Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Khoá luận tốt nghiệp đại học tế cấp bát điều của nguyễn trường tộ từ góc nhìn thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 68 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

VÕ THỊ THỦY

ai

Th

TẾ CẤP BÁT ĐIỀU

ye

gu

N

CỦA NGUYỄN TRƢỜNG TỘ

n

TỪ GĨC NHÌN THỂ LOẠI

rs

ve

ni


U
ity

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

U
TN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

ThS. LÊ THỊ HẢI YẾN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành, sâu sắc nhất đến ThS.
Lê Thị Hải Yến - Giảng viên Tổ Văn học Việt Nam, người đã trực tiếp hướng
dẫn, chỉ bảo và động viên tơi trong suốt q trình thực hiện đề tài.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo Tổ Văn học Việt Nam
cùng các thầy, cô trong Khoa Ngữ Văn - Trường Đại Học Sư phạm Hà Nội 2
đã tạo điều kiện và giúp đỡ tơi hồn thành khóa luận này.

Th


Khóa luận được hồn thành song khơng tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót,

ai

tơi rất mong nhận được những đóng góp ý kiến từ phía thầy cơ và các bạn để

N

gu

bài viết của tơi được hồn thiện hơn.

n

ye

Tơi xin chân thành cảm ơn!

ni

U

Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017

ity

rs

ve


Tác giả khóa luận


U
TN

Võ Thị Thủy


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi
dưới sự hướng dẫn của ThS. Lê Thị Hải Yến, kết quả này không trùng với
nghiên cứu của các tác giả khác.
Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017
Tác giả khóa luận

ai

Th
gu

N
Võ Thị Thủy

n

ye
ity

rs


ve

ni

U

U
TN


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu................................................................................ 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 6

Th

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 6

ai

6. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 6

N

gu


7. Cấu trúc khóa luận .................................................................................. 7

ye

NỘI DUNG....................................................................................................... 8

n

Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................ 8

U

1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX.......................................... 8

ni

ve

1.2. Tác giả Nguyễn Trƣờng Tộ ................................................................ 13

rs

1.2.1. Cuộc đời.......................................................................................... 13

ity

1.2.2. Con người ....................................................................................... 16




1.2.3. Trước tác ........................................................................................ 18

U
TN

1.3. Tác phẩm “Tế cấp bát điều” ............................................................... 20
1.3.1. Hoàn cảnh ra đời ........................................................................... 20
1.3.2. Ý nghĩa nhan đề ............................................................................. 22
1.3.3. Thể loại ........................................................................................... 22
Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................... 26
Chƣơng 2. NỘI DUNG ĐIỀU TRẦN TRONG TẾ CẤP BÁT ĐIỀU ....... 27
2.1. Điều trần về chính trị, quân sự .......................................................... 27
2.1.1. Thiết lập lại bộ máy hành chính nhà nước .................................. 27
2.1.2. Sửa đổi võ bị ................................................................................... 29


2.1.3. Sửa sang lại biên giới .................................................................... 34
2.2. Điều trần về kinh tế............................................................................. 35
2.2.1. Xây dựng kinh tế nước nhà ........................................................... 35
2.2.2. Điều chỉnh thuế ruộng đất ............................................................ 39
2.3. Điều trần về văn hóa - xã hội ............................................................. 42
2.3.1. Vấn đề sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng ........................... 42
2.3.2. Xây dựng luật lệ nhà nước ............................................................ 46
2.3.3. Chăm lo đời sống nhân dân .......................................................... 47

Th

Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................... 49


ai

Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT VĂN CHÍNH LUẬN TRONG TẾ CẤP BÁT
ĐIỀU ............................................................................................................... 50

gu

N

3.1. Kết cấu và lập luận ............................................................................. 50

ye

3.2. Ngôn ngữ .............................................................................................. 52

n

U

3.3. Giọng điệu ............................................................................................ 56

ve

ni

Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................... 58
KẾT LUẬN .................................................................................................... 59

ity


rs

TÀI LIỆU THAM KHẢO


U
TN


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cuối thế kỉ XIX, sự xâm lược của thực dân Pháp đã tạo ra một bước
ngoặt lớn trong lịch sử Việt Nam. Đứng trước vấn đề sống cịn của dân tộc,
nhiều nhà nho có đầu óc nhạy bén đã đề xuất chủ trương canh tân đất nước
chống lại kẻ thù. Trong số những nhân vật đó, đáng chú ý nhất là Nguyễn
Trường Tộ (1830-1871) mà người đời vẫn truyền tụng là Trạng Tộ. Là một
con người có trí tuệ, nhãn quan vượt tầm thời đại ông đã dâng lên nhà vua

