Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tính dục trong "Cánh đồng bất tận" - Nguyễn Ngọc Tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.63 KB, 20 trang )


Trang 1

MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang

MỤC LỤC

1

1. Đặt vấn đề.

2

2. Nội dung.

3

2.1. Tiếp cận tác phẩm văn chương từ góc nhìn phê bình xã hội học.

3

2.2. Lược sử về yếu tố tính dục trong văn chương Việt Nam dưới góc
nhìn xã hội học.

5

2.3. Nguyễn Ngọc Tư với vấn đề “tính dục” trong văn chương.


7

2.4. Tính dục trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn
Ngọc Tư - từ góc nhìn phê bình xã hội học hiện đại.

7

3. Kết luận

17

TÀI LIỆU THAM KHẢO

19


Trang 2

1. Đặt vấn đề.
Bàn về vấn đề tính dục, không chỉ ở trong văn chương, mà ngay ở trong cuộc
sống hiện hữu của chúng ta hiện nay được xem như là vấn đề tế nhị nhưng cũng rất
“nóng”, dường như bất cứ tác phẩm nào có liên quan đến tính dục được trình làng thì
ngay lập tức nhận được những luồng ý kiến khác nhau!. Tại sao vậy? Tính dục là nhu
cầu, là bản năng của con người. Xét đến cùng, chúng ta khơng ai là khơng có nhu cầu
về tính dục. Tuy nhiên, là vấn đề tế nhị, “tính dục” – vấn đề mang tính “phịng the”
ấy từ xưa rất ít được bàn tới, trong đó có văn chương. Trong xu thế của một xã hội mở,
văn học thời kỳ đương đại dường như đã cởi mở hơn với vấn đề “tính dục”, thậm chí
được bàn đến rất nhiều, nó xuất hiện như một trào lưu “văn chương tính dục” hay
“văn học sex”... Từ đó, dấy lên những làn sóng tiếp nhận mạnh mẽ và kèm theo đó là
sự lên án, phê phán những tác phẩm văn chương này. Cho đến giờ, những tranh luận

vềvấn đề “tính dục” trong văn chương ấy vẫn đang diễn ra gay gắt và dường như chưa
có hồi kết.
Bởi vậy, trong q trình tiếp nhận, nghiên cứu và phê bình văn chương hiện
nay, việc ứng dụng lí thuyết phê bình xã hội học hiện đại sẽ giúp độc giả có cách nhìn
mới về văn chương. Đặc biệt là văn chương có liên quan đến vấn đề tính dục.
Từ góc nhìn phê bình xã hội học trong nghiên cứu và phê bình văn chương một trong những góc nhìn mới mà các nhà phê bình hiện nay thường tiếp cận khi đi
sâu vào khám phá tác phẩm. Tiếp nối nền tảng ấy, trong bài viết này, tôi tập trung đưa
ra định hướng tiếp cận vấn đề “tính dục” –trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của
nhà văn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn phê bình xã hội học hiện đại, để từ đó khắc sâu
thêm giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm và cách nhìn mới của nhà văn về vấn đề
nhạy cảm, mang tính thế sự trong xã hội hiện nay: Tính dục. Cũng để từ đó giúp cho
độc giả tránh được cái nhìn thiển cận khi tiếp cận một tác phẩm văn chương với nội
dung liên quan.


Trang 3

2. Nội dung.
2.1. Tiếp cận tác phẩm văn chương từ góc nhìn phê bình xã hội học.
Từ quan điểm Xã hội học, các nhà phê bình xem văn học là một hoạt động xã
hội. Họ đặt văn học trong bối cảnh hiện thực xã hội để lý giải, phân tích. Văn học được
tìm hiểu trong mối quan hệ với các hình thái khác như kinh tế, chính trị, tơn giáo, đời
sống xã hội. Theo nhà nghiên cứu Phương Lựu “xã hội không phải chỉ là một vế trong
mối quan hệ với văn học nghệ thuật, mà đã biến thành một điểm xuất phát, một mũi
tiếp cận, một con đường để nghiên cứu văn học nghệ thuật” (Phương Lựu (1999),
Mười trường phái lí luận phê bình văn học phương Tây đương đại, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, tr 240). Phương pháp này có nhiều biến thái khác nhau nhưng đều xoay quanh cái
trục tiếp cận văn học từ xã hội, lịch sử, họ đều xem văn học là một hoạt động xã hội,
do đó đã đặt văn học trong bối cảnh hiện thực xã hội rộng lớn để phân tích, lý giải,
triển khai mối quan hệ giữa nó với các hình thái hoạt động xã hội khác đặc biệt là từ

góc độ đạo đức, và từ đó cũng khơng qn xác định vị trí và vai trị đặc thù của nó
trong tồn bộ đời sống xã hội nói chung.
Từ đây ta thấy khi tiếp cận tác phẩm văn chương từ góc nhìn phê bình Xã hội
học khơng phải chỉ nói văn học gắn liền với xã hội vì cơng chúng bạn đọc một cách
chung chung mà trái lại cần phải tìm hiểu nhu cầu và thị hiếu của những bộ phận xã
hội khác nhau để xác định phạm vi. Một trong những vấn đề phê bình Xã hội học nói
đến là: “Hành động đọc văn học vừa có lợi cho việc hịa hợp thành một khối xã hội, lại
vừa khơng có cách nào thích ứng với xã hội. Nó tạm thời cắt đứt mối liên hệ giữa cá
nhân người đọc với thế giới chung quanh nhưng lại làm cho người đọc xây dựng được
mối liên hệ mới với vũ trụ trong tác phẩm” (Phương Lựu (1999), Mười trường phái lí
luận phê bình văn học phương Tây đương đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr 257.). Phê
bình xã hội học cũng đã đặt ra vấn đề tiêu thụ văn học ở người đọc, đã lý giải về động
cơ, tâm thế và điều kiện của người đọc như ở mỹ học tiếp nhận nhưng những yếu tố
này được đặt trong mối quan hệ mật thiết với xã hội. Hay nói cách khác, phê bình Xã
hội học quan tâm đến những điều kiện bên ngồi của người đọc, của sự đọc, cịn Mỹ


