Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Quy định pháp luật trong việc giải quyết xung đột pháp luật từ quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.31 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ - LUẬT
----------

BÀI THẢO LUẬN
Học phần: Tư pháp quốc tế

Đề tài: Bình luận các quy định hiện hành của pháp luật
Việt Nam trong việc giải quyết xung đột pháp luật từ
quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài.
Nhóm 2

Hà Nội, tháng 4 năm 2016

NHÓM 2

Page 1


BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ
S
T
T

Họ và tên

Chức trách
trong nhóm

Tự đánh
giá



Nhóm
đánh giá

GV đánh
giá

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Nhóm trưởng

NHÓM 2

Page 2


I.

Lý luận chung về quan hệ tài sản có yếu tố nước ngoài và việc giải quyết
xung đột pháp luật từ quan hệ tài sản có yếu tố nước ngoài
1. Quan hệ tài sản có yếu tố nước ngoài
1.1 Khái niệm

Pháp luật không có quy định cụ thể về quan hệ tài sản có yếu tố nước ngoài. Tuy
nhiên, về bản chất, quan hệ tài sản có yếu tố nước ngoài cũng là một quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã quy định chi tiết
khái niệm này, cụ thể:
Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được hiểu là quan hệ dân sự có ít nhất một
bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ
chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi chấm dứt quan hệ đó theo
pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan
hệ đó ở nước ngoài.
Như vậy, hoàn toàn có thể tiếp cận khái niệm quan hệ tài sản có yếu tố nước
ngoài từ khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Theo đó:
Quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài được hiểu là quan hệ sở hữu tài sản
có ít nhất một bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ sở hữu tài sản giữa các bên tham
gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi chấm dứt
quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên
quan đến quan hệ đó ở nước ngoài
1.2

Đặc điểm
Có thể thấy, quan hệ tài sản có yếu tố nước ngoài là đối tượng của tư pháp quốc
tế. Do đó, nó phải được nhận biết bởi một trong ba dấu hiệu sau:

(1)

(2)
(3)
2.


Có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài hoặc người Việt Nam ở nước ngoài
tham gia. Trong đó, người nước ngoài là những người mang quốc tịch nước
ngoài (không đồng thời mang quốc tịch Việt Nam) và người không có quốc tịch.
Khách thể của quan hệ đó ở nước ngoài. Cụ thể đối với quan hệ sở hữu tài sản
có yếu tố nước ngoài, tài sản đó phải ở nước ngoài.
Sự kiện pháp lý là căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ sở hữu tài sản xảy
ra ở nước ngoài.
Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật
Giống như Tư pháp quốc tế của đa số các nước trên thế giới, tư pháp quốc tế
Việt Nam cũng có những cách thức và biện pháp rất riêng và đặc thù để điều
NHÓM 2

Page 3


chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Đó là phương pháp xung đột,
phương pháp thực chất cũng như sự kết hợp hài hòa và sự tác động tương hỗ
giữa hai phương pháp này trong việc thiết lập một cơ chế điều chỉnh các quan hệ
của Tư pháp quốc tế và đảm bảo trật tự pháp lý tư pháp quốc tế.
-

Phương pháp xung đột

Để giải quyết một vấn đề nhất định trong một quan hệ bất kỳ của Tư pháp quốc
tế, các cơ quan có thẩm quyền phải chọn áp dụng pháp luật nước này hay nước
kia có liên đới tới các yếu tố nước ngoài để xác định quyền và nghĩa vụ giữa các
bên đương sự. Việc tiến hành lựa chọn hệ thống pháp luật nào được áp dụng
phải dựa trên cơ sở quy định của các quy phạm xung đột. Khoa học Tư pháp
quốc tế coi việc xây dựng và thực hiện các quy phạm xung đột là phương pháp
xung đột. Phương pháp này được áp dụng chủ yếu và rộng rãi trong Tư pháp

quốc tế của các nước trên thế giới.
-

Phương pháp thực chất

Phương pháp thực chất được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực
chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, tức nó trực tiếp phân định
quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia quan hệ.
Các quy phạm thực chất gồm hai loại:
+ Quy phạm thực chất thống nhất: là quy phạm thực chất được xây dựng trong
các điều ước quốc tế
+ Quy phạm thực chất trong nước: Là quy phạm được xây dựng trong các văn
bản quy phạm pháp luật của mỗi nhà nước.

Quy định của pháp luật hiện hành

II.

Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài nói
riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam đều được xây dựng trên cơ sở
phương pháp xung đột và phương pháp thực chất. Các phương pháp này được
luật pháp hóa bới các quy phạm xung đột và quy phạm thực chất.
1.

