Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Quy định pháp luật về điều kiện vay vốn tại ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 62 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
------------

DANH PHẠM MỸ DUYÊN

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN
VAY VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thƣơng mại

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
---------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN VAY VỐN
TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

GVHD

: Th.S LÊ THỊ NGÂN HÀ

SVTH


: DANH PHẠM MỸ DUYÊN

MSSV

: 1055010064

KHÓA : 2010 – 2014

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Danh Phạm Mỹ Duyên – sinh viên Trƣờng Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh, Khoa Luật Thƣơng mại, Khóa 35 (2010 – 2014), là tác giả của Khóa luận tốt
nghiệp Cử nhân Luật – Chuyên ngành Luật Thƣơng mại – Đề tài: “Quy định pháp
luật về điều kiện vay vốn trong ngân hàng thương mại” đƣợc trình bày trong khóa
luận này.
Tơi xin cam đoan tất cả nội dung trong khóa luận này hồn tồn đƣợc hình thành
và phát triển từ những quan điểm cá nhân của tôi, dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của
Thạc sĩ Lê Thị Ngân Hà – Giảng viên khoa Luật Thƣơng mại, Trƣờng Đại học Luật
Tp. Hồ Chí Minh.
Trong khóa luận có trích dẫn, sử dụng một số ý kiến, quan điểm khoa học của một
số tác giả. Sự trích dẫn này đƣợc thể hiện cụ thể trong Danh mục tài liệu tham khảo và
tuân thủ các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Các số liệu và kết quả có đƣợc
trong khóa luận này hồn tồn là trung thực.
Sinh viên thực hiện

Danh Phạm Mỹ Duyên



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. NHTM: Ngân hàng thƣơng mại
2. NHNN: Ngân hàng nhà nƣớc
3. Ngân hàng TMCP: Ngân hàng thƣơng mại cổ phần
4. Ngân hàng TMNN: Ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG I:LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN VAY VỐN TẠI NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI ............................................................................................................... 1
1.1. Khái quát về điều kiện vay vốn tại Ngân hàng thƣơng mại ..................................... 1
1.1.1. Khái quát về hoạt động cho vay tại Ngân hàng thƣơng mại ................................. 1
1.1.1.1. Khái niệm hoạt động cho vay ............................................................................. 1
1.1.1.2. Nguyên tắc của hoạt động cho vay ..................................................................... 4
1.1.2. Khái quát về điều kiện vay vốn tại Ngân hàng thƣơng mại .................................. 7
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện vay vốn tại Ngân hàng thƣơng mại8
1.2.1. Điều kiện về năng lực chủ thể ............................................................................... 8
1.2.2. Điều kiện về mục đích sử dụng vốn .................................................................... 12
1.2.3. Điều kiện về khả năng tài chính đảm bảo trả nợ ................................................. 14
1.2.4. Điều kiện phƣơng án sử dụng vốn ....................................................................... 15
1.2.5. Điều kiện về các biện pháp đảm bảo tiền vay ..................................................... 16
1.3. Tầm quan trọng của quy định pháp luật về điều kiện vay vốn tại các Ngân hàng
thƣơng mại ..................................................................................................................... 19
TỔNG KẾT CHƢƠNG I............................................................................................... 21
ChƢƠNG II:THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN
VAY VỐN TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN ........................................................................................................................... 22
2.1. Thực tiễn áp dụng điều kiện vay vốn tại một số Ngân hàng thƣơng mại.............. 22
2.1.1. Điều kiện về năng lực chủ thể ............................................................................. 23

2.1.2. Điều kiện về mục đích sử dụng vốn .................................................................... 31
2.1.3. Điều kiện về khả năng tài chính .......................................................................... 34
2.1.4. Điều kiện về phƣơng án sử dụng vốn .................................................................. 37
2.1.5. Điều kiện về tài sản bảo đảm ............................................................................... 39
2.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về điều kiện vay vốn tại NHTM ........... 42
2.2.1. Nhóm các giải pháp pháp lí ................................................................................. 42
2.2.1.1. Điều kiện năng lực chủ thể ............................................................................... 42
2.2.2.2. Điều kiện về mục đích sử dụng vốn ................................................................ 43
2.2.1.3. Điều kiện về khả năng tài chính ...................................................................... 44


2.2.1.4. Điều kiện về phƣơng án sử dụng vốn ............................................................... 45
2.2.1.5. Điều kiện về tài sản bảo đảm ............................................................................ 46
2.3.2. Nhóm các biện pháp hỗ trợ.................................................................................. 47
TỔNG KẾT CHƢƠNG II ............................................................................................. 49
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 50


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, Ngân hàng thƣơng mại đang đƣợc coi là đòn bẩy chủ lực thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Với tƣ cách là trung gian tài chính huy động
vốn để đầu tƣ cho phát triển nền kinh tế thơng qua các hình thức cấp tín dụng. Trong
đó, cho vay đƣợc xem là hình thức cấp tín dụng chủ yếu nhất của các NHTM. Với hoạt
động này, các NHTM đã luân chuyển đƣợc dòng vốn trong nền kinh tế từ nơi thừa
sang nơi thiếu, từ chủ thể có vốn nhàn rỗi sang chủ thể cần vốn tạo động lực cho nền
kinh tế phát triển một cách hài hòa và bền vững. Hoạt động cho vay đã mang lại một
nguồn lợi nhuận khổng lồ nhƣng cũng không kém phần rủi ro cho các NHTM. Thực tế
cho thấy, hoạt động cấp tín dụng, đặc biệt là hoạt động cho vay tiềm ẩn rất nhiều rủi ro
do phải chịu sự chi phối của nhiều yếu tố nhƣ môi trƣờng kinh doanh, điều kiện tự

nhiên, chính sách phát triển kinh tế, pháp luật,…Đƣợc xem là đòn bẩy thúc đẩy phát
triển kinh tế nhƣng trong những năm gần đây hoạt động của các NHTM đang đứng
trƣớc bờ vực khi mà các khoản nợ xấu đã tăng lên với một con số báo động.
Chính vì những rủi ro đó mà trƣớc mùa đại hội Đại hội đồng cổ đông năm 2014
của các NHTM, Thống đốc Ngân hàng Nhà nƣớc Nguyễn Văn Bình đã gợi mở, sau
khi xử lý 9 ngân hàng yếu kém hai năm qua, năm nay dự kiến sẽ có thêm 6 đến7
NHTM tiến hành sáp nhập hoặc hợp nhất1. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là
do quy trình tín dụng thiếu chặt chẽ và không phù hợp, thẩm định hồ sơ vay vốn khơng
lĩ lƣỡng2. Chính vì vậy, để hạn chế những rủi ro trong hoạt động cho vay thì việc tổ
chức chặt chẽ quy trình cho vay mà cụ thể là thẩm định chính xác các điều kiện vay
vốn là một yêu cầu bức thiết. Vì thế, làm thế nào để hoạt động cho vay tại các NHTM
thực hiện đúng các quy định của pháp luật về điều kiện vay vốn, đƣa ra đƣợc những
biện pháp tránh đƣợc những rủi ro tín dụng do hoạt động cho vay mang lại là vấn đề
cấp bách, luôn đƣợc sự đặc biệt quan tâm của các cơ quan quản lý hoạt động tín dụng
ngân hàng và đặc biệt là các NHTM trực tiếp tham gia vào hoạt động cho vay. Chính
vì sự cần thiết của đề tài mang tính thời sự này, tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Quy
định pháp luật về điều kiện vay vốn tại ngân hàng thƣơng mại” để có thể đƣa ra một số
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thẩm định điều kiện vay vốn
tại các NHTM.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là nghiên cứu tổng quan về hoạt động cho vay và phân
tích các quy định của pháp luật về điều kiện vay vốn tại các NHTM; Trình bày và phân
1

ngày
8/7/2014
2
Luận văn rủi ro tín dụng và những giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng ở các NHTM ở TP. HCM