Trang 4

học tiếp nhận nghiên cứu quá trình đọc, những yếu tố nội tại của hành động đọc và về
sau còn mở ra ở lý thuyết cộng đồng diễn giải. Từ đây, chúng ta thấy phê bình Xã hội
học là một phương pháp ngoại quan, lấy cái xã hội như một ngun nhân để giải thích
văn học. Vì vậy, phương pháp này chú trọng vào những liên hệ xã hội và những hiện
tượng xã hội của những thời đại nhất định. Phê bình Xã hội học cịn được vận dụng để
phân tích tác phẩm trên nền tảng của đời sống xã hội và cũng là để nghiên cứu sự tác
động của văn học đến cơng chúng, độc giả.
Phê bình xã hội học là trường phái phê bình có lưu vực rộng nhất và giòng chảy
dài nhất so với những trường phái phê bình khác.Việc vận dụng phương pháp phê bình
Xã hội học trong nghiên cứu văn học ở nước ta được sử dụng nhiều và đã có những
thành cơng nhất định qua những cơng trình nghiên cứu về tác phẩm của Nguyễn Trãi,

Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... Tuy vậy, cũng phải thấy rằng, ở một số cơng trình
nghiên cứu, q trình vận dụng phương pháp này đã có chuyển biến theo từng trạng
thái, qua mỗi người đọc cụ thể. Thậm chí có những lúc nó đã chuyển sang Xã hội học
dung tục, chịu sự chi phối mạnh mẽ từ các quan điểm chính trị, đạo đức. Từ thực tế
vận dụng phương pháp phê bình Xã hội học trong nghiên cứu, tiếp cận văn chương,
chúng ta cần nói đến hai trạng thái là phê bình xã hội học truyền thống và phê bình xã
hội học hiện đại . Ở trạng thái phê bình xã hội học truyền thống, người đọc xem xét tác
phẩm theo hệ thống các chuẩn mực thẩm mỹ đã hình thành, được cộng đồng chấp
nhận và bác bỏ những gì đối ngược với các chuẩn mực thẩm mỹ đó. Trách nhiệm của
người đọc ở đây là một chỉnh thể hội tụ các phẩm chất từ tình cảm đến lí trí, từ thị hiếu
đến lí tưởng, từ cảm xúc đến nhận thức và sáng tạo nghệ thuật. Các chuẩn mực thẩm
mỹ của tác phẩm có thể là sự biểu hiện của các phạm trù khách thể thẩm mỹ. Tiếp
nhận khách quan thường đối sánh cái hệ thống của tác phẩm văn học với một hệ thống
đã cho trước rồi đưa ra lời phán xét trên cơ sở sự phán xét khác biệt đã tìm thấy. Nếu
phê bình xã hội học truyền thống nặng tínhquy phạm và quyết định luận thì phê bình
xã hội học hiện đại cởi mở hơn, đã làm mới lại lịch sử văn chương bằng một kiếm tìm
mở rộng, thơng thái và nhạy cảm về phương diện xã hội. Mặt khác, nhờ những tìm tịi
trên thực tế văn bản mà nó tiếp cận với ký hiệu học văn học và phân tâm học.


Trang 5

2.2. Lược sử về yếu tố tính dục trong văn chương Việt Nam dưới góc nhìn
xã hội học.
Tư tưởng Nho giáo – cái nôi của chủ nghĩa khắc kỷ, thì vấn đề tính dục trong
quan điểm của Nho giáo là một điều cấm kị. Nó được xem như là sự xấu xa, dơ bẩn.
Tuy nhiên, tính dục như đã nói ở trên là bản năng, là nhu cầu, bởi lẽ đó nên dù có cấm
đốn thế nào đi chăng nữa thì nó vẫn được nhắc đến một cách khéo léo và tinh tế.
Trong văn học dân gian, nhất là trong ca dao - dân ca và truyện tiếu lâm, vấn đề
tính dục tuy bị lễ giáo cũng như đạo đức phong kiến kìm hãm nhưng được thể hiện

một cách khéo léo và không kém phần sâu sắc.
- “Đêm trăng thanh, anh mới hỏi nàng.
Tre non đủ lá, đan sàng nên chăng?”
nhưng cũng có lúc rất giản dị, thẳng thắn, trung thực không màu mè, chải chuốt:
-“Con gái mười bảy mười ba
Đêm nằm với mẹ, khóc la địi chồng
Mẹ giận mẹ phát ngang hơng:
- Đồ con chết chủ địi chồng thâu đêm!”.
Đến giai đoạn văn học trung đại, các nhà văn cũng khơng ngần ngại thể hiện
vấn đề tính dục. Vấn đề ấy cũng được thể hiện một cách đầy sáng tạo, họ không miêu
tả trực tiếp mà khơi gợi nó qua hệ thống ngơn từ giàu tính hình tượng và sắc thái biểu
cảm. Nguyễn Du – người con của những lễ giáo nho gia, thế mà khi viết truyện Kiều
ơng cũng khơng ngần ngại thể hiện bản năng tính dục của con người:
- “Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.”
- “Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”


Trang 6

Bởi thế mà các nhà nho xưa, khi bàn về đạo đức, nhân cách của Kiều đã đúc kết
thành hai câu ca dao “Đàn ông chớ kể Phan Trần/ Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý
Kiều”.
Đặc biệt, Bà chúa thơ Nôm - nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương đã đề cập rất nhiều đến
vấn đề tính dục trong các sáng tác của mình: Thân em vừa trắng lại vừa trịn (Bánh
trơi nước); Ong non ngứa nọc châm hoa rữa (Mắng học trị dốt); Qn tử có thương
thì đóng cọc/Chứ đừng mân mó, nhựa ra tay (Quả mít), hay trong bài thơ “Lấy chồng