Quy phạm xung đột

NHÓM 2

Page 4



Quy phạm xung đột là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần được áp dụng
để giải quyết quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong một tình huống nhất
định.
Để giải quyết những vấn đề xung đột pháp luật về quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài nói chung và quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài nói riêng,
pháp luật Việt Nam đã có những quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề này. Tuy
nhiên nó được quy định rải rác trong các văn bản pháp luật mà không được hệ
thống thành một văn bản cụ thể.
Đa số các nước hiện nay đều thống nhất áp dụng nguyên tắc chung để giải quyết
quan hệ sở hữu có yếu tố nước là việc áp dụng pháp luật nơi có tài sản. Tuy
nhiên, ngoài hệ thuộc luật nơi có tài sản, pháp luật nước ta còn ghi nhận một số
hệ thuộc khác như luật quốc tịch, luật nước nơi người bán…
Trong đó, luật nơi có tài sản (Lex rei sitae) được hiểu là vật (tài sản) hiện đang
tồn tại ở nước nào thì luật của nước đó áp dụng đối với tài sản đó.
Bộ luật dân sự Việt Nam cũng dựa trên nguyên tắc chung này để giải quyết xung
đột về quan hệ sở hữu tài sản, quy định cụ thể tại Điều 766 Bộ luật dân sự 2005:
"1. Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung
quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài
sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều này.
2. Quyền sở hữu đối với động sản trên đường vận chuyển được xác định theo
pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, nếu không có thoả thuận
khác.
3. Việc phân biệt tài sản là động sản hoặc bất động sản được xác định theo
pháp luật của nước nơi có tài sản.
4. Việc xác định quyền sở hữu đối với tàu bay dân dụng và tàu biển tại Việt
Nam phải tuân theo pháp luật về hàng không dân dụng và pháp luật về hàng hải
của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam."
Như vậy, khoản 1 Điều 766 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định quyền sở hữu và

các quyền tài sản khác sẽ do luật nơi có tài sản điều chỉnh mà không phụ thuộc
vào đối tượng của quan hệ sở hữu là động sản hay bất động sản. Nếu tài sản đó ở
Việt Nam thì đương nhiên phải tuân theo pháp luật Việt Nam, không phụ thuộc
vào quốc tịch, nơi cư trú của chủ sở hữu của tài sản đó. Phần lớn pháp luật của
các nước châu Âu lục địa, pháp luật Anh– Mĩ cũng như pháp luật của các nước
Australia, Nhật Bản, Việt Nam,… đều áp dụng nguyên tắc này. Duy chỉ có một
NHÓM 2

Page 5


số nước như Ai Cập, Áo,… thì áp dụng luật quốc tịch đối với động sản. Việc quy
định như trên khá ưu việt khi chọn áp dụng pháp luật của nơi trực tiếp quản lí tài
sản đó. Hơn nữa lại tránh được những khó khăn khi xác định quốc tịch của
người có nhiều quốc tịch. Trong xu thế mở cửa hiện nay, lượng người nước
ngoài làm ăn sinh sống tại Việt Nam có xu hướng tăng. Khi đó, đối với quốc gia
mà mình mang quốc tịch, họ gắn bó về mặt pháp lí, còn về thực tế, mọi giao
giao dịch phát sinh liên quan đều diễn ra tại Việt Nam. Do đó, quyền sở hữu đối
với động sản áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản là rất hợp lí. Tuy nhiên đặt ra
một vấn đề, trong trường hợp quyền sở hữu tài sản phát sinh ở nước thứ nhất,
thay đổi ở nước thứ hai và chấm dứt ở nước thứ ba mà sự di chuyển giữa các
quốc gia là hợp pháp thì chỉ có pháp luật nơi có tài sản điều chỉnh nó hay đồng
thời có sự điều chính của pháp luật có liên quan? Pháp luật Việt Nam cần có
những quy định rõ ràng để điều chỉnh vấn đề này
Thứ hai, theo quy định của Bộ luật dân sự thì quyền sở hữu “đối với động sản
đang trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi có
động sản được chuyển đến, nếu không có thỏa thuận khác”.
Theo pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới, quyền sở hữu tài sản đối với tài sản
đang trên đường vận chuyển sẽ được điều chỉnh bởi một trong các hệ thống
pháp luật sau:

-

Pháp luật nước nơi gửi tài sản đi
Pháp luật nước nơi nhận tài sản
Pháp luật nước mà phương tiện vận tải mang quốc tịch (trong lĩnh vực
giao thông vận tải bằng tàu biển hoặc máy bay)
Pháp luật của nước nơi có trụ sở của Tòa án có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp
Pháp luật của nước hiện đang có tài sản
Pháp luật của nước do các bên lựa chọn

