu ngành trong tương lai. Trình độ khoa học cơng nghệ
của đất nước ngày càng cao đòi hỏi số lượng các nhà khoa học có trình độ thạc sĩ và
tiến sĩ ngày càng nhiều. Họ khơng chỉ có trình độ am hiểu cao về lý luận, phương
pháp luận mà cịn có khả năng sáng tạo tham gia tích cực vào phát triển khoa học –
cơng nghệ, hoạch định chính sách, tổ chức nghiên cứu khoa học.
Ở nước ta, từ thập niên năm 70 trở về trước, việc đào tạo lực lượng này chủ yếu
dựa vào các cơ sở đào tạo ở nước ngịai thơng qua con đường viện trợ và hợp tác. Từ
thập niên 80 trở lại đây phần đơng lực lượng lao động có trình độ thạc sĩ và tiến sĩ
được đào tạo tại các cơ sở trong nước, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong sự
phát triển nguồn nhân lực nước ta.
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước nhằm mục tiêu
đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Sự nghiệp này
đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với sự phát triển nguồn nhân lực, thể hiện ở các
mặt sau:
+ Phải tạo ra được một đội ngũ ngày càng đơng đảo lao động trí tuệ có trình độ
quản lý, chun mơn và kỹ thuật cao có khả năng đảm nhiệm các chức năng quản lý
ngày càng phức tạp và các phương pháp quản lý tiên tiến, nắm bắt và phát triển các
công nghệ hiện đại trong tất cả các lĩnh vực của sản xuất xã hội.
+ Phải tạo ra được một đội ngũ đông đảo cơng nhân kỹ thuật được đào tạo kỹ
lưỡng, có chất lượng tay nghề cao đáp ứng yêu cầu của các cơ sở sản xuất với công
nghệ hiện đại và q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nông thôn.
+ Phải tạo ra được một đội ngũ những nhà “huấn luyện” có số lượng đơng và
chất lượng cao, vì lực lượng những người làm cơng tác giáo dục và đào tạo hiện
không chỉ thiếu về số lượng mà cịn chưa đáp ứng về chất lượng. Vì vậy, việc nâng
cao chất lượng của đội ngũ thầy giáo các loại thơng qua các hình thức đào tạo mới,
đào tạo lại là một yêu cầu của phát triển nguồn nhân lực.
+ Phải tạo ra được một đội ngũ l/động có ý thức tổ chức kỷ luật, có tác phong l/
việc của nền công nghiệp hiện đại, phát huy được những phẩm chất tâm lý xã hội cơ
bản năng động, sáng tạo.
Sự nghiệp CNH, HĐH đặt ra những yêu cầu cao đối với sự phát triển nguồn
nhân lực, trên cả ba phương diện thể lực, trí lực và cả phẩm chất tâm lý xã hội. Do
vậy để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đó, chúng ta cần tập trung vào các
giải pháp sau:
- Thực hiện chính sách vĩ mơ phát triển nguồn nhân lực, bao trùm nhất là về
giáo dục đào tạo. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư trực tiếp, cơ bản, lâu dài vì
sự phồn vinh của đất nước, đó là đầu tư cơ sở hạ tầng về con người. Thực hiện
phương châm giáo dục, đào tạo không ngừng, suốt đời. Trong điều kiện phát triển của
khoa học, kỹ thuật, công nghệ, với xu hướng trí tuệ hố lao động và mở rộng giao lưu
quốc tế, cần phải khơng ngừng nâng cao trình độ mọi mặt cho người lao động, không
chỉ trong quá trình học tập ở các trường, lớp, mà trong suốt q trình lao động, người
lao động ngồi việc biết một nghề nghiệp chuyên sâu, còn phải biết những kiến thức
tổng hợp khác như ngoại ngữ, tin học, luật pháp, quan hệ giao tiếp xã hội...
- Phát triển thị trường lao động, hình thành các thang bậc giá trị sức lao động
trong xã hội. Thông qua thị trường sức lao động, chất lượng nhân lực được đánh giá
và hình thành nên các thang bậc giá trị sức lao động trong xã hội (giá thuê mướn lao
động, tiền công . .) thông qua ba dạng thị trường lao động, mức lương từ cao xuống
thấp. Đó là thị trường lao động khu vực thành thị chính thức; thị trường lao động khu
vực thành thị khơng chính thức và thị trường lao động nông thôn.
+ Khu vực thành thị chính thức là nơi hầu hết mọi người đều thích làm việc nếu
như có khả năng. Khu vực này bao gồm các tổ chức kinh doanh lớn của Chính phủ
như Ngân hàng, Công ty bảo hiểm, Nhà máy, các Cửa hàng buôn bán và bao gồm cả
các hãng lớn của tư nhân kể cả các Cơng ty nước ngồi. Người lao động trong khu
vực này được làm việc trong một cơ sở hiện đại, được trả lương cao và việc làm ổn
định nhưng những lao động này phải có trình độ đại học, trung học chun nghiệp,
cơng nhân kỹ thuật giỏi nhất.
+ Khu vực thành thị khơng chính thức: (dịch vụ phục vụ) tự tạo việc làm.