chung” đã nói lên khát vọng tính dục và khát vọng hạnh phúc một cách sâu sắc:
“Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Năm chừng mười họa hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần có cũng khơng.”
(Bản khắc 1914)
Đến giai đoạn văn học hiện đại và hậu hiện đại thì vấn đề tính dục dường như là
xu hướng chủ đạo của các cây viết trẻ. Trong văn xi, khi nói đến sự thốt li khỏi lễ
giáo nho gia, để thể hiện cảm xúc, tình cảm cá nhân, thể hiện khát vọng tình yêu, hạnh
phúc chúng ta không thể không nhắc tới các cây bút của nhóm “Tự lực văn đồn. Đặc
biệt phải kể đến “Ơng vua phóng sự đất Kinh bắc” - Vũ Trọng Phụng, tính dục được
khắc họa một cách cụ thể và sâu sắc trong “Số đỏ”, “Làm đĩ”...
Văn học Việt Nam đương đại, với những biểu hiện của nó, có thể thấy, thân xác
hiện hữu khá phổ biến. Sau 1986, hầu như, trong thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết và cả
hồi kí, vấn đề thân xác, tính dục được đề cập một cách khá rõ. Tính dục trở thành đề
tài, thành cảm hứng, thành phương tiện cho những ý đồ nghệ thuật. Chúng ta lại bắt
gặp vấn đề tính dục trong các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị
Hồi, Nguyễn Bình Phương, Thuận, Nguyễn Đình Chính, Võ Thị Hảo, Y Ban, Đỗ
Hồng Diệu,...Có đơi khi, những tác phẩm lấy sex, thân thể và tính dục như một mục
đích, có tính trá nguỵ cho những chiến lược bên ngồi văn chương, giả mạo văn
chương.


Trang 7

Những liệt kê có phần hạn chế, chưa đầy đủ trên đây, thiết nghĩ, đã minh chứng
cho một khuynh hướng sáng tác mới trong văn học hiện nay - Khuynh hướng tính dục.
2.3. Nguyễn Ngọc Tư với vấn đề “tính dục” trong văn chương.
Năm 2005, tác giả Nguyễn Ngọc Tư cho ra đời “đứa con đẻ tinh thần” - truyện
ngắn “Cánh đồng bất tận” đã tạo nên cơn “địa chấn” đối với các nhà phê bình, nhà

văn và độc giả trong và ngoài nước. Đến tháng 9 năm 2012, độc giả lại một lần nữa
“phát sốt” với cuốn tiểu thuyết đầu tay của chị - tiểu thuyết “Sông”. Và mới đây là
tiểu thuyết “Biên sử nước” – 2020. Ba tác phẩm - ba khoảng thời gian đến với độc giả
khác nhau, nhưng khi đọc những trang văn ấy của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta đều cảm
nhận được ở chị một phong cách không trộn lẫn vào bất cứ nhà văn đương đại nào!
Một lối viết chậm rãi, nhẹ nhàng, những trang viết như những dịng “nhật ký” của
chính nữ nhà văn ghi chép lại những ký ức mà chị đã từng nếm “vị mặn”. Sự lạnh lùng
trong từng câu chữ đã khiến cho những tác phẩm của bà, đặc biệt là tác phẩm “Cánh
đồng bất tận” phản ánh một cách sâu sắc tư tưởng mà nữ nhà văn muốn truyền tải:
Cuộc sống của những mảnh đời, những số phận lênh đênh, chảy trơi theo dịng đời
xi ngược. Đồng thời qua đó thể hiện được cách nhìn mới, một quan niệm mới của
nhà văn về vấn đề tính dục mà các độc giả cũng như các nhà nghiên cứu quan tâm khi
đưa vấn đề tế nhị ấy vào văn chương. Có thể nói Tính dục – một vấn đề mang tính thế
sự trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”.
2.4. Tính dục trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư
- từ góc nhìn phê bình xã hội học hiện đại.
“Tính dục là bản năng gốc của con người, là yếu tố sâu nhất trong vô thức,
điều khiển sự hoạt động của vô thức và ảnh hưởng đến hành vi hữu thức của con
người. Có lẽ cũng chính vì vậy mà tính dục thường được thể hiện thành các biểu tượng
thẩm mĩ trong nghệ thuật.” (Vũ Thị Trang.(2020) - Phê bình phân tâm học phía của
những ám ảnh nghệ thuật, trang 101).
Tính dục trong cuộc sống con người chính là những nhu cầu giải phóng, bày tỏ


Trang 8

bản thể, bản năng, khát vọng thành thực hay nhu cầu ham muốn của bản thân. Tính
dục khơng đơn thuần là chuyện sex mà rộng hơn giải toả nhiều vùng bí ần, kỳ bí trong
đời sống con người. Nhu cầu của đời sống cũng chính là nhu cầu của văn chương. Và
đó cũng là xu hướng dân chủ hố của văn học hiện nay.

Trong bài trả lời phỏng vấn với Tiền Phong cuối năm ( do
Trần Hoàng Thiên Kim (thực hiện), trước câu hỏi “Chị đã sống trong tâm trạng như
thế nào cùng các nhân vật của mình trong suốt hành trình câu chuyện? Nguyễn Ngọc
Tư bộc bạch rằng: “Trong cõi văn chương, tôi là đứa cực kỳ cô đơn. Nên tơi rất dễ
dàng để nhân vật của mình sống trong cô đơn tận cùng, trong hoang hoải, chán
chường. Tôi, cũng như những con người trong “Cánh đồng bất tận”, sống giữa nhiều
người, sống giữa cộng đồng, sống giữa biển người nhưng có cảm giác như bị bỏ
rơi…”.
Phải chăng, chính sự ám ảnh về nỗi cơ đơn, chị đã thổi ẩn ức ấy vào chính nhân
vật của mình trong Cánh đống bất tận? Hay truyện ngắn ấy được khơi nguồn cảm
hứng từ con người, từ thiên nhiên, hay cảm thức của nữ nhà văn về vấn đề tính dục?
vấn đề mà khi viết ra đều nhận khơng ít những phản ánh của dư luận? Dù chịu sự tác
động nào từ ngoại cảnh hay nội tâm của chính nhà văn đi chăng nữa thì chúng ta vẫn
thấy ở nhà văn một lối văn giản dị, nhẹ nhàng như được bước ra từ những trang “nhật
ký” chứa chan cảm xúc và nỗi niềm trắc ẩn! Với Cánh đồng bất tận, khi tiếp cận tác
phẩm, ngồi việc tìm hiểu các vấn đề phản ánh về cuộc sống của con người miền sông
nước, thì một góc nhìn khác để làm nổi bật tư tưởng, quan điểm của nữ nhà văn
Nguyễn Ngọc Tư đó là tiếp cận vấn đề tính dục – một vấn đề mã xã hội luôn quan tâm
được khắc họa trong tác phẩm từ góc nhìn phê bình xã hội học hiện đại.
Từ góc nhìn phê bình xã hội học, chúng ta có thể nhận thấy vấn đề tính dục
được nhà văn thể hiện qua hệ thống các nhận vật có liên quan. Nữ nhà văn đi sâu vào
phần bản năng tính dục của mỗi nhân vật bởi những tác động, mặc cảm và nỗi ám ảnh
khác nhau. Bởi thế khi tiếp cận, tìm hiểu tác phẩm “Cánh đồng bất tận” nếu không
hiểu được sâu xa của mạch nguồn cảm xúc cũng như những ẩn ức được nữ nhà văn