Th

hàng loạt bản điều trần, phúc trình (khoảng 58 bản điều trần và 30 bản phúc

ai

trình). Những trước tác của Nguyễn Trường Tộ để lại cho đến ngày nay được

N

gu


giới nghiên cứu chú ý tìm hiểu, đánh giá, nhất là từ góc độ tư tưởng. Từ góc
được xem xét khái quát.

n

ye

độ văn học, những áng văn chính luận vừa duy lý vừa trữ tình của ông chưa

ni

U

Đáng lưu ý nhất trong số trước tác của Nguyễn Trường Tộ là 58 bản điều

ve

trần được ông viết để dâng lên vua Tự Đức trình bày kế sách canh tân đất

rs

nước, chống chọi lại kẻ thù. Trong đó, Tế cấp bát điều là bản điều trần được

ity

lựa chọn giới thiệu, giảng dạy trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11 với đoạn



trích Xin lập khoa luật. Đó là những lí do chúng tơi lựa chọn nghiên cứu


U
TN

Nguyễn Trường Tộ và Tế cấp bát điều của ông.

Trên hành trình tiếp cận với tác phẩm văn học, chúng tơi thấy có nhiều
hướng khai thác (diễn ngơn, loại hình,…). Nhưng dù có khám phá bằng cách
nào đi chăng nữa cũng không thể bỏ qua đặc trưng thể loại của tác phẩm. Nói
như M. Bakhtin “thể loại mới chính là nhân vật số một của văn học”. Chúng
tôi cho rằng việc nghiên cứu Tế cấp bát điều từ góc độ thể loại là cần thiết và
ý nghĩa.
Ngoài ra, bản thân là một giáo viên trong tương lai, với mong muốn
được bổ sung thêm kiến thức chuyên ngành, nghiên cứu sẽ giúp tơi có thêm

1


những hiểu biết sâu sắc về thể loại văn chính luận trung đại nói chung và Tế
cấp bát điều nói riêng để phục vụ tốt hơn cho công việc giảng dạy sau này.
Đó là những lí do khích lệ tơi lựa chọn đề tài “Tế cấp bát điều của
Nguyễn Trường Tộ từ góc nhìn thể loại”. Hi vọng rằng, nghiên cứu này sẽ
phần nào làm rõ đặc trưng về nội dung, nghệ thuật văn chính luận thời trung
đại cũng như đánh giá đúng vị trí của Nguyễn Trường Tộ trong dòng chảy
văn học Việt Nam trung đại.
2. Lịch sử vấn đề

Th

Khi tìm hiểu Tế cấp bát điều và Nguyễn Trường Tộ chúng tơi có thể


ai

điểm qua một số cơng trình nghiên cứu như sau:

gu

N

- Giám mục Trương Bá Cần là người đã bỏ ra rất nhiều công sức nghiên
cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trường Tộ, sưu tầm và tổng hợp lại

ye

gần như đầy đủ những bản điều trần mà Nguyễn Trường Tộ đã viết để gửi lên

n

U

triều đình trong cuốn sách Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo (1988),

ve

ni

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Cơng trình gồm 600 trang đánh máy, 3000
chữ, bao gồm phần giới thiệu của tác giả và toàn bộ bản dịch 58 di thảo của

rs


ity

Nguyễn Trường Tộ. Trong phần đầu tiên, Trương Bá Cần đã phân tích rất chi
tiết những chặng đường đầy sóng gió của Nguyễn Trường Tộ cũng như khao