tích, so sánh thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về điều kiện vay vốn tại một
số NHTM ở Việt Nam. Trên cơ sở lý luận và phản ánh đúng thực trạng thực hiện các
quy định của pháp luật về điều kiện vay vốn tại các NHTM, đề tài đƣa ra một số biện
pháp để các quy định của pháp luật về điều kiện vay vốn đƣợc thực hiện một cách chặt
chẽ nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Theo tên đề tài của khóa luận, đối tƣợng mà tác giả muốn nghiên cứu là các quy
định hiện hành về điều kiện vay vốn tại các NHTM và thực tiễn áp dụng các quy định
đó tại các NHTM. Để tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu đối tƣợng này, trƣớc hết tác
giả nghiên cứu dƣới góc độ lí luận các nội dung cơ bản liên quan đến hoạt động cho
vay nhƣ đặc điểm, nguyên tắc và các điều kiện cho vay. Từ đó, dựa trên nền tảng lí
luận này, tác giả đi sâu vào phân tích, đánh giá, bình luận các quy định của pháp luật
và các quy định của các NHTM về các điều kiện vay vốn, để cuối cùng đƣa ra những
kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật.
4. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài quy định của pháp luật về hoạt động cho vay nói chung hiện
nay có rất nhiều cơng trình nghiên cứu cả về góc độ pháp luật lẫn kinh tế. Hầu hết các
cơng trình này đều đƣa ra một cách tổng quan nhất về hoạt động cho vay. Tuy nhiên,
đối với đề tài nghiên cứu quy định pháp luật về điều kiện vay vốn tại các NHTM, thực
tiễn áp dụng các quy định pháp luật tại các NHTM hiện nay thì chƣa có nhiều cơng
trình nghiên cứu. Có thể kể đến Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về hạn chế rủi ro tín dụng
trong hoạt động thẩm định cho vay tại ngân hàng thƣơng mại” năm 2011 của tác giả
Lê Thị Ngân Hà, khóa luận cử nhân “Pháp luật điều chỉnh hoạt động thẩm định cho
vay ở ngân hàng thƣơng mại” của tác giả Võ Thu Dun năm 2011….Gần đây nhất có
cơng trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu của tác giả đó là khóa
luận cử nhân “Quy định của pháp luật về điều kiện vay vốn tại các ngân hàng thƣơng
mại” năm 2012 của tác giả Phùng Hồng Thanh. Ngồi ra cũng có thể kể đến các sách
chuyên khảo nhƣ “Nghiệp vụ Ngân hàng thƣơng mại hiện đại”, Nguyễn Minh Kiều,
NXB. Tài chính, 2013, “Quản trị Ngân hàng”, Nguyễn Minh Triều, NXB. Tài chính,
2013. Bài viết trên các tạp chí: “Những vấn đề pháp lí trong hoạt động kiểm sốt rủi ro

tín dụng”, Trần Vũ Hải, tạp chí Luật học, số 12/2007.
Tuy nhiên, hƣớng tiếp cận quy định pháp luật về điều kiện vay vốn tại NHTM và
so sánh, phân tích thực tiễn áp dụng tại các NHTM hiện nay là chƣa có. Do đó, đề tài
khóa luận của tác giả chọn vẫn đảm bảo tính mới, có cơ sở lí luận và thực tiễn để triển
khai.


5. Giới hạn nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài Quy định pháp luật về điều kiện vay vốn tại các NHTM đặt
ra yêu cầu nghiên cứu rộng cho tất cả các đối tƣợng vay vốn tại các NHTM tại Việt
Nam. Tuy nhiên, trong khn khổ khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật, đề tài chỉ tập
trung vào nghiên cứu quy định của pháp luật về điều kiện vay vốn tại NHTM đối với
khách hàng vay là tổ chức và cá nhân là ngƣời Việt Nam. Đồng thời, đề tài cũng chỉ
tập trung nghiên cứu, khai thác sâu trên khía cạnh pháp lí.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nội dung của khóa luận đƣợc tác giả nghiên cứu trên cơ sở nền tảng lí luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và trên cơ sở duy vật lịch sử. Trên cơ sở đó, tác giả sử
dụng các phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để có cái nhìn khoa học,
khách quan và mang tính kế thừa những giá trị khoa học trƣớc đây trong tồn bộ khóa
luận. Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp đƣợc sử dụng triệt để làm rõ nội dung lí luận
và thực tiễn các quy định của pháp luật. Phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng để phân
tích và tìm ra điểm khác biệt để lí giải từ góc độ pháp lí các quy định về điều kiện vay
vốn cụ thể tại các NHTM
7. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng thực tiễn
Sức ảnh hƣởng của hoạt động cho vay – hoạt động tiền ẩn rất nhiều rủi ro của các
NHTM đối với nền kinh tế là rất lớn. Do đó, đảm bảo an tồn trong hoạt động co vay
và hạn chế thấp nhất các rủi ro tín dụng trở thành nhu cầu bức thiết đối với cơ quan
quản lí nhà nƣớc và các NHTM. Vì vậy, xây dựng các quy định về điều kiện vay vốn
tại các NHTM của Nhà nƣớc phải thật sự khoa học. Và cách thức triển khai, áp dụng
nó tại các NHTM phải đƣợc thực hiện một cách nghiêm túc . Đây là những đòi hỏi rất

quan trọng trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới hiện nay. Do đó, trong phạm vi và
cấp độ nghiên cứu của mình, khóa luận mang ý nghĩa khoa học và ứng dụng thực tiến
sau đây:
Thứ nhất, từ việc trình bày và phân tích các đặc điểm, các nguyên tắc của hoạt
động cho vay, tác giả đã lột tả đƣợc bản chất, vai trò và sức ảnh hƣởng của hoạt động
này đối với nền kinh tế. Từ đó, tác giả đƣa ra nền tảng lí luận vững chắc trong việc
phân tích các quy định của pháp luật về điều kiện vay vốn tại các NHTM hiện nay.
Thứ hai, thơng qua các phân tích về quy định pháp luật về điều kiện vay vốn, tác
giả đã chỉ ra những điểm hợp lí và bất cập trong quy định. Từ đó, tác giả đƣa ra một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về điều kiện vay vốn tại
các NHTM.


Thứ ba, bằng việc phân tích và bình luận các quy định về điều kiện vay vốn cụ
thể do các NHTM ban hành, tác giả đã so sánh, bình luận các quy định giữa các nhóm
NHTM với nhau và giữa các NHTM với quy định khung của nhà nƣớc trong Quy chế
cho vay. Trên cơ sở đó, tác giả tìm ra đƣợc những điểm bất cập và hợp lí trong các quy
định để có thể đƣa ra các kiến nghị hồn thiện phù hợp.
Cuối cùng, với những phân tích khoa học trên cơ sở lí luận và thực tiễn thì đề tài
có thể là nguồn tham khảo khoa học cho các cơng trình nghiên cứu. Đồng thời có thể
sử dụng làm nguồn cho các nhà làm luật hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về
điều kiện vay vốn tại các NHTM
8. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, lời cam đoan và danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận gồm có 2 chƣơng.
Chƣơng I: Lý luận chung về điều kiện vay vốn tại ngân hàng thƣơng mại
Chƣơng II: Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về điều kiện vay vốn tại một số
ngân hàng thƣơng mại