Thực tế, nhiều nước trên thế giới sử dụng hệ thuộc luật nơi có động sản được
chuyển đi là bởi vì hầu hết các nước này đều là những nước có nền kinh tế cũng
như việc xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài phát triển, khi quy định như thế, các
nước đã tính đến lợi ích mà họ có thể có được trong quan hệ hợp đồng.
Còn đối với Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay vẫn là một nước có tỉ lệ nhập
khẩu cao hơn tỉ lệ xuất khẩu, vì thế nếu quy định lựa chọn luật nước người bán
để áp dụng sẽ gây nhiều bất lợi cho cá nhân, cơ quan tổ chức trong nước. Vì vậy,
pháp luật Việt Nam áp dụng hệ thuộc luật của nước do các bên thỏa thuận lựa
chọn, chỉ khi không có sự thỏa thuận thì mới áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản
NHÓM 2

Page 6


được chuyển đến. Có thể nói, việc lựa chọn hệ thuộc luật nơi có tài sản được
chuyển đến là quy định khá đặc thù của Bộ luật dân sự Việt Nam, phù hợp với
thực tiễn của Việt Nam và bảo vệ được lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ
sở hữu tài sản trong nước.Tuy nhiên, quy định này vẫn chưa bảo vệ quyền lợi
cho tổ chức, cá nhân trong nước một cách triệt để vì hệ thuộc luật nơi tài sản

được chuyển đến chỉ được áp dụng khi các bên không có thỏa thuận
Thứ ba, về vấn đề xung đột về định danh tài sản: Để giải quyết vấn đề xung đột
pháp luật về quyền sở hữu với tài sản trong đó có bất động sản, pháp luật của
hầu hết các quốc gia đều ghi nhận nguyên tắc áp dụng luật của nước nơi có tài
sản. Tuy nhiên, vấn đề khác nảy sinh là nếu đối với cùng một tài sản mà quốc
gia này cho là động sản nhưng quốc gia khác lại quy định là bất động sản thì sẽ
giải quyết như thế nào? Hai khái niệm “động sản” và “bất động sản” chưa được
hiểu một cách thống nhất trong hệ thống pháp luật hiện nay của thế giới. Từ đây
phát sinh quy phạm xung đột luật trong vấn đề định danh tài sản. Việc xác định
tài sản là động sản hay bất động sản là tiền đề cho việc giải quyết xung đột về
định danh tài sản. Như vậy, khoản 3 Điều 766 Bộ luật dân sự 2005 đã giải quyết
được vấn đề xung đột định danh khi quy định: “Việc phân biệt tài sản là động
sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản”
Thứ tư, trong việc xác định đối với tàu bay dân dụng và tàu biển tại Việt Nam thì
nguyên tắc luật nơi có tài sản dường như cũng không được áp dụng mà phải tuân
theo pháp luật về hàng không dân dụng và pháp luật về hàng hải của Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Khoản 1 Điều 4 Luật hàng không dân dụng Việt Nam 2006 quy định “pháp luật
quốc gia đăng ký quốc tịch tàu bay được áp dụng đối với quan hệ xã hội phát
sinh trong tàu bay và áp dụng để xác định các quyền đối với tàu bay”
Việc áp dụng hệ thuộc này đối với tàu bay đang bay và để xác định các quyền
đối với tàu bay có ý nghĩa vô cùng to lớn, đảm bảo tối đa hóa các quyền cho tàu
bay cũng như việc xác định luật điều chỉnh khi tàu bay đang bay qua vùng tranh
chấp chủ quyền mà phát sinh một quan hệ xã hội. Vấn đề này sẽ giúp giải quyết
phần nào khi tình hình về tranh chấp chủ quyền đang diễn ra ngày càng căng
thẳng trên thế giới.
Mặt khác, Điều 5 của Bộ luật hàng hải Việt Nam quy định “Trong trường hợp
có xung đột pháp luật thì việc lựa chọn luật để áp dụng được xác định theo các
nguyên tắc sau đây:


NHÓM 2

Page 7


Đối với các quan hệ pháp luật liên quan đến quyền sở hữu tài sản trên tàu, hợp
đồng cho thuê tiền, hợp đồng thuyê thuyền viên, hợp đồng vận chuyển hành
khách và hành lý, chia tiền công cứu hộ giữa chủ tàu cứu hộ và thuyền bộ của
tàu cứu hộ, trục vớt tài sản chìm đắm ở công hải, các vụ việc xảy ra trên tàu
đang ở công hải, thì luật được chọn là luật quốc gia mà tàu mang cờ”.
Có thể thấy, quy định này áp dụng khi tàu biển đang ở biển cả.
Điều 86 Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 đã định nghĩa
“biển cả là những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải
hay nội thủy của một quốc gia cũng như không nằm trong vùng nước quần đảo
của một quốc gia quần đảo”. Điều này không hạn chế về bất kỳ phương diện
nào các quyền tự do mà tất cả các quốc gia được hưởng trong vùng đặc quyền
kinh tế. Luật Biển Việt Nam gọi biển cả là biển quốc tế. Như vậy, nhìn nhận một
cách khái quát, biển cả không thuộc chủ quyền của bất kì quốc gia nào nên việc
xác định theo luật nơi có tài sản là hoàn toàn không thể. Mặt khác, tàu biển là
phương tiện vận tải phải đăng ký, do đó, áp dụng theo pháp luật mà tàu biển đó
mang quốc tịch là rất hợp lí.
Như vậy, đối với quan hệ sở hữu và quan hệ tài sản trong lĩnh vực hàng không
dân dụng và hàng hải quốc tế hệ thuộc luật của nước nơi có tài sản không áp
dụng mà thay vào đó là hệ thuộc luật quốc tịch hoặc luật nơi đăng ký (lex libri).
Quy định này phù hợp với thực tiễn vì đây là các phương tiện vận tải mang tính
quốc tế cao, di chuyển qua nhiều quốc gia khác nhau nên việc xác định theo hệ
thuộc là rất hợp lí, vừa dễ dàng áp dụng lại vừa đảm bảo vấn đề chủ quyền.
Ngoài các quy định tại Điều 766, Bộ luật Dân sự 2005 cũng dành hai điều để
quy định về quan hệ tài sản có yếu tố nước ngoài đối với các quyền tài sản. Đó
là quy định tại Điều 774 về quyền tác giả có yếu tố nước ngoài và Điều 775 về

quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng có yếu tố nước
ngoài. Thực tiễn ở các nước cũng như ở Việt Nam cho thấy, khi xác định quyền
sở hữu đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ (quyền tác giả và quyền sở
hữu công nghiệp), cũng không áp dụng hệ thuộc luật nơi có vật bởi lẽ, quyền sở
hữu trí tuệ có tính đặc thù về mặt lãnh thổ. Tức là về nguyên tắc, quyền sở hữu
trí tuệ phát sinh trên lãnh thổ quốc gia nào thì bảo hộ theo pháp luật của quốc gia
đó, không đương nhiên bảo hộ ở nước ngoài, nếu các quốc gia đó không kí kết
các điều ước quốc tế về vấn đề này. Cụ thể, pháp luật Việt Nam quy định:
“Điều 774. Quyền tác giả có yếu tố nước ngoài

NHÓM 2

Page 8


Quyền tác giả của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài đối với tác phẩm
lần đầu tiên được công bố, phổ biến tại Việt Nam hoặc được sáng tạo và thể
hiện dưới hình thức nhất định tại Việt Nam được bảo hộ theo quy định của pháp
luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Điều 775. Quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng có yếu
tố nước ngoài
Quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng của người nước
ngoài, pháp nhân nước ngoài đối với các đối tượng của quyền sở hữu công
nghiệp, đối tượng của quyền đối với giống cây trồng đã được Nhà nước Việt
Nam cấp văn bằng bảo hộ hoặc công nhận được bảo hộ theo quy định của pháp
luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Đối với quyền sở hữu tài sản của pháp nhân nước ngoài trong trường hợp bị giải
thể không áp dụng hệ thuộc luật nơi có vật bởi lẽ, trong trường hợp pháp nhân

giải thể, thì quyền sở hữu của pháp nhân vẫn được đảm bảo.
Đối với tài sản thuộc đối tượng của đạo luật về quốc hữu hóa hoặc tư nhân hóa,
theo thực tiễn của nhiều nước cũng cho thấy, thường không áp dụng hệ thuộc
luật nơi có tài sản để xác định quyền sở hữu đối với tài sản đó. Bởi trong trường
hợp những tài sản này nằm ở nước ngoài vào thời điểm phát sinh hiệu lực của
đạo luật quốc hữu hóa hoặc tư nhân hóa, cho nên tính “trị ngoại lãnh thổ” của
các đạo luật này được nước ngoài tôn trọng.
Các quan hệ về tài sản liên quan đến tài sản của quốc gia đang ở nước ngoài. So
với các chủ thể khác khi tham gia quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài, thì nhà
nước, với tính cách là một hệ thống các cơ quan quyền lực thống nhất, có quy
chế pháp lý đặc biệt, trước hết là quyền miễn trừ tư pháp. Theo đó, không một
cơ quan nào có thẩm quyền xét xử một nhà nước nếu không được sự đồng ý của
quốc gia đó. Quyền miễn trừ tư pháp ở đây bao gồm cả quyền miễn trừ xét xử và
quyền miễn trừ thi hành án. Như vậy, suy rộng ra, thì quyền này còn bao gồm cả
quyền miễn trừ đối với tài sản nhà nước. Tài sản của Nhà nước không thể bị bắt
giữ để đảm bảo cho việc xét xử hoặc là đối tượng bị bắt giữ để thi hành bản án,
quyết định của tòa án nước ngoài.
Có thể nói, trong Bộ luật dân sự 2005 hệ thuộc luật nơi có tài sản (lex rei sitae)
là hệ thuộc chủ yếu được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở

NHÓM 2

Page 9


hữu. Điều này hoàn toàn phù hợp với thong lệ quốc tế. Tuy nhiên, đây không
phải là hệ thuộc luật duy nhất để giải quyết vấn đề này.
2.

Quy phạm thực chất


- Hiến pháp năm 2013: Hiến pháp là đạo luật cơ bản của một quốc gia, có giá trị
pháp lí cao nhất. Trong khoản 3 Điều 51 Hiến pháp năm 2013 quy định: “nhà
nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ
chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế,
góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản
xuất kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa. Như vậy,
Nhà nước Việt Nam đảm bảo sự công bằng giữa các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế, trong đó có cá nhân, tổ chức nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đây là cơ sở pháp lí quan trọng để xây
dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh quyền sở hữu tài sản có yếu tố nước
ngoài trong BLDS cũng như các văn bản pháp luật khác.

- Bộ luật dân sự 2005: là đạo luật quan trọng, cụ thể hóa quyền dân sự cơ bản
nói chung và quyền sở hữu nói riêng. Đối với quyền sở hữu có yếu tố nước
ngoài, Bộ luật dân sự điều chỉnh một cách trực tiếp cũng như gián tiếp thông qua
các quy định sau đây: Theo khoản 1 Điều 759 Bộ luật dân sự 2005 quy định :
“Các quy định của pháp luật dân sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp Bộ luật
này có quy định khác” Trong quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài thì trừ những
trường hợp mà Bộ luật này có quy định khác thì các quy định của pháp luật dân
sự Việt Nam áp dụng đối với vấn đề này. Những quy định khác của Bộ luật dân
sự được quy định khá rõ tại Điều 2: “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy
định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó”.
Điều đó có nghĩa là nếu những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có
quy định khác về quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài thì sẽ không áp
dụng quy định của Bộ luật mà ưu tiên áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Điều 766 Bộ luật dân sự 2005 có quy định: “Việc xác lập, thực hiện, thay đổi,
chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác

định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại
khoản 2 và khoản 4 Điều này” Từ những quy định trên đây, có thể nói rằng quan
hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài được Bộ luật dân sự bảo vệ, tuy mới chỉ là bảo
vệ về mặt nguyên tắc pháp lý. Ngoài những quy định tại Điều 766, trong Bộ luật
NHÓM 2

Page 10


dân sự chưa có một điều khoản nào khác quy định cụ thể về quan hệ sở hữu có
yếu tố nước ngoài.
- Nghị định 138/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 15 tháng 11 năm
2006 quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài: Tại điều 4 của Nghị định 138/2006 có quy định cụ thể
về việc áp dụng pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và
tập quán quốc tế: “Việc áp dụng pháp luật dân sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, điều ước quốc tế pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế tuân theo
quy định của Điều 759 Bộ luật dân sự”. Điều 759 Bộ luật dân sự có quy định cụ
thể về việc áp dụng pháp luật về quan hệ có yếu tố nước ngoài nói chung và
quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài nói riêng.
Nghị định 138/2006 đã kế thừa những quy định tại Bộ luật dân sự 2005 về việc
trong trường hợp nếu có điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định
khác với quy định của Bộ luật thì sẽ ưu tiên áp dụng quy định của Điều ước
quốc tế. Không chỉ có vậy, Nghị định này còn bổ sung một số điểm mới cho phù
hợp với thực tế được thể hiện khá rõ tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4:
2. Trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định tại phần thứ bảy của Bộ
luật dân sự và quy định của Luật chuyên ngành khác về cùng một nội dung, thì
áp dụng quy định của Luật chuyên ngành.
3. Trong trường hợp việc lựa chọn hoặc viện dẫn áp dụng pháp luật của nước
có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, thì đương sự có quyền yêu cầu áp dụng