Trang 9

khắc họa qua hệ thống nhân vật của mình thì người đọc dễ rơi vào sự võ đốn, quy
chiếu theo đạo đức truyền thống. Phải chăng, đó là cái nhìn thiển cận trong xã hội hiện

nay. Sự tham gia của yếu tố tính dục trong q trình xây dựng tác phẩm khiến cho cốt
truyện càng trở nên hấp dẫn và cuốn hút người đọc.
Khi xây dựng hình tượng nhân vật người vợ của Út Vũ -“người đàn bà có cái
cười làm lấp lánh cả khúc sông” thường “thở dài khi tắm, khi nước trôi dài trên làn
da trắng như bông bưởi” trong những ngày dài chồng đi chuyến. Chắc hẳn là Nguyễn
Ngọc Tư không thể không nghĩ tới đạo vợ chồng cũng như vai trò trách nhiệm của của
vợ đối với chồng con. Chắc nhà văn phải đấu tranh tư tưởng gay gắt lắm mới dám nói
lên điều này. Mấy ai trong chúng ta khi đọc tác phẩm chú ý đến cái “thở dài khi tắm”
của người vợ đang rạo rực, đang khát khao – một bản năng vốn có của con người! Và
rồi chính khát khao ấy, một ngày chị đã “oằn uốn người” dưới tấm lưng của người
đàn ơng bán vải dạo. “Họ cấu víu. Vật vã. Rên xiết”. Từ góc nhìn của đạo đức xã hội
bấy lâu nay đã hằn in trong tư tưởng của chúng ta chắc hẳn chúng taluoon cho rằng
người đàn bà ấy là lăng loàn, là xấu xa. Hơn thế nữa, điều mà độc giả đau đáu nhất về
hành động ngọai tình của người mẹ ấy đã tác động manh đến cảm xúc và tâm hồn của
hai đứa con thơ dại, bởi chưa hiểu hết về cảm xúc và tính dục để rồi hình ảnh người
mẹ ngoại tình với gã bn vải, hình ảnh mảnh vải đỏ cứ ám ảnh trong giấc mơ của
Nương: “Một bữa tôi chiêm bao, chẳng đầu chẳng cuối gì, chỉ thấy vía má giãy dụa
trong tấm vải đỏ lạ lùng kia nhưng nó thít chặt, riết lấy, siết dần cho tới khi má thành
một con bướm nhỏ, chấp chới bay về phía mặt trời”,... Khi xây dựng hình tượng nhân
vật này, chắc hẳn nữ nhà văn ln trăn trở về vai trò của người vợ, người mẹ. Thế
nhưng người vợ ấy, người mẹ ấy lại bỏ chồng, bỏ con để chạy theo tiếng gọi của ái
tình, của nhục dục. Chính vì điều này mà khi tác phẩm xuất hiện trên văn đàn đã tạo ra
khơng ít những làn sóng phản ánh về đạo nghĩa vợ chồng, về đạo đức con người theo
sự quy kết về đạo đức nho giáo đã in sâu trong nhận thức người Việt. Tuy nhiên, xét
về góc độ văn chương, góc độ sáng tạo nghệ thuật, phải công nhận rằng Nguyễn Ngọc
Tư đã rất sâu sắc khi đã khám phá được khát vọng thẳm sâu, những ẩn ức trong tâm
hồn của người vợ, người mẹ ấy. Để rồi, khi chiếu từ góc nhìn phê bình xã hội học,


Trang 10


cũng như Phân tâm học, thì ắt hẳn rằng đó là khát vọng, là ham muốn có đáng lên án
mạnh mẽ đến như vậy khi tác phẩm mới xuất hiện...???
Cùng khát vọng ấy, nhưng có phần mãnh liệt hơn trong cách miêu tả của nhà
văn, người đàn bà Bàu Sen - người đàn bà bị chồng bỏ để đi theo vợ bé. “Ba năm vắng
bóng đàn ơng”, thiếu vắng sự chung đụng thể xác đã lâu, điều đó khiến cho bản năng
tính dục ln trỗi dậy trong chị: “một mình nhìn gương, tự ve vuốt và yêu lấy mình”…
những cử chỉ, hành động ấy khiến chúng ta không khỏi chạnh lòng cho nỗi niềm của
người đàn bà ấy. Bởi thế, một buổi chiều, khi anh thợ mộc Út Vũ xuất hiện, như cơn
mưa rào bất chợt đến giữa mùa đại hạn, cái khát khao trong bản năng của người đàn bà
Bàu Sen lại càng trỗi dậy mãnh liệt. Chị đã khơng kìm nén được cảm xúc, cái khát
khao mãnh liệt đã khến chị có hành động chiêm ngưỡng trộm cảnh Út Vũ tắm, khi
nhìn thấy làn“nước mỏng tang tràn qua những thớ thịt đỏ au”, đã khiến “chị chợt giật
thót người, cài vội chiếc nút áo bung ra vì không chịu nổi đôi vú căng tức”. Cái khát
khao mãnh liệt, cái cảm xúc dâng trào khiến chị chủ động, chị khơng để ý gì nữa, bởi
“chị đang ưng bụng, ngây ngất tràn trề trong mắt”. Rồi những lúc “bưng nước ra”,
những lúc “kêu nghỉ tay ăn bánh, anh thợ à” là “tiếng bào trượt trên ván ọt ẹt ngừng
lại, buổi trưa im phắc. Và đống dăm bào bị dẫm tạo ra âm thanh lạo xạo lao xao lào
xào”. Điều độc đáo trong cách xây dựng truyện của Nguyễn Ngọc Tư là ở chỗ nhà văn
để những cảm nhận ấy được thể hiện qua góc nhìn của người con gái - Nương. Bởi
thế, lời của Nương “Chúng tôi biết chị đang ở ngay chỗ cha” mang dư vị của sự xót
xa, tủi hổ cho chính nhân vật...
Thế đấy, hai người đàn bà, hai người vợ, hai hoàn cảnh khác nhau, nhưng ở họ
đều có một điểm chung đó là khát khao, là những nhu cầu giải phóng, bày tỏ bản thể,
bản năng, khát vọng hay nhu cầu ham muốn của bản thân. Qua đó cho chúng ta thấy,
tính dục được đề cập khi nói về hai người đàn bà trên không đơn thuần là chuyện sex
mà rộng hơn giải toả nhiều vùng bí ần, kỳ bí trong đời sống con người.
Với Sương thì lại khác, nhân vật được giới thiệu đã ẩn chứa nghề nghiệp đầy
tính dục: “Tơi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười, “Làm đĩ”. Rồi có lẽ chị áy náy vì