1

CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN VAY VỐN
TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Khái quát về điều kiện vay vốn tại Ngân hàng thƣơng mại
1.1.1. Khái quát về hoạt động cho vay tại Ngân hàng thƣơng mại
1.1.1.1. Khái niệm hoạt động cho vay
Sống chan hòa, giúp đỡ nhau những lúc khó khăn hoạn nạn dƣờng nhƣ đã trở
thành một lối sống tốt đẹp của ngƣời châu Á nói chung và ngƣời Việt Nam nói riêng.
Vì thế, trong đời sống thƣờng nhật, chuyện “vay”, “mƣợn” dƣờng nhƣ đã trở thành
những hoạt động khơng cịn q xa lạ đối với mỗi ngƣời. Theo tiến trình lịch sử, khi
sản xuất cơng nghiệp phát triển thì “cho vay là một hiện tƣợng kinh tế khách quan,
xuất hiện tình trạng nền sản xuất tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn”.
Từ điển Tiếng Việt3 định nghĩa: “Cho vay là việc một ngƣời đồng ý để đƣa tiền
hay vật gì của mình cho ngƣời khác để ngƣời đó chi dùng trƣớc với điều kiện sẽ trả
tƣơng đƣơng hoặc có thêm phần lãi”.
Trong pháp luật Dân sự, hiểu theo nghĩa chung nhất, cho vay là việc một ngƣời
thỏa thuận để cho ngƣời khác đƣợc sử dụng tài sản của mình trong một thời hạn nhất
định với điều kiện có hồn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của mình với ngƣời đó.
Nhƣ vậy, trên thực tế, chúng ta thƣờng tiếp cận thuật ngữ “cho vay” để chỉ một
quan hệ cấp tín dụng có thể bằng tiền hoặc bằng tài sản giữa một tổ chức, cá nhân này
với một tổ chức, cá nhân khác trong thời hạn nhất định với điều kiện có hồn trả. Và
theo cách hiểu trong Từ điển Tiếng Việt và Pháp luật Dân sự thì hoạt động “cho vay”
gồm có ba đặc điểm chính. Thứ nhất, đối tƣợng đƣợc chuyển giao có thể là tiền hoặc
tài sản. Thứ hai, hoạt động cho vay đƣợc thực hiện trên cơ sở lòng tin. Thứ ba, hoạt
động cho vay đƣợc diễn ra theo nguyên tắc có hồn trả.
Qua phân tích trên, có thể thấy, cho vay là một khái niệm rộng, khi tiếp cận ở
những phƣơng diện khác nhau sẽ có những cách hiểu khác nhau. Hoạt động cho vay
cũng không phải là hoạt động riêng của các NHTM mà các cá nhân, tổ chức khác
khơng phải là NHTM cũng có thể thực hiện việc cho vay đối với khách hàng nhƣ một

hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, hoạt động cho vay các tổ chức, cá nhân này không
buộc theo các nguyên tắc, điều kiện luật định mà tùy theo ý chí của chủ thể cho vay.
Ngƣợc lại, hoạt động cho vay của NHTM là hoạt động mang tính chuyên nghiệp, tuân
3

/>

2

theo quy trình chặt chẽ nhƣ quy trình về thẩm định, xét duyệt, giải ngân, thu hồi
vốn,…Bên cạnh đó, để thực hiện hoạt động này, các NHTM buộc phải thỏa mãn một
số điều kiện nhất định nhƣ phải có vốn pháp định, phải đƣợc Ngân hàng Nhà nƣớc cấp
giấy phép hoạt động ngân hàng trƣớc khi tiến hành việc đăng ký kinh doanh theo luật
định.
Vì vậy, hoạt động cho vay của NHTM ngoài sự điều chỉnh của pháp luật về hợp
đồng còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các đạo luật về Ngân hàng, kể cả tập quán
thƣơng mại về ngân hàng. Cho vay là một trong những hình thức cấp tín dụng chủ yếu
của tổ chức tín dụng nói chung và các NHTM nói riêng. Sở dĩ, cho vay là hình thức
cấp tín dụng chủ yếu là vì đối tƣợng của hoạt động cho vay là vốn tiền tệ và thời hạn
cho vay linh hoạt nên bên đi vay có thể sử dụng tiền vay với nhiều mục đích khác nhau
và trong các khoảng thời gian khác nhau.
Khi xét dƣới góc độ pháp luật ngân hàng, cụ thể tại Khoản 1 Điều 3 Quy chế
cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định
1627/2001/QĐ – NHNN ngày 31/12/2001 (sau đây gọi là Quy chế cho vay) nêu rõ:
“Cho vay là một trong những hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, theo
đó tổ chức tín dụng sẽ chuyển giao cho bên vay (khách hàng) một khoản vốn tiền tệ,
bên vay sẽ sử dụng khoản vốn tiền tệ đó trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó
sẽ hồn trả cho tổ chức tín dụng cả gốc và lãi theo thỏa thuận”.
Từ định nghĩa nêu trên, có thể thấy hoạt động cho vay có những đặc điểm cơ
bản sau:

Thứ nhất, đối tượng cấp tín dụng trong hoạt động cho vay là vốn tiền tệ.4
Hoạt động cho vay, hoạt động cho th tài chính, chiết khấu, tái chiết khấu giấy
tờ có giá,… đều là các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM. Tuy nhiên, nếu nhƣ hoạt động
cho th tài chính có đối tƣợng cấp tín dụng là tài sản, hoạt động chiết khấu, tái chiết
khấu giấy tờ có giá có đối tƣợng cấp tín dụng là giá trị của các giấy tờ có giá thì đối
tƣợng của hoạt động cho vay lại là vốn tiền tệ. Đây đƣợc xem là một đặc trƣng cơ bản
nhất, góp phần để hoạt động cho vay trở thành hình thức cấp tín dụng chủ yếu của các
NHTM. Tuy nhiên, cũng chính vì đối tƣợng cấp tín dụng là tiền tệ nên hoạt động cho
vay tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì các lí lẽ sau: Một là, tiền tệ là đối tƣợng có tính thanh
khoản cao cho nên sau khi giải ngân nguồn vốn cho khách hàng vay, các NHTM khó
có thể thu hồi nguồn vốn một cách nhanh chóng nếu có rủi ro xảy ra. Hai là, tiền tệ có
4

Trƣờng ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Khoa Luật Thƣơng mại (2013), “Giáo trình Luật Ngân hàng”, NXB Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Tr.309.


3

thể sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau của khách hàng cho nên rất khó để NHTM
kiểm sốt đƣợc khách hàng có sử dụng vốn vay đúng mục đích nhƣ đã duyệt cho vay.
Và nếu nhƣ nguồn vốn tiền tệ này sử dụng khơng đúng mục đích, khơng hiệu quả, kinh
doanh thua lỗ thì NHTM lại khó khăn trong việc thu hồi lại nguồn vốn đã cấp.
Thứ hai, thời hạn trong hoạt động cho vay rất đa dạng, phong phú, có thể là
ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn.
Tính đa dạng, phong phú trong thời hạn cho vay đƣợc xem là một trong những
đặc trƣng của hoạt động cho vay. Bởi vì, thời hạn cấp tín dụng của các hình thức cấp
tín dụng khác sẽ bị phụ thuộc ít nhiều vào đối tƣợng cấp tín dụng. Chẳng hạn, hoạt
động cho thuê tài chính, thời hạn vay phụ thuộc thời gian khấu hao của tài sản thuê.
Trong chiết khấu giấy tờ có giá, NHTM phải căn cứ vào thời hạn thanh tốn cịn lại

của giấy tờ có giá để quyết định có nên mua lại hay khơng…Cịn thời hạn trong hoạt
động cho vay lại rất phong phú, đa dạng.
Tính đa dạng, phong phú trong thời hạn cho vay cũng xuất phát từ chính đối
tƣợng cấp tín dụng của hoạt động cho vay là tiền tệ nên có thể sử dụng chi cho nhiều
mục đích của khách hàng vay. Với các nhóm khách hàng chiến lƣợc khác nhau, mục
đích sử dụng vốn vay của bên đi vay khác nhau mà NHTM có thể quyết định thời hạn
cho vay ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn. Tuy nhiên, cũng chính vì tính có thời hạn
trong hoạt động cho vay nên hoạt động cho vay cũng xuất hiện các rủi ro với các
NHTM. Bởi lẽ, trong hợp đồng tín dụng, ngƣời thực hiện nghĩa vụ đầu tiên là NHTM.
Khi hợp đồng đƣợc giao kết, các NHTM phải có nghĩa vụ giải ngân cho khách hàng
vay. Nhƣ đã phân tích ở đặc điểm thứ nhất, đối tƣợng của hoạt động cho vay có tính
thanh khoản cao nên sau khi giải ngân cho khách hàng thì NHTM sẽ phải chờ đến thời
hạn cam kết mới có thể thu hồi nguồn vốn của mình. Tuy nhiên, vấn đề là tiền đã giải
ngân, việc có thu hồi đƣợc nguồn vốn đúng hạn hay không phụ thuộc vào thời hạn
khách hàng trả lại tiền cho NHTM. Vì vậy, họ khơng có khả năng quản lí đƣợc thời
điểm nào nguồn vốn cho vay có thể quay trở lại để xoay vịng nguồn vốn. Chính điều
này đã tạo nên các rủi ro cho NHTM khi cho vay.
Thứ ba, quan hệ cho vay luôn được thiết lập bằng các hợp đồng tín dụng
Quan hệ cho vay nhƣ đã phân tích là một quan hệ tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do đó,
các bên khi tham gia vào quan hệ này đều hƣớng tới thiết lập hợp đồng cho vay. Tuy
nhiên, về bản chất thì quan hệ cho vay này cũng là một giao dịch dân sự thông thƣờng.
Khi tham gia vào quan hệ cho vay, các bên phải thiết lập một hợp đồng ghi nhận sự
thỏa thuận giữ hai bên cho vay và bên đi vay. Nội dung của hợp đồng bên cạnh những