hệ thống pháp luật có mối quan hệ gắn bó nhất với đương sự về quyền và nghĩa
vụ công dân
Đây là những quy định khá cụ thể về việc áp dụng pháp luật trong những trường
hợp có sự khác nhau giữa văn bản pháp luật trong nước và có nhiều hệ thống
pháp luật khác nhau cùng áp dụng để giải quyết quyền và nghĩa vụ của đương
sự. Trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật dân sự và Luật
chuyên ngành về cùng một vấn đề thì việc lựa chọn áp dụng quy định của Luật
chuyên ngành là hợp lý hơn cả. Vì Luật chuyên ngành về dân sự được xây dựng
dựa trên quy định của Bộ luật dân sự 2005 và hơn thế nữa nó điều chỉnh cụ thể,
đầy đủ hơn. Những văn bản này phần lớn ra đời sau, nên thường có sự kế thừa
và phát triển hơn so với Bộ luật dân sự để phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội
đang từng bước phát triển.
Đối với việc lựa chọn hoặc viện dẫn áp dụng pháp luật của nước có nhiều hệ
thống pháp luật, quy định đương sự có quyền yêu cầu áp dụng hệ thống pháp
NHÓM 2

Page 11


luật có mối quan hệ gắn bó nhất là quy định phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Điều 11 Nghị định này có quy định về quyền sở hữu tài sản: “Việc áp dụng pháp
luật về quyền sở hữu tài sản tuân theo quy định tại Điều 766 của Bộ luật dân
sự”. Tức là Nghị định này một lần nữa công nhận hệ thuộc luật nơi có tài sản
trong việc giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu có yếu tố nước
ngoài.
Mặt khác, Nghị định còn quy định cụ thể hơn nữa tại khoản 2 Điều 11: “Trong
trường hợp xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung
quyền sở hữu đối với tài sản được áp dụng theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thì tuân theo các quy định tại Phần thứ hai của Bộ luật dân sự và
các văn bản pháp luật khác có liên quan”. Điều này có nghĩa là khi quy phạm

xung đột quy định việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài
sản áp dụng theo pháp luật Việt Nam thì có thể viện dẫn những quy định tại
Phần hai của Bộ luật dân sự (Tài sản và quyền sở hữu) cũng như các văn bản
pháp luật có liên quan. Tức là cho dù đương sự là người Việt Nam hay người
nước ngoài trong trường hợp này những tranh chấp đều được giải quyết theo quy
định của pháp luật Việt Nam.
- Các văn bản pháp luật chuyên ngành khác: Những quy phạm thực chất không
chỉ quy định trong Bộ luật dân sự hay nghị định 138/2006/NĐ-CP mà quy định
khá cụ thể trong các văn bản pháp luật chuyên ngành đặc biệt là về vấn đề đầu
tư, đất đai,…
Chẳng hạn, theo Luật đầu tư thì: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đảm bảo đối xử công bằng và thỏa đáng đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu
tư vào Việt Nam. Trong thời gian đầu tư vào Việt Nam “vốn đầu tư và tài sản
hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện
pháp hành chính” 1
Nếu do thay đổi của pháp luật Việt Nam mà làm thiệt hại đến lợi ích của các bên
tham gia hoạt động đầu tư thì Nhà nước có biện pháp giải quyết thỏa đáng đối
với quyền lợi của nhà đầu tư. Biện pháp giải quyết thỏa đáng để đảm bảo quyền
lợi của chủ đầu tư nước ngoài bằng cách thỏa thuận với họ theo nhiều hướng
khác nhau. Các chủ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được chuyển ra nước ngoài:
Lợi nhuận thu được trong quá trình kinh doanh; những khoản tiền trả cho việc
cung cấp kỹ thuật hoặc dịch vụ; tiền gốc và lãi của các khoản cho vay trong quá
trình hoạt động; vốn đầu tư; các khoản tiền và tài sản khác thuộc quyền sở hữu