Trang 11

q sỗ sàng với chúng tơi, chị vị đầu Điền “chắc mấy cưng khơng biết đâu…”. Nếu
như, tính dục gắn với người vợ Út Vũ, người đàn bà Bàu Sen là tính dục của khát
vọng, của nhu cầu ham muốn của bản thân. Thì tính dục được nhà văn khắc họa với
Sương thì lại khác, dường như nó gắn liền với cái nghề, với những trận đánh ghen thừa
sống thiếu chết! Nhưng với tâm lí của một con người làm cái nghề “làm đĩ” ấy vẫn
“cần nhiều hơn, nhiều hơn, nhiều khủng khiếp, tưởng như chị có thể ngốn ngấu, bào
mịn tất cả đàn ơng trên thế gian này. Với chị khi bước vào con đường làm cái
nghề“làm đĩ” ấy “Lúc đầu là kiếm sống, nhưng lâu dần, sự chung đụng của thể xác
làm chị nghiện”. Tại sao vậy? Bởi Tính dục trong cuộc sống con người chính là những
nhu cầu giải phóng, bày tỏ bản thể, bản năng, khát vọng thành thực hay nhu cầu ham
muốn của bản thân, Sương cúng không ngoại lệ, không vượt ra khỏi nhu cầu ham
muốn của bản thân. Để rồi chị bị hớp hồn bởi “người đàn ông đang vồng lưng trong
nắng sớm”, với bản tính của “gái ngành” – tên gọi chung hiện nay của những cô gái
bán dâm không ngần ngại khi nói với chị em Nương, ba mấy cưng “đẹp trai dễ sợ”.
Chị “tìm mọi cách để sà vào”. Và rồi trong cái chịi nhỏ trên bờ, nơi có người đàn ông
tuổi tứ tuần ấy, phát ra “tiếng sột soạt rạo rực”, có khi chị táo tợn tách hai đứa nhỏ
cùng chiếc ghe để lên đó. Rồi “Chị bước ra khỏi chịi, khoan khối vươn vai. Sự ưng
ý, mãn nguyện lấp lánh trên khoé mắt. Khuôn mặt chị tràn ngập ánh sáng”.
Cũng phải nói rằng, chính bản năng tính dục và tình thương chớm nở của chị đã
cứu gia đình Út Vũ khỏi bị tiêu hủy bầy vịt. Trước những đưa đẩy lả lơi đầy chủ ý của
chị “Chị đon đả, chèo kéo hai người đàn ông lạ về phía mình, “Mấy anh thương em
với, nỡ nào để cả nhà em chết đói (...) ” đã khiến bản năng tính dục nơi hai người đàn
ơng cán bộ ấp xã đã bùng phát: “Một người nuốt nước miếng, ánh nhìn ham muốn như
mũi kim thò ra khỏi bọc, lơ láo. Mắt ông ta lột trần chị”. Đến đây chúng ta không thể
không đặt câu hỏi tại sao tác giả lại để cho Sương mang vịt đi “giao tiếp” mà không
để cho Út Vũ hành động? Đó chính là dụng ý, là ý đồ của nhà văn, qua chi tiết này nhà
văn muốn đề cập tới một hiện thực trong thực tế ngày nay mà cả xã hội đang quan tâm

đó là “dùng tính dục để giải quyết vấn đề”. Và nhà văn đã để bản năng gốc của Sương
– bản năng tính dục giải quyết:“chị...làm đĩ quen rồi, mấy chuyện này nhằm bà gì mấy


Trang 12

cưng buồn”. Nhưng cái thấu xương trong cảm xúc của chúng ta có lẽ là ở chi tiết để
bảo vệ cho cuộc sống gia đình Út Vũ mà Sương đã hi sinh bản thân, qua đêm cùng
những tên cán bộ, nhưng cái chị nhận được sau tấm chân tình ấy là một cái nhìn miệt
thị: “sao, hồi tối vui không? Chắc họ tưởng cô là vợ tôi nên hứng thú lắm hả? cứ để
họ nghĩ vậy…”. Cịn gì đau đớn hơn, câu nói ấy như xát muối vào trái tim đang dần
hồi sinh của chị, để rồi chị phải thốt lên “cha mấy cưng ác dễ sợ”, và bến đỗ nơi con
thuyền Út Vũ ấy khơng cịn là bến đỗ lý tưởng của chị. Và chị đã ra đi! Sương đi đâu?
Cuộc đời sẽ đưa chị về đâu? Hay chị lại trở về với cái nghề cũ – nghề làm đĩ? Đến
đây, bản thân tôi- người viết bài tểu luận này cũng khơng khỏi chạnh lịng cho số phận,
cho tương lai mờ mịt của Sương. Bất chợt, tôi sực nhớ lại những vần thơ trong bài
“Tiếng hát Sông Hương” của nhà thơ Tố Hữu:
“Trời ơi em biết khi mô
Thân em hết nhục dày vị năm canh.
Tình ơi gian dối là tình
Thuyền em rách nát cịn lành được khơng?
Nhân vật trung tâm của vấn đề tính dục trong tác phẩm được nhà văn khắc họa
qua hình tượng nhân vật Út Vũ. Chính cái nghèo, cái thiếu thốn và cả những ham
muốn bản thân mà ông đã mất vợ. Vốn là mẫu người đàn ông chất phác, làm lụng vất
vả để chăm lo vợ con, với ý nghĩ giản đơn: “Chỉ cần mình hết lịng u thương, gánh
hết sự kiếm sống nhọc nhằn thì sẽ được đền đáp xứng đáng”. Ơng chăm lo cho gia
đình từ những việc nặng nhọc đến những việc vô cùng nhỏ nhặt “ để suốt một mùa
mưa, chân má tơi khơng bị dính sình bùn”. Thế nhưng sự chăm lo ấy chưa đủ để níu
giữ người vợ của mình. Người vợ của ơng đã khơng vượt qua được cám dỗ của phù
hoa của ái tình đã rũ bỏ chồng con để đi theo người đàn ông khác. Cũng từ đó ơng trở