+ Khu vực nông thôn: Lao động thường làm việc trong phạm vi gia đình và
mục đích khơng phải là lấy tiền cơng mà là để đóng góp phần mình vào sản lượng gia
đình. Thế nhưng, ở nơng thơn do sức ép dân số và thiếu đất trồng trọt nên vẫn luôn
tồn tại thị trường lao động làm thuê, ít nhất là theo mùa vụ.
Như vậy, Lực lượng lao động được đào tạo, có trình độ cao (cơng nhân kỹ
thuật, trung cấp chun nghiệp, cao đẳng đại học và trên đại học) được thu hút chủ
yếu vào khu vực kinh tế chính thức, tiếp đó là khu vực kinh tế khơng chính thức thành
thị. Trong khi đó, thị trường lao động nơng thơn ở các nước chậm phát triển như nước
ta lại thu hút chủ yếu là lao động phổ thôn hầu như không qua đào tạo./.
Câu 4: Anh (chị) hãy làm rõ nhận định sau: Trong bối cảnh dân số, lao động và kinh tế như
ở nước ta hiện nay, phát triển nguồn nhân lực có vai trị và ý nghĩa quyết định so với sự tăng trưởng
nguồn nhân lực”.
Cũng tương tự như trong các thuật ngữ tăng trưởng và phát triển kinh tế, phát
triển nguồn nhân lực gắn liền với sự hoàn thiện, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
thể hiện ở việc nâng cao trình độ giáo dục quốc dân, trình độ kỹ thuật, chuyên môn,
sức khoẻ và thể lực cũng như ý thức hệ, đạo đức của người lao động. Còn tăng trưởng
nguồn nhân lực gắn với việc tăng về số lượng trong lực lượng lao động. Phát triển
nguồn nhân lực là phát triển về chất lượng nguồn nhân lực, mang tính chất quyết định,
còn tăng trưởng nguồn nhân lực là tăng về số lượng, giữ vai trò quan trọng. Phát triển
nguồn nhân lực có vai trị và ý nghĩa quyết định hơn so với sự tăng trưởng nguồn
nhân lực, nhất là trong bối cảnh dân số, lao động và kinh tế như ở nước ta hiện nay.
Sự phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc rất lớn vào việc khai thác, quản lý và sử
dụng hợp lý và hiệu quả các nguồn lực của đất nước bao gồm các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, nguồn vốn, trình độ khoa học -kỹ thuật -công nghệ và tiềm lực về con
người hay nguồn nhân lực. Trong số các nguồn lực kể trên thì nguồn nhân lực có ý
nghĩa quyết định. Nguồn nhân lực và lực lượng lao động là nhân tố của sự phát triển,
còn mục tiêu cuối cùng của sự phát triển là nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn con
người, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Như vậy, con người vừa là
động lực, vừa là cái đích của phát triển kinh tế - xã hội.
Mọi hoạt động sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần suy cho cùng đều là
những hoạt động của người lao động. Họ phát minh, sáng chế và sử dụng tư liệu lao
động, tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ cho mình
và cho xã hội. Nguồn nhân lực chính là nguồn “nội lực”, nếu biết phát huy, nó có thể
nhân lên sức mạnh của các nguồn lực khác.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong suốt mấy thập kỷ qua đã cho
thấy, nước nào biết chăm lo, sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, biết phát huy nhân
tố con người thì nước đó có thể đạt được tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng mặc
dù khơng giàu tài ngun thiên nhiên và trình độ khoa học, kỹ thuật chưa phát triển.
Trong điều kiện lực lượng sản xuất phát triển không ngừng như hiện nay, trình
độ quản lý và trình độ khoa học - công nghệ ngày càng hiện đại, thế giới đang chuyển
sang nền “kinh tế tri thức”, thực chất là nền kinh tế dựa trên động lực là sự sáng tạo
cái mới về tri thức và sáng tạo cái mới về khoa học kỹ thuật. Như vậy, sự giàu có của
quốc gia trong thế kỷ XXI sẽ được xây dựng chủ yếu trên nền tảng văn minh về trí tuệ
của con người, khác với trước đây là dựa vào sự giàu có nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Các nguồn lực khác tuy là điều kiện quan trọng, nhưng khơng có sức cạnh
tranh tự thân mà phải được kết hợp với nguồn nhân lực để phát huy tác dụng và nâng
cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất, kinh doanh, đó là yếu tố nội sinh, chi phối và giữ
vai trò quyết định trong sự phát triển.