U
TN

khát canh tân đất nước của ông. Phần thứ hai là phần có giá trị nhất của cuốn
sách bởi lẽ đó là tập hợp gần như đầy đủ năm mươi tám di thảo của Nguyễn
Trường Tộ. Trương Bá Cần đã có cơng lao lớn trong việc lưu giữ những giá
trị dân tộc to lớn của một nhà nho đương thời đáng được kính trọng. Trong
tác phẩm này, tác giả viết “Còn như các văn bản của Nguyễn Trường Tộ gởi
cho triều đình Huế, thì có những bản là cả một bài luận văn dài” [3;103 104]. Tuy nhiên, công trình mới dừng lại ở tính chất tổng hợp, sưu tầm chứ
chưa đi sâu tìm hiểu kĩ những giá trị của từng bản di thảo sáng tác của
Nguyễn Trường Tộ trong đó có Tế cấp bát điều

2


- Giáo sư Hoàng Thanh Đạm trong cuốn Thời thế và tư duy canh tân
(2001), Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh có phân tích kĩ về tính khả thi
và hữu dụng của bản điều trần Tế cấp bát điều. Khi viết về chính sách quân sự
trong điều thứ nhất của Tế cấp bát điều “Xin gấp rút sửa đổi việc võ bị”,
Hồng Thanh Đạm viết: "Chữ hịa của Nguyễn Trường Tộ trong Thiên Hạ
Đại Thế Luận chỉ có nghĩa là tạm hịa, xuất phát từ tình hình thực tế trên
chiến trường là sức ta quá yếu so với quân địch. Trong lịch sử chiến tranh, khi

kẻ địch đang ở thế áp đảo mà ta phải tạm hòa là điều thông thường." [6; 113].

Th

Tác giả cũng phê phán những ai đã và đang hạ thấp uy tín của Nguyễn

ai

Trường Tộ: “Đọc hết cuốn sách của hai bạn Việt kiều ở Mỹ, những người

N

kính u Nguyễn Trường Tộ khơng khỏi liên hệ đến cách nhìn của các nhân

gu

vật chủ chiến thời Tự Đức từng để ra khẩu hiệu Bình Tây Sát Tả, và từng kiến

ye

nghị triều đình xử tử Nguyễn Trường Tộ. Cuốn sách của hai bạn không phải

n

là vô tình mà là cố ý chơn vùi một danh nhân đất nước trong khi hầu hết các

U

ni


học giả trong nước đều tôn vinh ông, nhất là trong thời đại ngày nay, yêu cầu

ve

đổi mới đất nước đang là một yêu cầu nóng bỏng để đưa dân tộc ta tiến kịp đà

ity

rs

văn minh thế giới hiện đại” [6; 123]. Trong tác phẩm, ông cũng chỉ ra những
hạn chế trong tư tưởng cải cách nhưng vẫn luôn nể phục một nhân tài như



Nguyễn Trường Tộ. “Ông là người đầu tiên ở châu Á biết áp dụng một kiểu tư

U
TN

duy mới, hoàn toàn trái ngược với lối tư duy giáo điều chỉ để minh hoạ một
chân lý có sẵn và xong xi...theo ơng khơng có gì là bất biến ở tự nó cả, mọi
tình trạng lạc hậu hiện nay của Việt Nam đều xuất phát từ một cách nhận định
là con người có thể chuyển cái thực tế bất lợi thành một thực tế có lợi để
giành độc lập và phồn vinh của đất nước.” [6; 9].
Tác giả đồng thời cũng phần nào tìm hiểu rõ về những tư tưởng canh tân
của Nguyễn Trường Tộ, giá trị thực tiễn của nó trong cơng cuộc xây dựng đất
nước. Tuy nhiên, mới chỉ dừng lại ở giá trị lịch sử là chính chứ chưa chú trọng
về giá trị văn học của tác phẩm.