nên lạnh lùng, vơ cảm và muốn trả thù tất những người phụ nữ. Bởi vì “Với nỗi đau
sâu hoắm sẵn trong lịng”. Mà ơng trở nên thờ ơ, vơ cảm, ơng cịn lạnh lùng và tàn
nhẫn, muốn trả thù đời bằng việc đến với những người đàn bà gieo cho họ một tình
cảm rồi rũ áo ra đi. “Với những người đàn bà sau nầy, cha tơi tính tốn rất vừa vặn,
sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng, và bỏ rơi họ đúng lúc”. Lời nhận xét


Trang 13

ấy từ chính người con của mình thì cịn gì chân thực hơn? Cái độc đáo của nhà văn
Nguyễn Ngọc Tư là ở chỗ, khi nói về tính dục của Út Vũ sau bi kịch cuộc đời là ông
dửng dưng pha lộn chút dã tâm, như khơng có chuyện gì: “Nhạt nhẽo hơn cả việc quan
hệ theo mùa, theo bản năng, trong cha tơi khơng cịn một chút cảm xúc nào, nét mặt
ngập tràn những rắp tâm, chưa gặp mặt đã tính chuyện phụ phàng”. Trong con mắt
Điền: “Cha làm chuyện đó thì cũng giống như mấy con vịt đạp mái”, vơ cảm và lạnh
lùng, chẳng có tính người. Với ai ơng cũng có một sự tính tốn. Trong cuộc chạy trốn
sau những trận đánh ghen thừa sống thiếu chết, Sương đến với Út Vũ tưởng rằng cuộc
đời ông sẽ khác, sẽ trở về với hình ảnh một người cha ngày nào trong mắt của Điền và
Nương. Thế nhưng sau cuộc ái ân ơng lại trả tiền sịng phẳng: “Tơi trả cho hồi
hơm…rồi cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no
nê trong mắt”. Trong mắt ông giờ đây việc quan hệ ái tình chỉ là việc bán mua chứ
chẳng phải là cho và nhận. Ông coi thường Sương là một con điếm, Sương vì bảo vệ
cho cuộc sống gia đình ơng mà đã hi sinh bản thân qua đêm cùng những tên cán bộ,
đáp lại tấm chân tình ấy là những câu nói chua cay, một cái nhìn miệt thị: “sao, hồi tối
vui không? Chắc họ tưởng cô là vợ tôi nên hứng thú lắm hả? cứ để họ nghĩ vậy…”
Đọc toàn bộ chương truyện, hiểu hết về cuộc đời của nhân vật, chúng ta mới
thấy được nguyên nhân sâu xa của những hành động trả thù ấy của Út Vũ. Đó chính là
bi kịch của nỗi đau phụ bạc ái tình. Nỗi đau ấy dồn nén trong lịng thành những ẩn ức,
để rồi nó biến thành hành động, thành sự trả thì đời, trả thù những người đàn bà đi
ngang qua đời ơng. Nếu xét về góc độ phê bình xã hội học, chúng ta thấy rằng những

hành động ấy của Út Vũ thật đáng lên án, phê phán. Tuy nhiên, cũng phải bàn thêm
rằng đó là nguyên nhân sâu xa của những ẩn ức trong lòng, trong trái tim đã chai sạn
vì bị phụ tình thì làm sao dễ dàng đón nhận tình cảm mới...?
Bằng cảm quan phật giáo, Nguyễn Ngọc Tư đã nêu ra được vấn đề mà chúng ta
luôn tâm niệm “ác giả, ác báo”. Bởi vậy, những trang kết của câu chuyện, nữ nhà văn
đã hướng người đọc tới tâm niệm của mình. Những cuộc vui đùa ái ân của Út Vũ với
những người phụ nữ được báo ứng bằng việc tận mắt chứng kiến cảnh tượng con gái
mình bị cưỡng hiếp: “nó đè nghiến, giữ cho mặt ơng hướng về phía tơi. Và bọn chúng


Trang 14

thay phiên nhau, giữ cho cha chỉ một tư thế đó, mắt cha tơi ầng ậc nước, tơi khơng
hiểu là phèn hay máu nhoèn nhoẹt”. Cái bi kịch của Út Vũ quá lớn, nó sinh ra từ
những cám dỗ của đồng tiền, của ham muốn tính dục trong bản năng con người phải
chăng đã gieo cái khổ cho chính người con gái của mình? Để rồi Út Vũ phải ăn năn,
dằn vặt?
Nếu như vấn đề tính dục được nhà văn Nguyễn Ngọc Tư khắc họa ở các nhân
vật người vợ Út Vũ, người đàn bà Bàu Sen, Sương là ở tâm lý, là khát vọng, là ham
muốn, ở Út Vũ là sự trả thù trong ám ảnh thì ở hai nhân vật Nương - “tôi”- người kể
chuyện, một đứa con gái mới lớn với vẻ đẹp trời phú, những người đàn ơng khơng
ngăn nổi cái nhìn thèm khát. “Bằng mắt, họ sờ soạng khắp người tôi. Ánh mắt giống
bàn tay của ông xẩm mù mà tôi từng gặp, đụng chỗ nào cũng dừng lại, vuốt vuốt bóp
bóp (chắc là cho dễ hình dung), rồi lần dị tới một chỗ khác, rờ nắn mê miết”. Và sau
cuối, lũ thằng Hận đã từ “ngỡ ngàng” “thảng thốt” đến “lau dãi ròng rãi trên khoé
miệng” và sau cuối “ghì ngửa trên mặt ruộng bì bõm nước”,:con nhỏ đẹp quá"..., và
Điền – đứa em trai mới lớn, đang tuổi dậy thì với những thay đổi trong bản tính, trong
cách nhìn nhận và hiểu biết về tính dục: “thằng Điền nổi loạn”, dấu hiệu bắt đầu từ
một bữa trong xóm đê, tình cờ ngó đơi chó nhảy nhau, thằng Điền “cầm đoạn cây
xơng đến quất đơi chó tới tấp”... thì ở hai nhân vật này, tính dục lại được khắc họa qua