4

điều khoản bắt buộc theo quy định của pháp luật thì cịn có thêm các điều khoản ghi
nhận sự thỏa thuận giữ hai bên một cách rõ ràng, tránh tình trạng tranh chấp xảy ra.
Tuy nhiên, các hợp đồng tín dụng chủ yếu phải chịu sự chi phối của pháp luật

về hợp đồng. Thế nhƣng, hiện nay quan hệ hợp đồng dân sự cũng chƣa đạt đến độ
hoàn thiện. Một là, về vấn đề kĩ năng soạn thảo hợp đồng ở nƣớc ta hiện nay vẫn chƣa
đạt đến mức hoàn hảo. Hai là, các quy định pháp luật trong pháp luật hợp đồng vẫn
chƣa đạt đến độ hoàn thiện. Cho nên, các hợp đồng cho vay hiện nay vẫn chƣa đạt đến
độ đảm bảo an toàn một cách tuyệt đối. Điểm đặc biệt ở các hợp đồng tín dụng là
những hợp đồng này đƣợc xây dựng trên cơ sở mẫu sẵn của các NHTM, khi giao kết
hợp đồng các bên chỉ điền thơng tin vào những phần cịn trống, cịn nội dung đã đƣợc
các NHTM chủ động xây dựng dựa trên các quy định của pháp luật và điều lệ của
ngân hàng.
1.1.1.2. Nguyên tắc của hoạt động cho vay
Với vai trò và tầm quan trọng to lớn trong nền kinh tế, đồng thời nhằm làm cho
vốn vay đƣợc sử dụng một cách hiệu quả, hoạt động cho vay của các NHTM phải tuân
theo một số nguyên tắc và điều kiện nhất định. Nguyên tắc của hoạt động cho vay là
những nguyên tắc pháp lý để các chủ thể trong hoạt động cho vay tiến hành kí kết và
thực hiện các hợp đồng tín dụng. Việc đề ra những nguyên tắc của hoạt động cho vay
đồng thời cũng đảm bảo cho các chủ thể cho vay thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ
của mình trong khn khổ các ngun tắc đã đƣợc quy định trƣớc. Hoạt động cho vay
là một hoạt động chất chứa nhiều rủi ro, do vậy, khi thực hiện hoạt động này các bên
phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc hạn chế rủi ro, bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay.
Nhƣ đã phân tích, hoạt động cho vay cung cấp một nguồn vốn lớn vào lƣu
thông trong nền kinh tế phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Các
NHTM với vai trị là các trung gian tài chính, đi vay để cho vay và hƣởng lợi nhuận từ
sự chênh lệch lãi suất giữa hai hoạt động này. Tuy nhiên, hoạt động cho vay thƣờng có
tính rủi ro rất cao và thƣờng mang tính chất dây chuyền đối với nhiều lợi ích khác
nhau trong xã hội. Do đó, vấn đề đặt là, hiểu nhƣ thế nào là “rủi ro tín dụng” để có thể
đƣa ra các biện pháp hạn chế hợp lí và đảm bảo an tồn trong hoạt hoạt động cho vay.
Có nhiều cách định nghĩa về rủi ro tín dụng, tuy nhiên cách định nghĩa chính thức hiện
nay là: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng” (sau đây gọi
tắt là “rủi ro”) là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín



5

dụng do khách hàng khơng thực hiện hoặc khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình theo cam kết.5
Theo định nghĩa trên, vấn đề then chốt của các NHTM là làm sao cho dịng vốn
đƣợc ln chuyển thơng suốt, nắm giữ những nguồn vốn thừa và cung cấp cho những
nơi thiếu vốn sản xuất kinh doanh, hạn chế thấp nhất việc khách hàng khơng thực hiện
hoặc khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. Hiện nay, nhằm
hạn chế các rủi ro này, NHNN đã phân tán nguồn vốn vay cho nhiều khách hàng với
các thời hạn khác nhau. Đồng thời, NHNN cũng có các quy định về cấm cho vay, hạn
chế cho vay và thiết lập các giới hạn cho vay đối với các khách hàng có thể đe dọa dẫn
đến rủi ro cho hoạt động cho vay.
Nguyên tắc phải sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Khi đi vay tại các NHTM, ngƣời đi vay phải thể hiện rõ đƣợc mục đích sử dụng
vốn của mình là hợp pháp theo quy định của pháp luật và là mục đích vốn mà NHTM
có thể cho vay. Đồng thời, khách hàng vay cũng phải chứng minh đƣợc mục đích sử
dụng vốn vay của mình thơng qua các phƣơng án sử dụng vốn vay. Đây là một yêu cầu
bắt buộc của các NHTM khi thực hiện hoạt động cho vay đối với khách hàng. Bởi lẽ,
bản chất của NHTM là một tổ chức đi vay để cho vay, sự sống còn của NHTM phụ
thuộc rất nhiều vào việc sử dụng nguồn vốn của khách hàng. Trƣớc nhất, mục đích sử
dụng vốn phải đảm bảo tính hợp pháp theo đúng các quy định của pháp luật. Thứ hai,
những mục đích sử dụng vốn hợp pháp đó phải có phƣơng án sử dụng nguồn vốn khả
thi. Khi xem xét về mục đích sử dụng vốn thì NHTM chú trọng vào tính khả thi, có
hiệu quả của phƣơng án sử dụng nguồn vốn vay để quyết định cho khách hàng vay
vốn. Bởi vì, với mục đích đó và phƣơng án sử dụng vốn đã đƣợc NHTM thẩm định,
khách hàng sẽ có khả năng hồn trả nguồn vốn đã vay cho các ngân hàng. Do đó, các
NHTM thƣờng rất thận trọng khi xem xét mục đích vay vốn của khách hàng, mục đích
vay hợp pháp và thuộc những nhu cầu vốn mà NHTM đó có thể cho vay. Và việc xem

xét mục đích sử dụng vốn phải đƣợc thẩm định cùng với các điều kiện khác nhƣ tài
sản bảo đảm, phƣơng án sản xuất kinh doanh, tiêu dùng, khả năng trả nợ thì mới quyết
định cho vay.
Theo lẽ thông thƣờng, các khách hàng đi vay để sản xuất kinh doanh hay tiêu
dùng thì họ đều mong có thể sử dụng nguồn vốn đó theo đúng mục đích đã thỏa thuận
trong hợp đồng để phát sinh thêm lợi nhuận sau khi đã hoàn trả gốc là lãi cho NHTM.
Tuy nhiên, nhƣ đã phân tích, hoạt động cho vay là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro mà
5

Khoản 1 Điều 2 Quyết định 493/2005/QĐ – NHNN về việc phân loại nợ, trích lập và dự phịng để xử lí rủi ro
tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng.