Xuất phát từ đặc điểm của nguồn nhân lực nước ta và các vấn đề đặt ra đối với
nguồn nhân lực cho thấy, nếu tiếp tục gia tăng dân số ở nước ta hiện nay tác động
không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế - xã hội Việt Nam. Nếu khơng kiểm sốt
được tình trạng tăng dân số, chắc chắn sẽ dẫn đến hàng loạt vấn đề thách thức như an
ninh lương thực, môi trường, sự tích lũy của nền kinh tế và đặc biệt là sự phát triển
bền vững. Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam cho thấy vấn đề việc làm ở các
vùng nông thôn càng trở nên nan giải; công tác đào tạo nghề hiện nay vẫn cịn tồn tại
khơng ít bất cập; tâm lý tiểu nông, sản xuất nhỏ, ý thức tổ chức chưa cao đã ảnh
hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực. Vì vậy, vai trị ý nghĩa quyết định cho sự phát
triển đất nước hiện nay là phải phát triển nguồn nhân lực. Xã hội ngày càng phát triển
theo xu hướng hiện đại, địi hỏi nguồn nhân lực phải có đầy đủ thể lực, trí lực để đáp
ứng cho nhu cầu phát triển đó. Một quốc gia khơng phải có nguồn nhân lực đông là
mạnh mà phải là nguồn nhân lực đó có trình độ như thế nào, sức khỏe và tính kỹ luật,
giá trị nhân văn của người lao động ra sao? Để đảm bảo nguồn nhân lực cho sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đọan hiện nay cần đẩy
nhanh phát triển nguồn nhân lực về mọi mặt và có kế hoạch kiểm sóat chặt chẽ việc
tăng trưởng nguồn nhân lực. Vì ph/triển nguồn nhân lực rất có lợi cho u cầu
ph/triển đất nước, cịn tăng trưởng nguồn nhân lực vừa có lợi nhưng vừa phải giải
quyết hàng lọat vấn đề đặt ra cho sự gia tăng số lao động đó, nếu khơng kiểm sóat
chặt chẽ sự gia tăng đó, nó sẽ là vấn nạn cho xã hội. Bởi vì ph/triển nguồn nhân lực
gắn với hòan thiện và nâng cao chất lượng giáo dục để thể hiện qua vai trò của giáo
dục. Phát triển giáo dục là nội dung của phát triển nguồn nhân lực; ph/triển nguồn
nhân lực gắn liền với hòan thiện cơ cấu kinh tế - xã hội; phát triển nguồn nhân lực đạt
đến mức độ nào, ở phạm vi nào không những ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh
tế - xã hội mà còn tác động đến một số vấn đề do nguồn nhân lực đặt ra. Còn tăng
trưởng nguồn nhân lực là sự gia tăng về số lượng, sức lao động và gắn liền với tái sản
xuất mở rộng.
Thực tế công cuộc đổi mới ở nước ta trong thời gian vừa qua cũng cho thấy,
Đảng, Nhà nước ta với nhiều chủ trương, biện pháp thiết thực quan tâm phát huy nhân
tố con người, giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo, đã đưa đến những thành công bước
đầu rất quan trọng cả về kinh tế và xã hội, đưa đất nước đi lên tầm cao mới của sự
phát triển.
Quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước theo hướng công nghiệp hố, hiện
đại hố càng địi hỏi phải có lực lượng lao động kỹ thuật có tay nghề, có kỷ luật và
trình độ văn hố cao, có thể tiếp thu và sử dụng hiệu quả những thành tựu khoa học
kỹ thuật và công nghệ hiện đại của thế giới. Nhận thức được yêu cầu tất yếu khách
quan đó, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VII) của Đảng đã nêu việc phát triển nguồn
nhân lực là ưu tiên hàng đầu trong các chính sách và biện pháp nhằm thực hiện q
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Cùng với q trình chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN,
một hệ thống các loại thị trường trong đó có thị trường sức lao động sẽ hình thành và
ngày càng phát triển. Đây là một xu hướng tất yếu, có ảnh hưởng lớn tới việc đào tạo
và sử dụng nguồn lao động ở nước ta. Sự hình thành, phát triển thị trường sức lao
động, quan hệ thuê mướn lao động bị chi phối bởi quy luật cung - cầu và các quy luật
khác của thị trường sẽ làm thay đổi rất cơ bản và sâu sắc quan hệ lao động “biên chế”
của cơ chế cũ. Thị trường sức lao động sẽ làm cho cả người lao động làm thuê cũng
như người sử dụng sức lao động thuộc các thành phần kinh tế chủ động hơn, sáng tạo
hơn, khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lao động.
Nhưng thị trường sức lao động cũng sẽ tất yếu đưa đến những mặt tiêu cực, tự
phát, nếu khơng có sự quản lý chặt chẽ, có hiệu quả của Nhà nước. Cơ chế thị trường
chỉ có thể vận hành tốt trên cơ sở có hệ thống các loại thị trường phát triển đầy đủ và
đồng bộ, trong đó có thị trường sức lao động. Cơ chế thị trường càng phát triển càng
địi hỏi sự quản lý có hiệu lực của Nhà nước.
Phát triển nguồn nhân lực phải là quá trình tạo điều kiện khơi dậy và phát huy
mọi tiềm năng của các cá nhân cho công cuộc xây dựng đất nước và quá trình phát
triển của đất nước, vì sự tiến bộ kinh tế và xã hội. Phát triển nguồn nhân lực khơng
chỉ cho nước ta mà cịn phải nhắm tới giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
Cần phát triển nguồn nhân lực đi đơi với hình thành và phát triển thị trường lao
động phù hợp cơ chế thị trường, đáp ứng được yêu cầu về mọi mặt của nền sản xuất
dựa trên kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Phân bổ nguồn lao động hợp lý theo lãnh thổ,
ngành nghề. Nói cách khác, phát triển nguồn nhân lực phải đảm bảo kết hợp chặt chẽ
với chương trình giải quyết việc làm để đạt hai mục tiêu: nhân lực phục vụ cho cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa và giải quyết việc làm cho xã hội. Tập trung các nguồn lực
và khả năng giải quyết việc làm cho người lao động, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ
thất nghiệp../
Câu 5: Hãy trình bày chỉ tiêu chủ yếu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực xã hội? Dựa trên
các chỉ tiêu đó, Anh (chị) hãy đánh giá chất lượng nguồn nhân lực xã hội Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay? Anh (chị) hãy đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xã hội
đáp ứng địi hỏi của tiến trình CNH, HĐH đất nước.
Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể hiện
mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực. Đó
là các yếu tố về tinh thần, thể lực, trí lực.
- Thể lực của nguồn nhân lực: Sức khỏe vừa là mục đích của sự phát triển,
đồng thời nó cũng là điều kiện của sự phát triển. Đó là sức khỏe cơ thể và sức khỏe
tinh thần. Sức khỏe cơ thể là sự cường tráng, là năng lực lao động chân tay. Sức khỏe
tinh thần là sự dẻo dai của sự hoạt động thần kinh, là khả năng vận động của trí tuệ,
biến tư duy thành hoạt động thực tiễn. Sức khỏe của con người chịu tác động của
nhiều yếu tố: tự nhiên, kinh tế, xã hội và được phản ánh bằng một hệ thống các chỉ
tiêu bao gồm các chỉ tiêu cơ bản về sức khỏe, các chỉ tiêu về bệnh tật và các chỉ tiêu
về cơ sở vật chất và các điều kiện bảo vệ và chăm sóc sức khỏe.
Để đánh giá chất lượng nguồn nh/lực về mặt thể lực có nhiều chỉ tiêu được áp
dụng, trong đó hai chỉ tiêu sau đây thường được sử dụng:
+ Chiều cao trung bình của thanh niên từ 18 đến 35 tuổi (đơn vị: cm).
+ Cân nặng trung bình của thanh niên (đơn vị: kg).
- Trí lực của nguồn nhân lực: Khi tham gia vào quá trình sản xuất, con người
khơng chỉ sử dụng chân tay mà cịn sử dụng cả trí óc. Bên cạnh sức khỏe là trí lực,
một yếu tố không thể thiếu của nguồn nhân lực. Nhân tố trí lực của nguồn nhân lực
thường được xem xét đánh giá dựa trên hai góc độ: Trình độ văn hố, chun mơn kỹ
thuật và Kỹ năng lao động thực hành của người lao động.
+ Trình độ văn hố là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu những
kiến thức cơ bản, thực hiện những việc đơn giản để duy trì cuộc sống. Trình độ văn
hố được cung cấp qua hệ thống giáo dục chính quy, khơng chính quy, qua q trình
học tập suốt đời của mỗi cá nhân. Trình độ văn hố được đánh giá qua hệ thống chỉ
tiêu:
* Tỷ lệ dân số biết chũ là số % những người 10 tuổi trở lên có thể đọc viết và
hiểu được những câu đơn giản của tiếng Việt, tiếng dân tộc hoặc tiếng nước ngoài so
với tổng dân số 10 tuổi trở lên. Phương pháp tính:
Số người 10 tuổi trở lên trong năm xác định
T/lệ biết chử của dsố từ 10 tuổi trở lên = ------------------------ x 100
Tổng dân số 10 tuổi trở lên trong cùng năm
* Số năm đi học trung bình của dân số tính từ 25 tuổi trở lên là số năm trung
bình một người được đi học. Phương pháp tính:
A = aixi
Trong đó: - A: là số năm đi học trung bình.
- a i: các hệ số được chọn theo hệ thống giáo dục của mỗi vùng hoặc
mỗi nước.
- xi: % trình độ văn hố theo hệ thống giáo dục tương đương.
+ Trình độ chun mơn kỹ thuật là kiến thức và kỹ năng cần thiết để đảm
đương các chức vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề nghiệp. LĐ kỹ
thuật bao gồm những công nhân kỹ thuật từ bậc 3 trở lên (có hoặc khơng bằng) cho
tới những người có trình độ trên đại học. Các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá trình độ
chun mơn kỹ thuật của nguồn nhân lực gồm:
* Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là % số lao động đã qua đào tạo so với tổng số
lao động.
* Tỷ lệ lao động theo cấp bậc đào tạo (công nhân kỹ thuật, trung học chuyên
nghiệp, đại học và sau đại học) là tỷ lệ giữa tổng số lao động được đào tạo ở một cấp
bậc đào tạo nhất định so với tổng số lao động đang làm việc.
- Phẩm chất tâm lý xã hội của nguồn nhân lực: Ngoài yếu tố thể lực và trí lực,
q trình lao động địi hỏi người lao động hàng loạt phẩm chất như tính kỷ luật, tự
giác, có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp, có tinh thần trách nhiệm
cao . .. Những phầm chất này gắn liền với truyền thống văn hoá dân tộc. Phương
pháp đánh giá chất lượng nguồn nhân lực về yếu tố phẩm chất tâm lý xã hội thường
được tiến hành bằng các cuộc điều tra tâm lý và xã hội và được đánh giá chủ yếu bằng
các chỉ tiêu định tính.
- Chỉ tiêu tổng hợp: Tổ chức phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đã khuyến nghị
và đưa ra áp dụng nhiều phương pháp để đánh giá sự phát triển con người, trong đó
chỉ số HDI được sử dụng phổ biến. Theo phương pháp này thì sự pháp triển con
người được xác định theo ba yếu tố cơ bản nhất và tổng hợp nhất: Sức khỏe, trình độ
học vấn và thu nhập.