sự tự thay đổi bản thân (giai đoạn chuyển qua dậy thì ở hai chị em) và đặc biệt hơn
nữa đó là ở sự ám ảnh tính dục từ hồn cảnh tiếp xúc trong thực tế cuộc sống hằng
ngày từ người xung quanh: mẹ, cha, ..., là dư chấn tất yếu của những va chấn tâm sinh
lý dữ dội buổi thiếu thời: những va chấn tâm lý bởi những cảnh tượng, những âm
thanh, những cảnh mà chúng bất đắc dĩ phải nhìn thấy, nghe thấy, và nghĩ. Đó là cảnh
tượng “trên chiếc giường tre quen thuộc, má oằn uốn người dưới tấm lưng chơm
chởm những nốt ruồi. Họ cấu víu. Vật vã. Rên xiết”. Đó là cảnh những đơi người “khi
khơng cịn mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân
mình” mà tối nào mua ruợu cho cha, chúng cũng ngang qua. Đó là “tiếng sột soạt rạo
rực trong cái chòi nhỏ trên bờ” khi chị Sương lên chịi cùng cha. Đó là “đống dăm
bào bị dẫm tạo ra âm thanh lạo xạo lao xao lào xào” khi người đàn bà Bàu Sen bị


Trang 15

chồng bỏ ở chỗ cha làm mộc. Đó là niềm “cay đắng” với cảm giác cha “quắp lấy”
những người đàn bà “vùi mặt vào da vào thịt, ngấu nghiến mà lịng cha lạnh ngắt”,
“cha làm chuyện đó thì cũng giống như mấy con vịt đạp mái…”, thậm chí “nhạt nhẽo
hơn cả việc quan hệ theo mùa, theo bản năng, trong cha khơng cịn một chút cảm xúc
nào, nét mặt tràn ngập những rắp tâm, chưa gặp mặt đã tính chuyện phụ phàng”.
Tính dục vốn là chuyện tế nhị, kín đáo, nhưng ngày nào hai chị em Nương,
Điền cũng phải chứng kiến... thử hỏi rằng ai không bị ám ảnh. Hơn nữa hai chị em lại
thiếu sự quan tâm, chỉ bảo của cha mẹ trong giai đoạn dậy thì... và phải chăng đó cũng
là thơng điệp, lời nhắn nhủ của nhà văn đối với bậc làm cha, làm mẹ trong xã hội hiện
đại này? Kín đáo, tế nhị trong chuyện phịng the. Giáo dục trẻ về vần đề tính dục để trẻ
có hiểu biết sâu sắc và tránh được những hệ lụy từ tính dục.
Bàn về tính dục trong tác phẩm Cánh đồng bất tận từ góc nhìn xã hội học hiện
đại, chúng ta thấy tính dục dường như nó là một phần tất yếu của cuộc sống. Phần
chìm vơ thức này như khối nham thạch luôn chờ cơ hội để trào vọt. Nhu cầu thỏa mãn
tính dục của con người là nhu cầu rất người. Tuy nhiên nếu con người cứ hồn nhiên

để bản năng tính dục vơ tư chiến thắng ý thức cá nhân thì hậu quả thật khơn
lường. Với người vợ Út Vũ, đó là chị phải ra đi! để bi kịch chất đống lên những người
ở lại. Với những người đàn ơng q mùa, đó là “mớ tiền cơng ít ỏi suốt một ngày làm
việc quần quật”, hay “những món tiền cắm câu đêm đêm, tiền bán lúa, dừa khơ hay
những buồng chuối chín”, hay “một triệu hai” trong tổng số hai triệu “vốn vay xố
đói giảm nghèo”... biến mất cùng người tình chớp nhống của mình, để rồi về nhà
ngậm ngùi ngồi nhìn “vợ con bu quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng
chiều”. Với Sương – “làm đĩ”, đó là cơn “chết lặng trong nỗi ngượng ngùng” của
thằng con trai mười bảy tuổi khi nó bị bàn tay người đàn bà trải đời “táo tợn làm gì
đó” nơi phần bụng dưới trong nước. Với những người thoáng chốc “rũ cái sột, sạch
trơn” để đi theo người tình, đó là bất tận “đau lịng người ở lại”. Với những người
đàn bà đánh đổi gia đình, ruộng vườn, làng xóm, cả đứa con nhỏ để chạy theo Út Vũ,
đó là nỗi bẽ bàng bị bỏ rơi, là “con đường quay về bị bịt kín”. Đối với lũ thằng Hận,
đó là tia hy vọng “le lói nhìn thấy con đường dẫn đến cuộc - sống - bình - thường” của


Trang 16

một đứa con gái mới lớn “chẳng phải bình thường” đã bị dập tắt với câu hỏi ngây thơ
“Không biết con bị có con khơng, hả cha?”...
Tính dục mang giá trị mỹ học và nhân văn là tính dục nhằm tơn vinh con người,
khai phóng năng lực tiềm ẩn của con người, giúp họ thức nhận đầy đủ giá trị của mình,
tận hiến và tận hưởng cuộc sống trong sự bao bọc của những cảm xúc thiêng liêng.
Con người sẽ tự nhục mạ mình khi thả lỏng theo sự sai khiến của xung động bản năng,
khơng biết dung hịa giữa nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tại, biến cấu trúc
nhân cách của mình thành khuyết thiếu.
Trong Cánh đồng bất tận, các nhân vật đã điểm ở trên được nhà văn khắc họa
với bản năng tính dục khơng được kiểm sốt, khơng có sự che đậy kín đáo. Tính dục ở
họ khơng phải là sự thăng hoa của tình yêu, mà chỉ hoặc là phương tiện để đổi chác,
hoặc là hành vi tìm khối lạc, bất chấp đạo lý, bổn phận và trách nhiệm, họ do vậy,