3


- Từ điển văn học (bộ mới) mục Nguyễn Trường Tộ(2004), tác giả Nguyễn
Huệ Chi khẳng định: “ Văn chương của Nguyễn Trường Tộ là lối văn chính
luận, vừa phải đảm bảo sự chặt chẽ, sắc bén, khúc chiết trong phân tích, trong
dẫn chứng nhưng cũng vừa thấm đậm cảm hứng trữ tình của tác giả, nên có sức
thuyết phục rất mạnh”.[4; 1209]
- Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường trong cuốn Từ điển văn học Việt
Nam: từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX (2005), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội nhận
định: “ Các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ là những tác phẩm chính luận

Th

viết bằng văn xuôi chữ Hán… Việc đề xuất cải cách của Nguyễn Trường Tộ

ai

không thực hiện được, tuy vậy không làm mất ý nghĩa to lớn của các bản điều

gu

N

trần của ông”.[1; 439]
- Khi nói về nghệ thuật văn chính luận trong các bản điều trần của

ye

Nguyễn Trường Tộ, tác giả Trần Hữu Tá trong bài viết “Nguyễn Trường Tộ -


n

U

Một bi kịch lạc quan”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 1 năm 2012 viết “vấn

ve

ni

đề được đặt rõ ràng, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng cụ thể, sống động. Tư duy lí
luận của ơng rất vững nhưng thật kì lạ và thú vị, chất trữ tình thấm đẫm trong

ity

rs

từng trang viết” [28; 29].



- Tác giả Vương Đình Chữ trong cuốn Nguyễn Trường Tộ hôm qua và

U
TN

hôm nay(2014), Nxb Tri Thức, có viết: “Có thể thấy trên đây là cả một kế
hoạch toàn diện nhằm chấn hưng đất nước và dân sinh. Nhưng triều đình đã
khơng ngó ngàng đến những tâm huyết này” [9; 68]. Ở cuốn sách này, tác giả

đã nghiên cứu một cách tỉ mỉ các đề nghị cải cách mà Nguyễn Trường Tộ viết
trong các bản điều trần mà cụ thể nhất là Tế cấp bát điều… Ông nêu ra những
ưu điểm và hạn chế của các chính sách về chính trị, qn sự, văn hóa,…
Thơng qua đó tác giả bày tỏ sự ngưỡng mộ của bản thân đối với Nguyễn
Trường Tộ.
- Nguyễn Đức Thăng trong đề tài khoa học Văn chính luận trung đại

4


Việt Nam và Trung Quốc - tiếp biến và phát triển (2015) đã nhận xét văn
chính luận của Nguyễn Trường Tộ “đó là những áng văn chính luận xuất sắc”
[33; 103] và “Văn chính luận của Nguyễn Trường Tộ cũng như của nhiều nhà
nho canh tân khác là những biểu hiện mới của nội dung yêu nước trong văn
học trung đại, in đậm chất thời đại của những con người hết lịng vì đất nước”
[33; 103].
- Trong hội thảo “ Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước”
(1992), Nguyễn Thị Thanh Xuân với bài viết Nguyễn Trường Tộ- người cách

Th

tân thể văn chính luận đã chỉ ra sự mới mẻ trong đề tài văn chính luận của

ai

ơng: “ Ông bàn về hàng loạt vấn đề thiết thực, cấp bách của đất nước trên mọi

gu

N


lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa xã hội,…nhằm làm
cho dân giàu nước mạnh mà lời bản nào cũng mới mẻ, xác đáng, thể hiện một

ye

lí trí sáng suốt, một trách nhiệm vượt đời” [36; 117]. Ngoài ra, tác giả còn

n

U

nhận định: “ Từ trò chơi chữ, đánh đố nhau bằng những điển tích hiểm hóc

ve

ni

hồn tồn xa lạ với cuộc sống, Nguyễn Trường Tộ đã kéo nó trở về với cuộc
sống đấu tranh sôi động và quyết liệt của dân tộc, biến nó thành một loại văn

rs

ity

luận chiến vừa mới mẻ vừa thuyết phục. Văn nghị luận của Nguyễn Trường



Tộ đó là tâm hồn, là trí tuệ cúa người Việt Nam. Đó chính là tư tưởng Việt


U
TN

Nam thế kỉ XIX” [36; 125]