6

trong một số trƣờng hợp khách hàng lại cố ý sử dụng vốn sai mục đích. Nếu khơng
thực hiện đúng nguyên tắc này thì khả năng thu hồi vốn sẽ chậm và tăng nguy cơ rủi ro
tín dụng của các NHTM. Nguyên tắc này giúp cho NHTM và bên đi vay thực hiện
hoạt động kinh doanh của mình có hiệu quả, thúc đẩy bên đi vay hoàn thành tốt hoạt
động sản xuất kinh doanh, tránh tình trạng sử dụng vốn vay sai mục đích, gây thất
thốt nguồn vốn. Đối với các NHTM, nguyên tắc này giúp họ có thể chủ động hơn
trong quá trình giám sát nguồn vốn của mình nhằm tránh rủi ro xảy ra, đảm bảo nguồn
vốn đƣợc sử dụng đúng mục đích và hiệu quả.
Ngun tắc hồn trả khoản tín dụng đúng hạn cả gốc và lãi theo thoả thuận
Ngân hàng thƣơng mại là một chủ thể kinh doanh tiền tệ thông qua hoạt động
huy động vốn tiền tệ trong công chúng để cho vay lại. Khi tiến hành hoạt động cho
vay, NHTM và bên đi vay phải thƣơng lƣợng với nhau một mức lãi suất cụ thể và
đƣợc ghi nhận trong hợp đồng tín dụng. Vì vậy, việc trả đúng thời hạn cả lãi và gốc
trong một thời hạn cam kết không chỉ là trách nhiệm của bên vay theo hợp đồng mà
còn là cơ sở để duy trì hoạt động của NHTM. Cơ sở lí luận của nguyên tắc này dựa

vào đặc điểm, với tƣ cách là trung gian tín dụng, NHTM đã sử dụng số tiền từ các
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để cho vay lại đối với các tổ chức và cá nhân
có nhu cầu. Ở giai đoạn huy động vốn, NHTM với tƣ cách là ngƣời đi vay đã hoàn trả
đúng gốc và lãi cho khách hàng mà mình vay. Vì vậy, khi thực hiện hoạt động cho
vay, NHTM có quyền u cầu bên đi vay hồn trả đúng hạn cả gốc và lãi cho mình.
Đây đƣợc xem nhƣ một sự bình đẳng, cơng bằng trong một giao dịch dân sự thơng
thƣờng.
Tuy nhiên, ngun tắc này vẫn có một số trƣờng hợp ngoại lệ, chẳng hạn nhƣ
trả không đúng thời hạn hoặc trả không đủ gốc và lãi đúng nhƣ thỏa thuận. Trƣờng
hợp bên vay có thể trả chậm hơn thời han quy định nếu có sự gia hạn và đƣợc bên cho
vay chấp thuận, nhƣng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc này, thanh toán cả gốc và lãi theo
đúng thời gian đã gia hạn. Mỗi trƣờng hợp sẽ có cách giải quyết khác nhau, chẳng hạn
cho kéo dài thời hạn trả nợ, cơ cấu lại khoản nợ, chuyển nợ quá hạn,.... Tuy nhiên, về
nguyên tắc, bên đi vay phải hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi cho bên cho vay.
Nguyên tắc này giúp cho các NHTM nhanh chóng quay vịng đƣợc nguồn vốn
tín dụng của mình đồng thời chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn vốn của mình.
Cịn về phía bên đi vay, ngun tắc này buộc họ phải sử dụng ngồn vốn sao cho đúng
mục đích, hiệu quả. Bởi lẽ, chỉ khi sử dụng nguồn vốn hiệu quả mới có thể hồn trả lại
khoản vay cho các NHTM và tránh đƣợc những hậu quả pháp lý do chậm trả nợ gây
ra.


7

Cho vay là một hình thức cấp tín dụng chủ yếu nhất của các NHTM và mang
tính rủi ro rất cao. Do đó, việc thiết lập các nguyên tắc trên là điều rất cần thiết để đảm
bảo cho hoạt động cho vay diễn ra thông suốt, không gặp phải các rủi ro. Tuy nhiên,
nguyên tắc là cái kiến trúc thƣợng tầng, đóng vai trị định hƣớng đảm bảo an tồn cho
hoạt động cho vay. Vì vậy, việc thiết lập các cơ sở hạ tầng, tức các điều kiện vay vốn
cụ thể cũng là một trong những cách thức quan trọng để hạn chế các rủi ro tín dụng.

1.1.2. Khái quát về điều kiện vay vốn tại Ngân hàng thƣơng mại
Hoạt động cho vay với vai trò là đòn bẩy phát triển kinh tế nhƣng lại có sự rủi ro
mang tính tiềm ẩn. Do đó, lịng tin là yếu tố cơ bản quyết định hiệu quả hoạt động kinh
doanh tín dụng ngân hàng6. Tuy nhiên, để trao đi lịng tin thì các NHTM cũng cần phải
dựa trên những căn cứ và cơ sở nhất định. Đó là các điều kiện mà pháp luật quy định
khách hàng phải đáp ứng đƣợc khi đến vay vốn tại các NHTM. Hiện nay, pháp luật
Ngân hàng khơng có định nghĩa về “điều kiện vay vốn” mà chỉ liệt kê những điều kiện
cụ thể để đƣợc vay vốn tại các NHTM. Nhƣ vậy, hiểu nhƣ thế nào là điều kiện vay
vốn? Thiết lập các điều kiện vay vốn nhƣ thế nào là hợp lí? Làm rõ đƣợc hai vấn đề đó
sẽ tạo nền tảng phân tích, đánh giá về điều kiện vay vốn ở những bƣớc tiếp theo.
Trong khóa luận này, tác giả hiểu, điều kiện vay vốn là những quy định về các
tiêu chí cụ thể mà dựa vào các tiêu chí đó, NHTM quyết định cho khách hàng vay. Căn
cứ vào cách hiểu đó, điều kiện vay vốn có thể xem xét ở nhiều góc độ khác nhau. Và ở
mỗi góc độ, điều kiện vay vốn lại đƣợc thể hiện bằng các tiêu chí khác nhau. Chẳng
hạn, dƣới góc độ kinh tế, nếu khách hàng muốn vay vốn tại một NHTM thì phải đáp
ứng đƣợc các điều kiện nhƣ: có năng lực kinh doanh, đảm bảo khả năng tài chính, có
tài sản bảo đảm,…Dƣới góc độ lịch sử tín dụng thì khách hàng phải khơng có dƣ nợ tại
NHTM, khách hàng có thái độ hợp tác và thiện chí khi thực hiện các hợp đồng tín
dụng,…Đó là các tiêu chí phụ mà các NHTM hiện nay thƣờng sử dụng để xét duyệt
cho vay đối với khách hàng. Với vai trò là Ngân hàng của các Ngân hàng, quản lý hoạt
động của các NHTM, nhằm hạn chế thấp nhất các rủi ro có thể gặp phải NHNN Việt
Nam cũng ban hành các điều kiện vay vốn để các NHTM lấy đó làm các quy định
khung , cụ thể:
- Thứ nhất, đáp ứng điều kiện về năng lực chủ thể, NHNN quy định khách hàng
vay vốn tại các NHTM phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và
chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật;

6

Trƣờng ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Khoa Luật Thƣơng mại (2013), “Giáo trình Luật Ngân hàng”, NXB Hồng

Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Tr.306.


8

-

Thứ hai, đáp ứng điều kiện về mục đích sử dụng vốn, theo quy định thì khách

hàng sẽ đƣợc vay vốn tại các NHTM nếu nhƣ mục đích sử dụng vốn là hợp pháp;
-

Thứ ba, đáp ứng điều kiện về khả năng tài chính để trả nợ;

-

Thứ tƣ, đáp ứng điều kiện về phƣơng án sản xuất kinh doanh và tiêu dùng;

-

Thứ năm, đáp ứng điều kiện về tài sản bảo đảm.