vừa đáng cảm thông, vừa cần được cảnh báo để rồi được thanh lọc, giải thoát.
Truyện “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư dù được kể từ một người kể
chuyện xưng “tôi” – Nương - duy nhất từ đầu đến cuối tác phẩm, nhưng người kể
chuyện ấy đã lần lượt nhập vai, hóa thân vào các nhân vật khác, qua lối kể chuyện nửa
trực tiếp, để đưa ra những cảm giác, cảm xúc và cái nhìn của họ đối với cuộc đời: nỗi
khắc khoải, thắc thỏm, bền bỉ, thách thức rồi cuối cùng là ê chề tuyệt vọng của Sương,
nỗ lực bất thành để kìm nén, giết chết yêu đương, khát khao, bản năng nơi Điền đang
đến tuổi trưởng thành… Qua những câu chuyện dường như không đầu không cuối
ghép nối nhau tạo nên những phần, những cảnh khác nhau trong câu chuyện lớn mênh
mông, cái tôi của người kể chuyện đã không chỉ thuật mà làm sống lại, trải ra thế giới
tinh thần của những cái tôi khác.


Trang 17

3. Kết luận.
Tính biện chứng trong vận động tính cách, hành vi của nhân vật thể hiện qua
các mặt đối lập đã cho thấy sự am hiểu sâu sắc của tác giả về bản chất của con người
và quy luật vận động tất yếu của xã hội đặt trên sự vận động bản năng trong vô thức
của từng cá thể. Nữ nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã biết khai thác tối ưu những phạm trù
cơ bản của cõi vô thức của con người để xây dựng hệ thống các nhân vật bản năng
gốc mà chủ yếu là bản năng tính dục – một vấn đề mà xã hội đang rất quan tâm.
Trong lần trả lời phỏng vấn báo Tuổi trẻ Online (ngày 21-11-2005) khi “Cánh
đồng bất tận” lên báo, Nguyễn Ngọc Tư bộc bạch : “Tơi cũng bàng hồng, khi viết. Tơi
thường tự hào về trí tưởng tượng của mình nhưng thấy chóng mặt, ngộp thở với chi tiết
có thật mà tôi nghe được, giữa đời. Tôi thú nhận là đã sao chép cuộc sống, bởi tưởng
tượng chỉ là trò bỏ đi. Nhưng xin các bạn đừng ngạc nhiên, tôi chưa từng tưởng tượng
chuyện con người lại tra tấn bằng cách bắt lươn sống chui vào cửa mình người phụ nữ,
đá thốc vào bụng người đang mang thai... nhưng những ai đi qua chiến tranh không hề
thấy lạ. Tôi cảm giác khi cái ác lên ngôi trong phần con, phần người chết ngắc...”

Nguyễn Ngọc Tư viết như người ngoài cuộc, hờ hững, viết nhẹ như khơng,
nhưng chính cái tưởng chừng là “vơ chiêu” mà có sức nặng khơng cùng. Cánh đồng
bất tận khi vừa ra mắt đã nhận được sự quan tâm nồng nhiệt của người đọc ở sự đồng
thuận, cũng không lắm ý kiến trái chiều. Song Nguyễn Ngọc Tư ln là chính mình và
ln ý thức rất rõ về trách nhiệm của người cầm bút, về nghề văn “một nhà văn thì
ln phải đi tới, bỏ những hào quang lại sau lưng” vì đó là một hành trình dài vơ
tận…
Xin mượn lời trong bài viết của Nguyễn Hồng Kỳ trên Tuổi trẻ Online ngày
08/04/2006 để thay cho lời kết: ““Cánh đồng bất tận” là một tác phẩm văn học hay, với
lối diễn đạt cơ đọng, súc tích. Để rồi đằng sau những hiện thực trần trụi mà Nguyễn
Ngọc Tư đưa ra, chẳng phải là tình yêu quê hương vẫn đầy ắp trong những người chăn
vịt lang thang đó sao? Chẳng phải là con người vẫn yêu thương, đùm bọc nhau, như


Trang 18

những đứa trẻ với cô gái điếm đấy sao? Và trên hết, nhân vật trong tác phẩm vẫn thật
nhân hậu, biết yêu thương, biết tha thứ và khao khát một cuộc sống không thù hận.
Nguyễn Ngọc Tư đã chuyển tải rất tốt những ý tứ, những mong mỏi đó đến với người đọc
qua "Cánh đồng bất tận". Như thế mà cịn gọi là "khơng hướng đến chân thiện mỹ" hay
sao? Vậy nên “Đẹp, xấu trong Cánh đồng bất tận, tiếng nói của độc giả...””
Qua việc nghiên cứu đề tài này chúng ta phần nào hiểu thêm được vai trò của
phê bình xã hội học đối với văn chương. Vấn đề được bàn tới trong đề tài này cho
chúng ta thấy rõ ý nghĩa quan trọng, đó là khi tiếp cận tác phẩm văn chương để tìm
hiểu và nghiên cứu một tác giả, tác phẩm văn học từ góc nhìn Phê bình xã hội học hiện
đại là điều cần thiết và giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn các khía cạnh của vấn đề: Từ
nhà văn đến tác phẩm.


Trang 19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương Lựu (1999), Mười trường phái lí luận phê bình văn học phương Tây
đương đại, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội,
2. Đỗ Lai Thúy (1999), Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, Nhà xuất bản
Văn hóa thơng tin.
3. Đỗ Lai Thúy (2009), Bút pháp của ham muốn, Nhà xuất bản Tri thức.
4. Nguyễn Văn Dân (2003), Tâm phân học vô thức với việc phân tích cấu trúc
tác phẩm văn học, Tạp chí Văn học, số 4
5. Nguyễn Ngọc Tư (2006), Cánh đồng bất tận – Tập truyện ngắn, Nhà xuất
bản trẻ.
6. Nguyễn Ngọc Tư (2012), Sông, Nhà xuất bản trẻ.
7. Nguyễn Ngọc Tư (2020), Biên sử nước, Nhà xuất bản Phụ Nữ Vệt Nam.
8. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản giáo dục
9. Vũ Thị Trang (2020), Phê bình phân tâm học – Phía của những ám ảnh
nghệ thuật, Nhà xuất Khoa học xã hội.



×