Các tác giả đã có sự nghiên cứu kĩ lưỡng những di thảo để lại của
Nguyễn Trường Tộ đặt trong bối cảnh lịch sử của dân tộc lúc bấy giờ. Chúng
tôi nhận thấy Nguyễn Trường Tộ đã được nghiên cứu nhiều từ góc độ lịch sử
với tư cách nhà cải cách. Những tư liệu này là cơ sở quan trọng, quý báu đối
với chúng tôi. Tuy nhiên, tất cả các tác giả trên chưa tập trung đi sâu vào phân
tích kĩ những giá trị văn học trong thơ văn Nguyễn Trường Tộ. Đặc biệt, chưa
ai nghiên cứu bản điều trần Tế cấp bát điều từ góc nhìn thể loại. Do vậy,
hướng đi của chúng tôi hứa hẹn mang đến cái nhìn mới về tác phẩm Tế cấp

5


bát điều của Nguyễn Trường Tộ.
3. Mục đích nghiên cứu
Chỉ ra được những đặc điểm thể loại của Tế cấp bát điều trên hai phương
diện: nội dung và nghệ thuật.
Góp phần tìm hiểu và đánh giá được đúng đắn về vị trí của Nguyễn
Trường Tộ trong nền văn học Việt Nam trung đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích trên, chúng tơi xác định và giải quyết các

Th

nhiệm vụ sau:


ai

- Đọc, tập hợp và phân tích hệ thống tài liệu liên quan đến tác phẩm Tế

gu

N

cấp bát điều của Nguyễn Trường Tộ.
- Vận dụng cơ sở lí thuyết đã xây dựng về thể loại văn chính luận để

ye

nghiên cứu Tế cấp bát điều.

n

5.1. Đối tượng nghiên cứu

ve

ni

U

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu Tế cấp bát điều của Nguyễn Trường Tộ từ góc

ity


rs

nhìn thể loại.
5.2. Phạm vi nghiên cứu



U
TN

Khóa luận tìm hiểu, nhận diện được giá trị thơ văn của Nguyễn Trường
Tộ từ góc nhìn thể loại qua bản điều trần Tế cấp bát điều được in trong cuốn
Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo của Trương Bá Cần (1988), Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp chủ yếu sau:
-

Phương pháp nghiên cứu văn học sử

-

Phương pháp loại hình.

-

Phương pháp hệ thống

6



Phương pháp so sánh, đối chiếu.

-

7. Cấu trúc khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung của khóa
luận được cấu trúc theo ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Nội dung điều trần trong Tế cấp bát điều
Chương 3: Nghệ thuật văn chính luận trong Tế cấp bát điều

ai

Th
n

ye

gu

N
ity

rs

ve

ni


U

U
TN
7


NỘI DUNG
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX
Kể từ năm 1802 - 1858, triều đình nhà Nguyễn đã có hơn 50 năm xây
dựng và củng cố. Thực dân Pháp đã có ý đồ xâm chiếm nước ta từ lâu, từ cuối
thế kỉ XVIII, nhưng âm mưu này chưa thực hiện được. “Cuộc chiến bị chậm lại
một mặt là do những biến động chính trị trong nội tình nước Pháp, mặt khác là
bởi cung cách ứng xử của các vua Nguyễn” [22; 264]. Cuối thế kỉ XIX, thực

Th

dân Pháp lấy cớ triều đình nhà Nguyễn đã bắn giết các giáo sĩ và ngăn chặn

ai

thơng thương nên đã chính thức xâm lược Việt Nam. Thực dân Pháp mất gần

N

40 năm mới đặt ách thống trị trên đất nước ta và gần một thế kỉ nhân dân ta

gu


phải sống dưới sự cai trị của Pháp.