Với các quy định này, pháp luật đã tạo ra một khung pháp lý nhằm đảm bảo an
toàn nguồn vốn cho các NHTM khi đối mặt với các rủi ro luôn tiềm ẩn. Đồng thời,
mỗi quy định về điều kiện vay vốn có một ý nghĩa pháp lý, cũng nhƣ ý nghĩa kinh tế
nhất định. Do đó, vấn đề tìm hiểu, phân tích ý nghĩa, bản chất của những điều kiện vay
này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hoạt động cho vay của NHTM.
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện vay vốn tại Ngân hàng thƣơng
mại
1.2.1. Điều kiện về năng lực chủ thể

Điều kiện về năng lực chủ thể đƣợc xem là điều kiện quan trọng và là nền
tảng khi thiết lập các điều kiện vay vốn tại NHTM của khách hàng. Bởi lẽ, về bản chất,
hợp đồng cho vay cũng là một giao dịch dân sự thơng thƣờng, vì vậy, hợp đồng cho
vay cũng buộc phải tuân theo các quy định chung của một giao dịch dân sự. Theo đó,
Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 (sau đây viết là BLDS) chú trọng đến điều kiện về
năng lực chủ thể của khách hàng vay, bao gồm: năng lực pháp luật dân sự và năng lực
hành vi dân sự của một chủ thể khi tham gia vào các giao dịch dân sự.
Theo quy định của BLDS thì giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực khi chủ thể tham
gia giao dịch đảm bảo về năng lực chủ thể, tức là phải có đủ năng lực pháp luật dân sự
và có năng lực hành vi dân sự. Nếu không đáp ứng điều kiện này thì giao dịch dân sự
sẽ vơ hiệu, do đó, đây đƣợc xem là một điều kiện quan trọng để đảm bảo tính hợp
pháp của hợp đồng cho vay. Nhƣ vậy, nếu nhƣ khách hàng đến vay vốn tại các NHTM
mà khơng có năng lực hành vi dân sự, hoặc không thỏa mãn các điều kiện cho một
giao dịch dân sự của ngƣời hạn chế năng lực hành vi dân sự thì cũng khơng thể tiến
hành kí kết các hợp đồng tín dụng. Nếu vi phạm điều kiện này thì rủi ro chắc chắn sẽ
xảy ra và chịu trách nhiệm pháp lý của một hợp đồng vô hiệu.
Khoản 1 Điều 7 Quy chế cho vay quy định điều kiện về năng lực chủ thể là điều
kiện đầu tiên khi khách hàng đến vay vốn tại các NHTM. Theo đó, điều kiện cho từng
trƣờng hợp cụ thể đƣợc quy định một cách chi tiết. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định


9

của Quy chế cho vay, điều kiện về năng lực chủ thể có thể chia thành hai nhóm, gồm:
năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Đồng thời, Quy chế cho vay
cũng hƣớng đến quy định cho hai nhóm đối tƣợng là: khách hàng là tổ chức và khách
hàng là cá nhân, cụ thể:
+ Đối với cá nhân7: Phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự
và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
+Đối với tổ chức8: Tổ chức phải có năng lực pháp luật dân sự và ngƣời đại diện

vay vốn của tổ chức phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
Thứ nhất, về năng lực pháp luật dân sự.
Đối với cá nhân, người đại diện của tổ chức vay vốn thì năng lực pháp luật dân
sự là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự và có từ khi ngƣời đó
sinh ra và chấm dứt khi ngƣời đó chết. Theo quy định của Bộ Luật Dân sự thì mọi cá
nhân đều có năng lực pháp luật dân sự nhƣ nhau. Nhƣ vậy, theo quy định này thì các
khách hàng là cá nhân đến vay vốn tại các NHTM đều đáp ứng đƣợc điều kiện này.
Đối với tổ chức là pháp nhân, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả
năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phù hợp với mục đích hoạt động
của mình. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm pháp nhân
đƣợc thành lập và chấm dứt từ thời điểm chấm dứt pháp nhân. Ngƣời đại diện theo
pháp luật hoặc ngƣời đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân nhân danh pháp nhân
trong quan hệ dân sự. Nhƣ vậy, việc xác định năng lực pháp luật dân sự của khách
hàng là tổ chức cũng khơng q khó khăn, bởi lẽ, việc thành lập các tổ chức này đƣợc
thể hiện qua chứng từ pháp lí rõ ràng.
Thứ hai, về năng lực hành vi dân sự.
Đối với điều kiện về năng lực hành vi thì đây là điều kiện chỉ dành cho khách
hàng vay là cá nhân và đại diện của tổ chức vay vốn. Bởi lẽ, năng lực hành vi dân sự là
khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân
sự. Nhƣ vậy, nếu nhƣ năng lực pháp luật dân sự của các cá nhân là nhƣ nhau, có từ khi
sinh ra và chấm dứt khi cá nhân đó chết đi thì năng lực hành vi dân sự của cá nhân
hồn toàn khác biệt. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân đƣợc xác định qua độ tuổi
và mức độ nhận thức hành vi. Do đó, với các chủ thể khác nhau thì năng lực hành vi
7

Khoản 1 Điều 7 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN
8
Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối
với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN



10

dân sự cũng sẽ khác nhau. Do đó, khi xét đến năng lực chủ thể của khách hàng, các
NHTM cũng chú trọng đến điều kiện này. Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 quy
định rất cụ thể năng lực hành vi dân sự, cụ thể, có thể chia làm bốn nhóm nhƣ sau:


Nhóm có năng lực hành vi dân sự, bao gồm:

- Nhóm có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Ngƣời thành niên có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ, trừ trƣờng hợp quy định hạn chế và mất năng lực hành vi dân sự. Đối
với nhóm chủ thể này thì họ có quyền tự mình xác lập các giao dịch dân sự.
- Nhóm có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ:
+ Ngƣời từ đủ sáu tuổi đến chƣa đủ mƣời tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự phải đƣợc ngƣời đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục
vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác.
+ Trong trƣờng hợp ngƣời từ đủ mƣời lăm tuổi đến chƣa đủ mƣời tám tuổi có
tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của ngƣời đại diện theo pháp luật, trừ
trƣờng hợp pháp luật có quy định khác.
 Nhóm khơng có năng lực hành vi dân sự: Ngƣời chƣa đủ sáu tuổi khơng
có năng lực hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của ngƣời chƣa đủ sáu tuổi phải do
ngƣời đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.


Nhóm bị mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự

+ Mất năng lực hành vi dân sự: Khi một ngƣời do bị bệnh tâm thần hoặc mắc

bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình thì theo u cầu
của ngƣời có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định. Khi khơng cịn căn cứ tuyên
bố một ngƣời mất năng lực hành vi dân sự thì theo u cầu của chính ngƣời đó hoặc
của ngƣời có quyền, lợi ích liên quan, Tồ án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố
mất năng lực hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của ngƣời mất năng lực hành vi dân sự
phải do ngƣời đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
+ Hạn chế năng lực hành vi dân sự: Ngƣời nghiện ma tuý, nghiện các chất kích
thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo u cầu của ngƣời có quyền,
lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Tồ án có thể ra quyết định tun bố là
ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Ngƣời đại diện theo pháp luật của ngƣời bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện do Toà án quyết định. Giao dịch
dân sự liên quan đến tài sản của ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự


11

đồng ý của ngƣời đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh
hoạt hàng ngày. Khi khơng cịn căn cứ tun bố một ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự thì theo yêu cầu của chính ngƣời đó hoặc của ngƣời có quyền, lợi ích liên quan,
cơ quan, tổ chức hữu quan, Tồ án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố hạn chế
năng lực hành vi dân sự.
Nhƣ vậy, theo quy định của Quy chế cho vay, khách hàng khi đến vay vốn tại
các NHTM buộc phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Tuy
nhiên, quy định trong quy chế là quy định khung, do đó vẫn cịn mang tính chất chung
chung, chƣa có các quy định cụ thể. Vì vậy, khi xét điều kiện về năng lực chủ thể của
khách hàng thì các NHTM phải quy định cụ thể để có thể dễ dàng áp dụng. Thứ nhất,
về vấn đề năng lực pháp luật cần chú trọng hai điểm trọng tâm sau: Một là, năng lực
pháp luật của pháp nhân bởi vì đây là điều kiện có thể thay đổi trong q trình vay
vốn. Và sự thay đổi này sẽ dẫn đến những hệ lụy tiếp theo trong các điều kiện vay vốn.