+ Về sức khỏe được xác định qua chỉ tiêu tuổi thọ bình quân của dân số.
+ Về học vấn được xác định qua hai chỉ tiêu: Tỷ lệ dân số biết chữ và Số năm
đi học của một người.
+ Về thu nhập được xác định qua chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước
GDP/người.
Chỉ số HDI được tính từ 0,1 đến 1,0. Vì chỉ số HDI đề cập đến những yếu tố cơ
bản của chất lượng nguồn nhân lực nên có thể dùng nó làm chỉ tiêu tổng hợp đánh giá
chất lượng nguồn nhân lực các quốc gia.
Dựa trên cơ sở các chỉ tiêu đánh nguồn nhân lực trên đây, ta thấy nguồn nhân
lực nguồn nhân lực ở nước ta trong những năm qua đã được nâng lên đáng kể. Tuy
nhiên chất lượng nguồn nhân lực Việt nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH của nước ta, bởi vì nguồn nhân lực nước ta có những hạn chế sau:
+ Về mặt thể lực: Nguồn nhân lực Việt Nam tuy đã được nâng cao về mặt thể
lực, sức khỏe; sự chịu đựng dẻo dai đã được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên người Việt
Nam vẫn chưa thể đáp ứng được những yêu cầu về thể lực của tình hình mới và cịn
kém xa so với các nước trên thế giới và khu vực.
+ Về mặt trí lực: Nguồn nhân lực nước ta tuy đã được đào tạo và nâng cao về
trình độ và tay nghề nhưng nhìn chung, nguồn nhân lực vẫn là người lao động phổ
thông, thủ công chưa qua đào tạo, số lượng lao động phổ thông vẫn chiếm 72%, số
người được đào tạo còn thấp và chất lượng đào tạo vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
công việc công nghệ cao.
+ Về tâm lý: Nhìn chung người lao động Việt Nam vẫn cịn giữ tác phong làm
việc nơng nghiệp lạc hậu, khả năng làm việc độc lập kém, không chịu năng động sáng
tạo, sức ỳ vẫn còn rất lớn.
Để nâng cao chất lương nguồn nhân lực xã hội đáp ứng địi hỏi của tiến trình
CNH, HĐH đất nước, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau :
- Phát triển mạnh mẽ dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, tạo điều
kiện để mọi người dân đều được khám chữa bệnh đầy đủ và đẩy mạnh phong trào thể
dục, thể thao rèn luyện thân thể để nâng cao thể lực cho người Việt Nam, tạo ra một
đội ngũ lao động có sức khỏe và chịu đựng dẻo dai.
- Tăng cường phát triển giáo dục đào tạo. Coi giáo dục đào tạo là quốc sách
hàng đầu, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo để tạo ra được một đội ngũ ngày càng
đơng đảo lao động trí tuệ có trình độ quản lý, chun mơn và kỹ thuật cao có khả
năng đảm nhiệm các chức năng quản lý ngày càng phức tạp và các phương pháp quản
lý tiên tiến, nắm bắt và phát triển các công nghệ hiện đại trong tất cả các lĩnh vực của
sản xuất xã hội.
- Phát triển mạnh kinh tế để đáp ứng được yêu cầu việc làm của người dân, tăng
thu nhập người dân, nâng cao đời sống ổn định xã hội.
- Giáo dục truyền thống tự lực tự cường ham học hỏi của người dân và ý thức
tổ chức kỷ luật, có tác phong làm việc của nền cơng nghiệp hiện đại, phát huy được
những phẩm chất của dân tộc để có thể đáp ứng được yêu cầu của phát triển đất nước.
- Giảm tỷ lệ gia tăng dân số để có tỷ lệ sinh thích hợp với sự phát triển kinh tế
xã hội tiến tới mức sinh ổn định./.
Câu 6: Tại sao nói: Tỷ suất chết trẻ sơ sinh có ảnh hưởng rất lớn đến gia tăng dân số và
phát triển kinh tế - xã hội? Đề xuất các giải pháp nhằm giảm mức chết trẻ sơ sinh.
Chết là một trong các yếu tố của quá trình tái sản xuất dân số, khi nói đến tái
sản xuất dân số, khơng thể khơng nói đến sinh và chết. Nếu gạt bỏ biến động cơ học
thì tăng tự nhiên dân số bằng hiệu giữa số sinh và số chết. Vì vậy việc tăng hay giảm
số sinh và số chết đề làm thay đổi quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng tự nhiên dân số. Để
đánh giá mức chết, người ta dùng nhiều thước đo khác nhau trong đó có tỷ suất chết
đặc trưng theo tuổi là một chỉ tiêu quan trọng dùng để phản ánh thực chất mức chết
giữa các nước khác nhau. Trong tỷ suất chết đặc trưng theo tuổi, người ta đặc biệt
quan tâm đến tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi hay còn gọi là tỷ suất chết của trẻ sơ
sinh.