1 Theo khoản 1 Điều 9 Luật Đầu tư 2014

NHÓM 2

Page 12



hợp pháp của mình. Những quy định này đã góp phần không nhỏ vào việc giải
quyết xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài.
Ngoài ra, Luật Nhà ở 2014 cũng có các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ
của chủ sở hữu nhà ở là cá nhân, tổ chức nước ngoài tại Điều 161, 162 Luật này.
Cụ thể:
“Điều 161. Quyền của chủ sở hữu nhà ở là tổ chức, cá nhân nước ngoài
1. Tổ chức, cá nhân nước ngoài quy định tại điểm a khoản 1 Điều 159 của Luật
này được thực hiện các quyền của chủ sở hữu nhà ở theo quy định tại Điều 10
của Luật này; trường hợp xây dựng nhà ở trên đất thuê thì chỉ được quyền cho
thuê nhà ở.
2. Tổ chức, cá nhân nước ngoài quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 159
của Luật này có các quyền của chủ sở hữu nhà ở như công dân Việt Nam nhưng
phải tuân thủ các quy định sau đây:
a) Chỉ được mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế và sở hữu không quá
30% số lượng căn hộ trong một tòa nhà chung cư; nếu là nhà ở riêng lẻ bao
gồm nhà biệt thự, nhà ở liền kề thì trên một khu vực có số dân tương đương một
đơn vị hành chính cấp phường chỉ được mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận
thừa kế và sở hữu không quá hai trăm năm mươi căn nhà.
Trường hợp trong một khu vực có số dân tương đương một đơn vị hành chính
cấp phường mà có nhiều nhà chung cư hoặc đối với nhà ở riêng lẻ trên một
tuyến phố thì Chính phủ quy định, cụ thể số lượng căn hộ, số lượng nhà ở riêng
lẻ mà tổ chức, cá nhân nước ngoài được mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận
thừa kế và sở hữu;
b) Trường hợp được tặng cho, được thừa kế nhà ở không thuộc diện quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 159 của Luật này hoặc vượt quá số lượng nhà ở quy định
tại điểm a khoản này thì chỉ được hưởng giá trị của nhà ở đó;
c) Đối với cá nhân nước ngoài thì được sở hữu nhà ở theo thỏa thuận trong các
giao dịch hợp đồng mua bán, thuê mua, tặng cho nhận thừa kế nhà ở nhưng tối
đa không quá 50 năm, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận và có thể được gia

hạn thêm theo quy định của Chính phủ nếu có nhu cầu; thời hạn sở hữu nhà ở
phải được ghi rõ trong Giấy chứng nhận.
Trường hợp cá nhân nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam hoặc kết hôn
với người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì được sở hữu nhà ở ổn định, lâu
dài và có các quyền của chủ sở hữu nhà ở như công dân Việt Nam;
d) Đối với tổ chức nước ngoài thì được sở hữu nhà ở theo thỏa thuận trong các
giao dịch hợp đồng mua bán, thuê mua, tặng cho, nhận thừa kế nhà ở nhưng tối
đa không vượt quá thời hạn ghi trong Giấy chứng nhận đầu tư cấp cho tổ chức
đó, bao gồm cả thời gian được gia hạn thêm; thời hạn sở hữu nhà ở được tính
từ ngày tổ chức được cấp Giấy chứng nhận và được ghi rõ trong Giấy chứng
nhận này;
đ) Trước khi hết hạn sở hữu nhà ở theo quy định của Luật này, chủ sở hữu có
thể tặng cho hoặc bán nhà ở này cho các đối tượng thuộc diện được sở hữu nhà
NHÓM 2

Page 13


ở tại Việt Nam; nếu quá thời hạn được sở hữu nhà ở mà chủ sở hữu không thực
hiện bán, tặng cho thì nhà ở đó thuộc sở hữu nhà nước.”
“Điều 162. Nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà ở là tổ chức, cá nhân nước ngoài
1. Tổ chức, cá nhân nước ngoài quy định tại điểm a khoản 1 Điều 159 của Luật
này có các nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà ở theo quy định tại Điều 11 của Luật
này.
2. Tổ chức, cá nhân nước ngoài quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 159
của Luật này có các nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà ở như công dân Việt Nam
nhưng phải tuân thủ các quy định sau đây:
a) Đối với chủ sở hữu là cá nhân nước ngoài thì được cho thuê nhà ở để sử
dụng vào các mục đích mà pháp luật không cấm nhưng trước khi cho thuê nhà
ở, chủ sở hữu phải có văn bản thông báo về việc cho thuê nhà ở với cơ quan

quản lý nhà ở cấp huyện nơi có nhà ở theo quy định của Bộ trưởng Bộ Xây
dựng và phải nộp thuế từ hoạt động cho thuê nhà ở này theo quy định của pháp
luật.
Trường hợp cá nhân nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam hoặc kết hôn
với người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì có các nghĩa vụ của chủ sở hữu
nhà ở như công dân Việt Nam;
b) Đối với chủ sở hữu là tổ chức nước ngoài thì chỉ được sử dụng nhà ở để bố
trí cho những người đang làm việc tại tổ chức đó ở, không được dùng nhà ở để
cho thuê, làm văn phòng hoặc sử dụng vào mục đích khác;
c) Thực hiện thanh toán tiền mua, thuê mua nhà ở thông qua tổ chức tín dụng
đang hoạt động tại Việt Nam.”
Nhìn chung, các quy định thực chất đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết
các xung đột trong quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài.
III.

1.