ye

Cuối thế kỉ XIX, sự kiện Pháp xâm lược Việt Nam là sự kiện quan trọng,

n

nổi bật, chi phối các sự kiện khác và có sự ảnh hưởng rất lớn đến mọi tầng lớp

U

ni

trong xã hội. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam đã có

ve

những biến chuyển to lớn. Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy đã

ity

rs

biến thành một xã hội thuộc địa, mặc dù thực dân cịn duy trì một phần tính
chất phong kiến. Song khi đã hình thành thuộc địa thì tất cả các mặt của xã




hội đều nằm trong quỹ đạo chuyển động đó. Trong lịng chế độ thuộc địa của

U
TN

thực dân Pháp, ở Việt Nam đã hình thành những mâu thuẫn đan xen nhau.
Tuy nhiên, cơ bản và chủ yếu nhất là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với
thực dân Pháp và tay sai phản động.
Trong tình hình đất nước lúc bấy giờ, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu
nhiều ảnh hưởng. Nông nghiệp sa sút, nhiều cuộc khẩn hoang được tổ chức
khá quy mô, và cuối cùng đất đai khai khẩn lại rơi vào tay địa chủ. Hiện
tượng dân lưu tán trở nên phổ biến, đê điều khơng được chăm sóc, nạn mất
mùa, đói kém xảy ra liên miên. Cơng thương nghiệp bị đình đốn, xu hướng

8


độc quyền công thương của nhà nước đã hạn chế sự phát triển của sản xuất và
thương mại.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta đấu tranh chống Pháp
quyết liệt. Giai cấp phong kiến lúc đầu còn chống đối nhưng ngày càng yếu ớt
và cuối cùng thì nhượng bộ, thỏa hiệp, đầu hàng thực dân Pháp. Nhiều cuộc
khởi nghĩa nổ ra khắp nơi. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của nơng dân chống
triều đình phong kiến đầu hàng và chống Pháp xâm lược như cuộc khởi nghĩa
của Trần Tấn, Hữu Trưng, Ba Cai Vàng,… Phong trào đấu tranh yêu nước

Th

của các sĩ phu, các thủ lĩnh đã lãnh đạo nhân dân chống Pháp dưới ngọn cờ


ai

Cần Vương, nổ ra rầm rộ kéo dài từ Bình Định, Quảng Bình ra đến Hưng

gu

N

Yên, Thái Bình,… Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như: Đinh Cơng Tráng,
Tống Duy Tân, Hồng Hoa Thám,… Phong trào chống Pháp tuy diễn ra sôi

ye

nổi, rộng khắp nhưng khơng có lực lượng hậu thuẫn làm nịng cốt nên dẫn tới

n

U

kết quả thất bại nặng nề. Tuy thất bại nhưng cũng chứng tỏ được tình thần yêu

ve

ni

nước nồng nàn, dũng cảm của nhân dân ta.
Thực dân Pháp xâm lược đã làm cho giai cấp phong kiến bị phá vỡ, tan

rs


ity

rã thành nhiều mảnh. Ngồi triều đình Huế mê muội, bọn địa chủ phong kiến



hám danh, hám lợi thì vẫn cịn một số đơng các trí thức phong kiến ý thức

U
TN

được trách nhiệm của mình với dân với nước. Trái ngược với một số sĩ phu
thiếu hoài bão, ý chí đã chọn lối sống ẩn dật, trốn tránh sự đời, khơng màng
thế sự. Có những người bày tỏ thái độ bất mãn trước hiện thực đất nước
nhưng lại chỉ khoanh tay đứng nhìn mà khơng hành động. Trong khi đó,
Nguyễn Trường Tộ - một nhà nho lỗi lạc đã có những hành động thiết thực để
góp phần canh tân đất nước.
Trước những biến chuyển sâu sắc của xã hội, các giai cấp có sự phân hóa
rõ rệt. Một thực tế khơng thể phủ nhận là tầng lớp trí thức lúc bấy giờ rất lung
túng khi đối diện với kẻ thù mới đến từ văn minh phương Tây. Họ đã bị phân