Tỷ suất chết của trẻ sơ sinh biểu thị số trẻ em chết dưới 1 tuổi trong năm so với
một ngàn trẻ em sinh sống trong cùng năm đó. Tỷ suất chết của trẻ sơ sinh là chỉ tiêu
đặc biệt quan trọng trong phân tích về mức chết của dân số, nó là chỉ báo nhạy cảm
nhất đánh giá mức độ ảnh hưởng của y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Do đó
những thay đổi về mức độ chết của trẻ em có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ chết
chung của dân cư, ảnh hưởng đến tuổi thọ bình quân và tốc độ gia tăng dân số. Các
yếu tố ảnh hưởng đến mức chết chung bao gồm:
- Yếu tố sinh học: Sự khác biệt mức chết có thể do những sự khác biệt sinh học
giữa nam và nữ: cơ cấu giới và tuổi khác nhau, tình trạng sức khỏe, khuyết tật.
- Yếu tố môi trường: Điều kiện mội trường tự nhiên và xã hội là một trong
những nguyên nhân quan trọng tác động trực tiếp tới sức khỏe của người dân và ảnh
hưởng mức chết của người dân nói chung, trẻ sơ sinh nói riêng. Nhìn chung, sống
trong mơi trường trong sạch, ổn định, tuổi tho người dân được nâng cao, cịn sống
trong mơi trường ơ nhiễm, bất ổn, sẽ gây ra nhiều bệnh tật, ảnh hưởng đến sức khỏe
người dân, làm tăng mức chết.
- Trình độ phát triển kinh tế xã hội: Mức sống có liên quan chặt chẽ với trình độ
phát triển kinh tế - xã hội, đến mạng lưới phục vụ công cộng. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: Mức sống càng được nâng cao thì dẫn tới thể lực càng tăng cường, con người
càng có khả năng chống đỡ các loại bệnh tật kéo theo mức chết càng giảm và ngược
lại, mức sống càng thấp, thiếu ăn, suy dinh dưỡng lại là nguyên nhân làm cho mức
chết càng tăng.
- Trình độ dân trí: Trình độ dân trí cao, con người được tiếp nhận các thông tin
về khoa học, y học hiện đại, biết áp dụng kiến thức vào cuộc sống, biết ni dưỡng,
chăm sóc con cái một cách khoa học, góp phần giảm thiểu mức chết. Trình độ dân trí
thấp sẽ ngược lại.
- Trình độ phát triển của y học: Mạng lưới y tế, vệ sinh phòng bệnh; vệ sinh
môi trường công cộng; giáo dục sức khỏe cộng đồng; tăng cường dịch vụ y tế...đều
góp phần làm giảm dịch bệnh, làm giảm mức chết. Nhìn chung y học càng phát triển
thì càng giảm nhanh mức chết.
- Tâm lý - tập quán - lối sống: Yếu tố tâm lý - tập quán - lối sống đồng thời tác
động theo những chiều hướng khác nhau, tùy thuộc vào từng điều kiện hoàn cảnh cụ
thể của từng đất nước, trong từng thời kỳ.
Đó là những yếu tố ảnh hưởng đến mức chết chung của người dân, đối với trẻ
sơ sinh, tỷ suất chết của trẻ sơ sinh sẽ có ảnh hưởng đến sự gia tăng dân số và phát
triển kinh tế xã hội như sau:
- Ảnh hưởng đến gia tăng dân số : Tỷ suất chết của trẻ sơ sinh càng giảm thì gia
tăng dân số càng nhanh và ngược lại tỷ suất chết trẻ sơ sinh càng nhanh thì gia tăng
dân số càng chậm.
- Ảnh hưởng tới phát triển kinh tế - xã hội: Tỷ suất chết trẻ sơ sinh ảnh hưởng
rất lớn tới phát triển kinh tế - xã hội. Nếu tỷ suất chết trẻ sơ sinh càng thấp thì nó thể
hiện một nền kinh tế phát triển và dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân được
đảm bảo và được nâng cao. Nền kinh tế phát triển và trình độ dân trí của người dân
ngày càng được nâng cao, chăm sóc sức khỏe con cái một cách khoa học, giảm tỳ lệ
chết. Và ngược lại nếu tỷ suất chết trẻ sơ sinh cao thì nó thể hiện đó là một nền kinh tế
kém phát triển, lạc hậu, đời sống của người dân quá thấp, các dịch vụ y tế chăm sóc
sức khỏe bà mẹ trẻ em khơng đáp ứng được nhu cầu do đó mà tỷ suất chết trẻ sơ sinh
cao. Ví dụ: Ở các nước Châu Phi có mức chết trẻ sơ sinh cao do nghèo đói và thiếu
dinh dưỡng.
Để giảm mức chết trẻ sơ sinh chúng ta cần thực hiện các giải pháp căn bản sau:
- Thực hiện mạnh mẽ chính sách dân số kế hoạch hố gia đình, giảm tỷ lệ sinh
dần dần tiến tới mức sinh ổ định, dân số ổn định. Hoàn thiện hệ thống dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ sinh sản và thực hiện kế hoạch hố gia đình, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của
người sử dụng về các biện pháp tránh thai. Chú trọng đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất,
trang thiết bị và nâng cao trình độ cán bộ y tế, tham gia cung cấp dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hố gia đình, khuyến khích các tổ chức xã hội và tư nhân
tham gia cung cấp các dịch vụ này. Đẩy mạnh tiếp thị xã hội và bán rộng rãi các
phương tiện tránh thai.