Hai là, phạm vi đại diện của ngƣời đại diện pháp nhân. Ba là, vấn đề pháp lí khi kí kết
hợp đồng với hộ gia đình. Thứ hai, về năng lực hành vi dân sự của cá nhân, Quy chế
cho vay chỉ quy định là có năng lực hành vi dân sự, cịn việc khách hàng có năng lực
hành vi dân sự nhƣng ở mức nào, có cần đầy đủ hay chỉ cần có nhƣng khơng đầy đủ và
phải đạt những tiêu chí cụ thể nào thì hồn tồn khơng có các quy định cụ thể. Do đó,
các NHTM cũng cần thiết có các quy định rõ ràng để có thể dễ dàng áp dụng trong
hoạt động cho vay tại ngân hàng.
1.2.2. Điều kiện về mục đích sử dụng vốn
Điều kiện về mục đích sử dụng vốn là điều kiện quan trọng thứ hai sau điều kiện
năng lực chủ thể của khách hàng. Bởi nếu điều kiện về năng lực chủ thể xác định
khách hàng có đủ khả năng nhận thức về giao dịch của mình khơng thì mục đích sử
dụng vốn sẽ quyết định khách hàng đó có đƣợc vay hay khơng, nếu đƣợc vay thì giới
hạn của những khoản vay đó là bao nhiêu và thời hạn vay trong bao lâu. Bên cạnh đó,
mục đích sử dụng vốn sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định hiệu lực của hợp
đồng tín dụng. Bởi lẽ, nếu mục đích của các khoản vay không hợp pháp sẽ thuộc giao
dịch bị pháp luật cấm và dẫn đến hậu quả pháp lí là hợp đồng vơ hiệu. Khơng chỉ vậy,
mục đích sử dụng vốn còn quyết định đến quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của
các bên trong hợp đồng tín dụng khi có vi phạm hợp đồng hoặc tranh chấp xảy ra.
Theo quy định của Quy chế cho vay thì khách hàng muốn vay vốn tại các NHTM
thì phải có mục đích sử dụng vốn hợp pháp. Bên cạnh đó, Quy chế cũng liệt kê ra các
nhu cầu khơng đƣợc cho vay, cụ thể là các nhu cầu vốn sau:


12

- Tổ chức tín dụng khơng đƣợc cho vay các nhu cầu vốn sau đây:
+ Để mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua
bán, chuyển nhƣợng, chuyển đổi;
+ Để thanh tốn các chi phí cho việc thực hiện các giao dịch mà pháp luật cấm;
+ Để đáp ứng các nhu cầu chính của các giao dịch mà pháp luật cấm.

- Việc đảo nợ, các tổ chức tín dụng thực hiện theo quy định riêng của Ngân hàng Nhà
nƣớc Việt Nam.
Nhƣ vậy, với các quy định tại Quy chế thì khi phân tích điều kiện mục đích sử
dụng vốn vay cần chú ý đến hai vấn đề sau:
Thứ nhất, hiểu thế nào về mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. Dƣới góc độ là
ngân hàng trung ƣơng, ngân hàng quản lý thì NHNN quy định mục đích sử dụng vốn
vay của khách hàng phải “hợp pháp”. Nhƣ vậy, trên phƣơng diện quy định của pháp
luật thì nhu cầu vốn hợp pháp là những nhu cầu không thuộc các trƣờng hợp cấm cho
vay. Tuy nhiên, khi đối chiếu lại các quy định của pháp luật, ta lại thấy, pháp luật
ngân hàng không quy định rõ các trƣờng hợp vay vốn về để mua bán, chuyển nhƣợng,
chuyển đổi tài sản gì hay sử dụng vào việc gì là bị cấm. Trong trƣờng hợp này, các
ngân hàng lại phải đối chiếu tiếp các quy định pháp luật trong các lĩnh vực chuyên
ngành để xác định những mục đích sử dụng vốn nào bị pháp luật cấm. Chẳng hạn,
NHTM sẽ không đƣợc kinh doanh các lĩnh vực sau: Kinh doanh vũ khí quân dụng,
trang thiết bị, kỹ thuật, khí tài, phƣơng tiện chuyên dùng quân sự, công an; quân trang
(bao gồm cả phù hiệu, cấp hiệu, quân hiệu của quân đội, công an), quân dụng cho lực
lƣợng vũ trang; Kinh doanh các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê tín dị đoan
hoặc có hại tới giáo dục thẩm mỹ, nhân cách; Kinh doanh các loại pháo; Kinh doanh
các loại đồ chơi, trị chơi nguy hiểm, đồ chơi, trị chơi có hại tới giáo dục nhân cách và
sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự an toàn xã hội; Kinh doanh mại dâm, tổ
chức mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em;
Bên cạnh đó, khi phân tích các quy định về điều kiện mục đích sử dụng vốn
phát sinh thêm một vấn đề cần làm rõ, đó là, phải chăng các mục đích sử dụng vốn hợp
pháp là những mục đích khơng thuộc trƣờng hợp pháp luật cấm cho vay? Theo quan
điểm của tác giả không nên đồng nhất hai vấn đề trên. Bởi lẽ, mục đích sử dụng vốn
hợp pháp là mục đích sử dụng vốn phù hợp với các quy định của pháp luật. Theo đó,
nếu có bất kì văn bản nào ban hành liên quan đến những mục đích sử dụng vốn khơng
đƣợc cho vay thì NHTM đều phải tuân thủ. Điều đó đồng nghĩa với việc nếu trong thời



13

hạn vay vốn thì mục đích vay vốn đã đƣợc xét duyệt cho vay trƣớc đây thuộc các
trƣờng hợp cấm cho vay thì NHTM sẽ khơng kịp thu hồi lại nguồn vốn đã giải ngân
trƣớc đó. Điều này lại dẫn đến rủi ro khách quan cho các NHTM.
Thứ hai, về vấn đề cho vay đảo nợ tại các NHTM. Đảo nợ là việc mà các
NHTM cho khách hàng vay các khoản vay mới để trả các khoản vay cũ. Hiện nay,
ngoài quy định việc đảo nợ các NHTM thực hiện theo các quy định của NHNN thì
khơng có bất kì một quy định nào khác quy định về việc đảo nợ. Tuy nhiên, hiện nay,
việc đảo nợ đƣợc các NHTM thực hiện rất nhiều nhằm giải quyết các khoản nợ xấu.
Tuy nhiên, nếu xét về lâu dài thì đó chỉ là khoản nợ mới chồng khoản nợ cũ và nợ vẫn
là nợ. Thực hiện nhƣ vậy cịn tạo tâm lí ỷ lại cho ngƣời đi vay, không cố gắng sử dụng
vốn đúng mục đích, theo phƣơng án kinh doanh, khó có thể thu hồi nguồn vốn vì dù có
kinh doanh có nhƣ thế nào thì họ vẫn đƣợc vay vốn lần tiếp theo để trả nợ. Vì vậy, đối
với việc đảo nợ, NHNN nên có các quy định cụ thể, tránh tình trạng nhƣ hiện nay, các
NHTM vẫn làm nhƣng khơng có luật điều chỉnh.
1.2.3. Điều kiện về khả năng tài chính đảm bảo trả nợ
Nhƣ đã phân tích, bản chất của hoạt động cho vay là một hoạt động tiềm ẩn
nhiều rủi ro và bên chịu nhiều rủi ro thƣờng là các NHTM, bên đã cung cấp nguồn vốn
cho bên đi vay. Do đó, các điều kiện cho vay đƣợc xây dựng đều nhằm mục đích hạn
chế thấp nhất những rủi ro đó. Đồng thời, các điều kiện cho vay phải phần nào thể hiện
đƣợc nguyên tắc của hoạt động cho vay. Nếu điều kiện về năng lực chủ thể, điều kiện
về mục đích sử dụng vốn nhằm hạn chế rủi ro vơ hiệu trong hợp đồng tín dụng thì Quy
chế cho vay cũng thiết lập thêm một điều kiện trên phƣơng diện kinh tế để đảm bảo về
khả năng tài chính trả nợ của khách hàng. Bên cạnh đó, xem xét, thẩm định kĩ lƣỡng
về khả năng tài chính của khách hàng để họ có thể trả nợ trong thời hạn cam kết nhằm
thực hiện đúng theo nguyên tắc vay có hồn trả của hoạt động cho vay. Theo đó, Điều
7 Quy chế cho vay quy định: “Ngƣời đi vay phải có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ
trong thời hạn cam kết”. Đây đƣợc xem là một trong những nội dung quan trọng để
ngân hàng có quyết định cho vay hay khơng bởi nó là cơ sở quan trọng để đảm bảo

khả năng thu hồi vốn của ngân hàng.
Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể nhƣ thế nào đƣợc gọi là “đảm bảo khả
năng tài chính để trả nợ trong thời hạn cam kết” mà chỉ quy định và xem đây nhƣ một
điều kiện cần cho khách hàng đến vay vốn tại các NHTM. Cịn cụ thể, cách đánh giá
khả năng tài chính của khách hàng có đủ để đảm bảo trả nợ trong thời gian cam kết
khơng thì sẽ do các NHTM trực tiếp xây dựng và áp dụng theo chiến lƣợc kinh doanh
của mình. Hiện nay, các NHTM thƣờng xác định khả năng tài chính để trả nợ của bên