Một số hạn chế, bất cập và phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp
luật về giải quyết xung đột trong quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước
ngoài của pháp luật Việt Nam
Hạn chế và bất cập

Tóm lại, những quy định về quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài tại Việt
Nam hiện nay so với trước đây đã có những điểm tiến bộ, phù hợp với sự phát
triển kinh tế - xã hội cũng như sự giao lưu hợp tác với các quốc gia trên thế giới.
Quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng như người Việt Nam
định cư ở nước ngoài đã được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Tuy nhiên, bên cạnh
đó còn có những điểm hạn chế nhất định:
1.1 Quy phạm xung đột:
Hệ thống các quy phạm mà chủ yếu là quy phạm xung đột nằm rải rác ở nhiều

văn bản khác nhau, từ luật cho đến văn bản dưới luật, pháp luật quốc gia cũng
như điều ước quốc tế. Việc quy định một cách tản mạn, rải rác không trách khỏi
sự lặp lại, chồng chéo. Phần thứ 7 trong Bộ luật dân sự 2005 còn chưa đưa ra
NHÓM 2

Page 14


quy định, giải pháp xử lý cho một số vấn đề đã phát sinh trong tư pháp quốc tế.
Chẳng hạn như vấn đề chọn luật áp dụng để giải quyết các xung đột về danh
pháp, tức là về cùng một vấn đề có cùng một tên gọi như nhau, được coi là cùng
một khái niệm nhưng nội hàm của khái niệm, nội dung chứa đựng bên trong lại
rất khác nhau.
1.2

Quy phạm thực chất

Về vấn đề sở hữu bất động sản, pháp luật điều chỉnh chưa đầy đủ cũng như
những chính sách để tạo điều kiện cho đối tượng thuê hoặc mua và sở hữu nhà ở
vẫn chưa thong thoáng nên dẫn tới việc mua bán bất động sản trái pháp luật, gây
ra nhiều tranh chấp, khiếu kiện phức tạp. Chính điều này đã tạo ra nhiều bất lợi,
không kiểm soát được tình hình mua bán bất động sản gây bất ổn cho sự phát
triển kinh tế cũng như mất ổn định về an ninh, trật tự xã hội. Hơn nữa, chưa có
sự tách bạch về một số tài sản, từ đó khó xác định hệ thuộc luật cần phải áp
dụng. Về hôn nhân gia đình, vẫn chưa có sự hài hòa giữa các quy định của Luật
hôn nhân gia đình về tài sản người Việt Nam và người nước ngoài khi xác lập
quan hệ hôn nhân.
2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết xung
đột pháp luật từ quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài
2.1 Đối với các quy phạm xung đột

Hệ thống quy phạm xung đột cần phải được quy định cụ thể, rõ rang tại một văn
bản pháp luật nhất định để tránh sự chồng chéo, sự lặp. Hơn thế nữa, cần đưa ra
những giải pháp cụ thể để xử lý những vấn đề phát sinh trong tư pháp quốc tế.
2. 2 Đối với các quy phạm thực chất
Sửa đổi bổ sung pháp luật điều chỉnh quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài:
Thứ nhất, cần xác định các hệ thuộc áp dụng phù hợp cho từng quan hệ sở hữu
có yếu tố nước ngoài của cá nhân, pháp nhân, Nhà nước (đối với động sản, bất
động sản, kể cả khi tài sản đó đang trên đường vận chuyển). Cần tách bạch một
số loại tài sản với nguyên tắc sở hữu khác nhau, từ đó xác định các hệ thuộc luật
áp dụng tương ứng đối với mỗi loại tài sản đó. Quy định chung chung như Điều
766 Bộ luật Dân sự 2005 hiện nay là rất khó vận dụng.
Thứ hai, cần bảo đảm sự hài hòa giữa các quy định của Luật hôn nhân gia đình
về quan hệ tài sản giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài khi tham gia
quan hệ hôn nhân, với nguyên tắc công nhận quyền sở hữu tài sản (là bất động
sản).
KẾT LUẬN
NHÓM 2

Page 15


Phương pháp xung đột và phương pháp thực chất là hai phương pháp quan trọng
để giải quyết xung đột pháp luật. Quy phạm xung đột luôn mang tính chất dẫn
chiếu, nó được dẫn chiếu đến một hệ thống pháp luật cụ thể và các quy phạm
thực chất trong hệ thống pháp luật đó được áp dụng để giải quyết quan hệ pháp
luật phát sinh. Đó chính là tính chất song hành giữa quy phạm xung đột và quy
phạm thực chất trong việc điều chỉnh pháp luật. Pháp luật Việt Nam bằng việc
kết hợp giữa phương pháp xung đột và phương pháp thực chất, những xung đột
về quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài được giải quyết thỏa đáng.


NHÓM 2

Page 16



×