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống cho người dân. Thu
nhập là động lực trực tiếp tác động đến năng suất và chất lượng công việc của người
lao động. Tiền lương, tiền công lao động phải được trả theo đóng góp lao động thực
tế, theo hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo ra sự công bằng, vốn là bản chất của chế độ
ta. Cần tạo ra một cơ chế phân phối thu nhập hợp lý nhằm khuyến khích người lao
động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm. Tiền
thưởng là động lực khuyến khích tính tích cực của người lao động, phân phối tiền
lương, tiền thưởng phải thực hiện theo kết quả lao động của mỗi người và gắn với
hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. Đối với đội ngũ lao động chất xám, cần có
một cơ chế tài chính thích hợp nhằm huy động tiềm năng sáng tạo của họ vào cơng
cuộc cơng nghiệp hố - hiện đại hoá đất nước.
- Tăng cường các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân. Xây dựng và
hồn thiện hệ thống chính sách về bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, thanh
thiếu niên và người cao tuổi. Nâng cao năng lực, hướng dẫn tổ chức, phát động các
phong trào rèn luyện thân thể, bảo vệ sức khoẻ giữ gìn vệ sinh và cải thiện môi trường
sống tại cộng đồng. Ưu tiên triển khai các chương trình, dự án nâng cao chất lượng
cuộc sống đối với các dân tộc thiểu số, vùng nghèo, vùng khó khăn, người di cư và
các nhóm đối tượng thiệt thịi. Tiến hành nghiên cứu về chất lượng dân số Việt Nam
đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
- Tuyên truyền cách sống khoa học, chăm sóc con cái đúng cách để giảm tỷ lệ
chết. Mở rộng và nâng cao chất lượng chương trình giáo dục dân số, sức khoẻ sinh
sản và kế hoạch hố gia đình trong và ngoài nhà trường cho vị thành niên và thanh
niên. Vận động, thuyết phục những người cao tuổi nhắc nhở con, cháu thực hiện
chính sách sinh đẻ có kế hoạch. Phối hợp các cơ quan truyền thông và sử dụng đa
dạng các loại hình tuyên truyền để vận động, giáo dục đến từng gia đình, người dân.
Xây dựng và nhân rộng các mơ hình, điển hình tiên tiến phù hợp với điều kiện và đặc
điểm của từng địa phương, đơn vị và cộng đồng dân cư. Khen thưởng những gia đình
có nhiều thế hệ chấp hành nghiêm túc quy định của Nhà nước về dân số và kế hoạch
hoá gia đình.
Giảm mức chết của trẻ sơ sinh là nghĩa vụ và trách nhiệm thường xuyên của
mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương và mọi gia đình. Nó có ý nghĩa kinh tế, xã hội và
nhân văn rất lớn/.
Câu 7: Hãy nêu các nhân tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động
nơng thơn? Tại sao nói “mơ hình tố chức sản xuất trong nông nghiệp nông thôn của Việt Nam trong
giai đoạn nền kinh tế kế hoạch hố tập trung khơng giải quyết được triệt để vấn đề thiếu đói lương
thực”.
Quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá cùng với việc thực hiện phân công lao
động và hợp tác quốc tế tất yếu đặt ra yêu cầu khách quan phải xây dựng một cơ cấu
kinh tế và một cơ cấu lao động mới, đặt biệt là đối với lĩnh vực nông nghiệp, nơng
thơn. Muốn làm được đều đó, trước hết chúng ta phải nắn bắt được một số nhân tố
chủ yếu tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn như
sau:
- Nhân tố công nghiệp hố, hiện đại hố. CNH, HĐH nơng thơn là một q
trình tất yếu và có tác động quyết định đến q trình chuyển đổi cơ cấu nơng nghiệp,
nơng thơn, giúp cho nông nghiệp đạt năng suất lao động cao và hiệu quả kinh tế cao.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng thơn theo hướng CNH, HĐH là một địi hỏi tất yếu
của việc phát triển mơ hình kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nông thôn
Việt Nam.
- Nhân tố thị trường: Thị trường đóng vai trị quan trọng trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, lao động, nơng nghiệp, nơng thơn. Chính thị trường là mơi trường
cho sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và lao động nơng nghiệp, nơng thơn theo hướng đa
dạng hố và sản xuất hàng hố, hình thành nền nơng nghiệp chun mơn hố. Song,
sự chuyển đổi cơ cấu nơng nghiệp, nơng thơn lại có tác động mở rộng thị trường. Đây
là một quan hệ tương tác rất linh hoạt và nhạy bén.
- Nhân tố khoa học và công nghệ: Khoa học và công nghệ đã và đang trở thành
một lực lượng sản xuất trực tiếp, có tác động hết sức quan trọng đến việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn nước ta. Những thay đổi kỹ thuật và công nghệ
trong sản xuất, một mặt, làm cho năng suất lao động, năng suất cây trồng vật nuôi
tăng lên; mặt khác, cải tiến chất lượng sản phẩm; đặc biệt đối với công nghệ chế biến,
bảo quản sau khi thu hoạch.