14

đi vay từ nhiều góc độ. Chẳng hạn, đối với cá nhân thì khả năng tài chính có thể đƣợc
đánh giá thông qua nguồn thu cố định hàng tháng nhƣ lợi nhuận kinh doanh hay lƣơng,
thƣởng,…của họ. Bên cạnh đó, khả năng tài chính của cá nhân cịn có thể đƣợc đánh
giá qua tài sản mà họ đang sở hữu nhƣ vật, giấy tờ có giá,…. Đới với khách hàng là tổ
chức thì thì khả năng tài chính của họ đƣợc đánh nguồn vốn tự có họ tham gia vào đầu
tƣ, sản xuất kinh doanh và tình hình sản xuất kinh doanh của họ. Đồng thời, trong từng
gói sản phẩm chiến lƣợc hay từng dịch vụ tiện ích chăm sóc khách hàng sẽ có những
cách đánh giá về khả năng tài chính riêng.
Pháp luật đã tạo các quy định khung nhằm không can thiệp quá sâu vào các hoạt
động nghiệp vụ của các NHTM. Nhƣ vậy vừa đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động
kinh doanh vừa để cho các NHTM tự chịu trách nhiệm về khả năng thu hồi nguồn vốn
cho vay cho các NHTM. Xét ở góc độ tích cực là vậy nhƣng theo tác giả việc pháp luật
hiện hành khơng có những quy định cụ thể hơn, hƣớng dẫn chi tiết hơn trong việc
thẩm định đối với điều kiện này sẽ rất dễ dẫn đến các rủi ro. Vẫn biết rằng, với vai trò
là tổ chức cho vay, NHTM dùng nguồn vốn đi vay của mình chuyển giao nguồn vốn
của mình cho khách hàng nên khơng một tổ chức, cá nhân nào hơn các NHTM muốn
nguồn vốn của mình lƣu thơng đúng mục đích, nhanh chóng sản sinh lợi nhuận để
xoay vòng vốn, hƣởng khoản lợi nhuận chênh lệch. Tuy nhiên, hiện nay các báo cáo
tài chính khơng phản ánh đƣợc chính xác tình hình vay vốn của bên vay vốn. Nguyên

nhân có thể do bên cho vay khơng đủ nhân lực để đánh giá, cũng có thể do bên cho
vay khơng có đủ các kiến thức, kĩ năng về kế tốn, phân tích, đánh giá những điểm bất
hợp lý trong các báo cáo tài chính đó.
1.2.4. Điều kiện phƣơng án sử dụng vốn
Khách hàng khi đi vay ngồi việc thể hiện đƣợc mục đích sử dụng vốn vay của
mình thì cịn phải thể hiện đƣợc phƣơng án sử dụng vốn vay theo mục đích vay vốn đã
xin phép . Điều 7 Quy chế quy định, để đƣợc các NHTM đồng ý cho vay thì ngƣời đi
vay cần có dự án đầu tƣ, phƣơng án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu
quả; hoặc có dự án đầu tƣ, phƣơng án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy
định của pháp luật. Nhƣ đã phân tích ở trên, tổ chức tín dụng nói chung và NHTM nói
riêng là một tổ chức kinh tế đi vay để cho vay và lợi nhuận họ nhận đƣợc là khoản
chênh lệch giữa hai hoạt động chủ yếu này. Vì vậy, có thể khẳng định “sống còn” của
NHTM phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả kinh doanh của khách hàng. Do đó, NHTM
cần một minh chứng an tồn cho mình từ phía các khách hàng vay. Tùy theo mục đích
sử dụng vốn khác nhau mà việc chứng minh mục đích sử dụng vốn hay điều kiện về


15

phƣơng thức sử dụng vốn cũng khác nhau. Có thể chia phƣơng án sử dụng vốn thành
hai nhóm cơ bản sau:
Thứ nhất, đối với dự án đầu tƣ, phƣơng án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, pháp
luật quy định các dự án, phƣơng thức sản xuất kinh doanh này phải đảm bảo tính khả
thi và có hiệu quả. Cũng giống nhƣ quy định về đảm bảo khả năng tài chính, đối với
điều kiện này, pháp luật cũng không quy định cụ thể nhƣ thế nào là “phƣơng án kinh
doanh khả thi và có hiệu quả”. Do đó, các NHTM tự xây dựng các tiêu chí và tiến
hành thẩm định từng tiêu chí cụ thể.
Thứ hai, đối với dự án đầu tƣ, phƣơng án phục vụ đời sống: trong trƣờng hợp
này, pháp luật quy định dự án đầu tƣ, phƣơng án phục vụ đời sống phải khả thi và phù
hợp với các quy định của pháp luật. Dự án đầu tƣ, phƣơng án phục vụ đời sống khả thi

và phù hợp với quy định của pháp luật thì hiện nay vẫn chƣa có văn bản hƣớng dẫn chi
tiết cụ thể.
Tuy pháp luật hiện nay vẫn còn dừng lại ở các quy định khung nhƣng quy định
này đã phần nào hạn chế những rủi ro có thể xảy ra trong q trình sử dụng vốn vay.
Quy định nhƣ vậy tuy có những điểm tích cực nhƣng cũng khơng tránh khỏi những hệ
quả khơng lƣờng trƣớc đƣợc. Ơng bà ta thƣờng nói: “Đồng tiền đi liền khúc ruột”,
NHTM là chủ thể cung cấp nguồn vốn cho khách hàng, vì vậy họ sẽ chịu trách nhiệm
thẩm định khách hàng của mình tùy theo chiến lƣợc phát triển của Ngân hàng với các
gói sản phẩm khác nhau.
Và hơn bất kì một tổ chức, cá nhân nào, NHTM cho vay sẽ phải là chủ thể “lo
lắng” cho những khoản cho vay của mình nhất. Tuy nhiên, vấn đề gì cũng có hai mặt
của nó, việc quy định nhƣ vậy tích cực có nhiều nhƣng hệ quả cùng khơng ít. Bởi lẽ,
mục tiêu kinh doanh của NHTM là lợi nhuận và cơ sở kinh doanh của họ là dựa vào
yếu tố “niềm tin”. Nếu giao cho các NHTM tự quyết hết các vấn đề về thẩm định thì sẽ
dễ dẫn đến trƣờng hợp vì mục tiêu lợi nhuận trao đi “niềm tin” quá nhiều vào khách
hàng mà khơng kĩ lƣỡng trong q trình thẩm định. Đó là chƣa kể đến những bất cập
nhƣ hiện nay, nhân viên kinh doanh vì muốn đạt đƣợc những chỉ tiêu kinh doanh đƣợc
giao mà đơn giản hơn trong quá trình thẩm định hoặc cố ý làm trái cho ngƣời thân
quen vay khi họ không đáp ứng đƣợc điều kiện này.
1.2.5. Điều kiện về các biện pháp đảm bảo tiền vay
Bảo đảm tiền vay là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, đƣợc pháp
luật quy định theo một khuôn mẫu nhất định. Hiện nay, các quy định về các biện pháp
bảo đảm tiền vay ngày càng đƣợc đầu tƣ xây dựng. Ngoài những quy định trong Bộ


×