- Nhân tố đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất: Đây cũng là một nhân tố góp
phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông nghiệp,
nông thôn. Tuy cơ cấu kinh tế nông thôn là phạm trù khách quan nhưng chúng là các
sản phẩm chủ quan của các hoạt động của con người trong đó có sự tác động của các
mơ hình tổ chức sản xuất. Việc thay đổi mơ hình tổ chức sản xuất, xét về lơgic, sẽ kéo
theo sự thay đổi cơ cấu kinh tế và lao động nơng thơn. Đó là một tất yếu khách quan,
cần phải được nhận thức.
- Nhân tố các chính sách của Nhà nước: Vai trị Nhà nước thơng qua các chính
sách cũng là một nhân tố quan trọng bao trùm, có tác động mạnh mẽ đến quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, lao động nơng nghiệp, nơng thơn. Bởi vì, chính sách kinh
tế là một hệ thống các biện pháp kinh tế thể hiện bằng các văn bản quy định tác động
vào nền kinh tế theo những mục tiêu đã định. Đó là sự can thiệp của Nhà nước vào
nền kinh tế thị trường đang hoạt động một cách khách quan.
Trong những nhân tố trên, nhân tố đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất đã
được minh chứng khá rõ nét qua kết quả sản xuất lương thực của nước ta gần đây, từ
một nước thiếu đói lương thực, Việt Nam vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo
đứng hàng thứ hai, thứ ba trên thế giới. Chính vì vậy có người đã nhận định: “mơ hình
tố chức sản xuất trong nông nghiệp nông thôn của Việt Nam trong giai đoạn nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung khơng giải quyết được triệt để vấn đề thiếu đói lương thực”.
Thật vậy, trong một khoảng thời gian rất dài, nền kinh tế quốc dân Việt Nam
nói chung, kinh tế nơng nghiệp nói riêng được xác lập và hồn thiện theo mơ hình của
nền kinh tế kế hoạch hố tập trung. Sự định hướng theo hướng ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng, nhấn mạnh hướng cân đối tại chỗ, tập trung xây dựng kinh tế quốc
doanh, kinh tế tập thể...theo các hình mẫu của các nước XHCN đã tác động sâu sắc và
trực tiếp đến việc hình thành cơ cấu kinh tế nông thôn. Kết quả là sau nhiều năm xây
dựng và phát triển kinh tế, kinh tế nông thôn vẫn cịn trong tình trạng: chăn ni chưa
phát triển mạnh, chưa cân đối với trồng trọt. Trong trồng trọt, cây lương thực vẫn cịn
chủ yếu, trong đó, cây lúa chiếm tỷ trọng lớn. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
vẫn phát triển chưa mạnh, dịch vụ sản xuất và đời sống chưa đáp ứng kịp nhu cầu của
cuộc sống thực tế địi hỏi.
Dưới góc độ sở hữu, mơ hình tổ chức sản xuất trong nông nghiệp nông thôn
trong cơ chế KHH tập trung được tồn tại dưới hai hình thức tổ chức chủ yếu: mơ hình
kinh tế quốc doanh và mơ hình kinh tế tập thể. Cơ chế kinh tế KHH tập trung đã chi
phối toàn bộ các mối quan hệ cũng như các hoạt động kinh doanh của chúng. Theo cơ
chế này, mọi hoạt động của các doanh nghiệp đều được KHH và được chỉ đạo từ trên
xuống. Các cơ sở hoàn toàn lệ thuộc vào sự chỉ đạo của cấp trên, tính sáng tạo, chủ
động trong các hoạt động sản xuất kinh doanh không được phát huy và khơng có đất
để tồn tại. Trong tình trạng đó, mặc dù Nhà nước có nhiều cố gắng tập trung sức cho
sự phát triển của nông nghiệp nhưng hiệu quả của mọi sự đầu tư đều đạt rất thấp.
Trong nhiều năm (1960 – 1980) sản xuất nông nghiệp chỉ xoay quanh vấn đề giải
quyết lương thực nhưng vẫn không giải quyết được (thiếu, đói vẫn thường xun xảy
ra). Cơ cấu nơng nghiệp theo hướng tập trung cho lương thực tạo ra sự mất cân đối
như trên là tất yếu.
Đảng và Nhà nước đã chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo mơ hình kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Rõ ràng, công việc này bắt đầu từ đổi mới trong nội dung tổ chức và quản lý
của các mơ hình kinh tế của nơng nghiệp - đổi mới khốn sản phẩm trong các hợp tác
xã nông nghiệp. Chỉ thị 100/CT của Ban Bí thư, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Nghị
quyết Trung ương 5 chính là những khâu đột phá mới. Các mơ hình tổ chức sản xuất
mới đã được hình thành và có tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và lao động nông thơn, nơng nghiệp ở nước ta.
Tiến trình đổi mới hiện nay không những thừa nhận kinh tế hộ, kinh tế tư nhân
mà còn sửa đổi cả kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể theo những nội dung mới. Nó
khơng chỉ thừa nhận các thành phần kinh tế mà còn từng bước xác lập sự bình đẳng
giữa chúng trong cơ chế thị trường. Chính những thay đổi này đã cho phép các doanh
nghiệp, ở các thành phần kinh tế khác nhau chủ động trong kinh doanh, khai thác hết
các khả năng tiềm tàng để thu được lợi nhuận cao. Lợi ích kinh tế không chỉ là động
lực để các nhà kinh doanh cải tiến tổ chức và quản lý để tạo ra năng suất lao động và