9


hóa sâu sắc trên nhiều phương diện. Đó là tầng lớp trí thức nho học Việt Nam
đã gắn bó chặt chẽ với chế độ phong kiến, do sự thu hẹp nhãn quan tư duy đã
khiến họ phản ứng với mọi sinh hoạt văn hóa phi tơn giáo. Sự đối diện với
thực dân Pháp đã khiến người trí thức nước Việt đứng trước những con đường
khác nhau. Như Nguyễn Xuân Ôn (1825 - 1889), Phan Đình Phùng (1847 1895) muốn đánh Pháp nhưng không chịu canh tân đất nước. Hay Phan Thanh
Giản (1796 - 1867), Nguyễn Trường Tộ muốn hịa hỗn với Pháp để có thời

gian, sự ổn định để đổi mới đất nước. Điều này khiến việc phân loại trí thức

Th

Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX gặp nhiều khó khăn. Trong các giai cấp phong

ai

kiến, có một số sĩ phu yêu nước, các trí thức đã tiếp thu truyền thống yêu

gu

N

nước của dân tộc, họ sống chan hòa và cùng nhân dân chống giặc như Nguyễn
Xn Ơn, Tơn Thất Thuyết (1839 - 1913),... Một số nhà thơ, nhà văn u

ye

nước đã dùng ngịi bút chiến đấu để nói lên tâm tư, nguyện vọng, thái độ của

n

U

bản thân trước hoàn cảnh đất nước chiến tranh như Nguyễn Quang Bích

ve

ni


(1832 - 1890), Nguyễn Khuyến (1835 - 1909),...
Đến giữa thế kỉ XIX, cùng với sự hèn yếu của triều đình nhà Nguyễn, sự

rs

ity

xâm lược của thực dân Pháp và bước đầu tiếp cận với nền văn minh phương



Tây, tầng lớp nho sĩ ở nước ta đã phân hóa sâu sắc. Lúc này, ở Việt Nam diễn

U
TN

ra sự va chạm giữa hai nền văn minh Á - Âu, giữa văn hóa Nho giáo và văn
hóa Thiên chúa giáo du nhập từ phương Tây. Trước đây, nền tảng xã hội là
Nho giáo, nó là gốc rễ của mọi hệ tư tưởng. Hiện tại, khi thực dân Pháp xâm
lược, Nho giáo đã không thể giữ vững vị trí độc tơn và lãnh đạo dân tộc được
nữa. Biểu hiện rõ nhất là việc xuất hiện những nhóm sĩ phu tiến bộ có đầu óc
canh tân đất nước. Những nhân vật điển hình có thể kể đến là: Nguyễn
Trường Tộ (1830 - 1871), Phạm Phú Thứ (1820 - 1883), Nguyễn Tư Giản
(1823 - 1890), Nguyễn Lộ Trạch (1852 - 1895),… Đây là những sĩ phu có đầu
óc canh tân đầu tiên trong lịch sử nước ta, đặt nền móng cho cuộc vận động

10



giải phóng dân tộc vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Khi đối diện với vấn đề xâm lược của Pháp, họ phân hóa thành ba
khuynh hướng: chủ chiến, chủ hịa và khơng chiến cũng khơng hịa. “Trong
giai đoạn đầu của cuộc chiến, vấn đề được quan tâm nhiều nhất, có ý nghĩa
sống cịn là câu hỏi: chiến hay hịa?” [22; 267]. Chủ chiến có thể kể đến
những cái tên như Đốc học Phạm Văn Nghị (1805 - 1884), Phan Đình Phùng,
Nguyễn Xn Ơn, Trần Xn Soạn (1849 - 1923), Tôn Thất Thuyết (1839 1913)…trong phong trào Cần Vương. “Là người trí thức phong kiến, họ yêu

Th

nước, quyết tâm cứu nước thoát khỏi khổ nạn, nhưng lại cố làm sao cho hành

ai

động của mình vẫn nằm trong giới hạn cương thường” [22; 268]. Đó là những

gu

N

người có lịng u nước sâu sắc, họ sẵn sàng hi sinh tính mạng cứu nước. Tuy
nhiên, do tư tưởng Nho giáo in sâu, họ khơng thốt khỏi sự bảo thủ đối với

ye

việc canh tân đất nước, xem đó là hành động đi sai ln thường đạo lí. Về

n

U


phía chủ hịa, chia thành chủ hịa hồn tồn và chủ hịa để canh tân đất nước.

ve

ni

Trong đó, các nhà nho canh tân cịn theo xu hướng cũ và mới. Có thể kể đến
các nhân vật tiêu biểu cho chủ hịa hồn tồn như: Phan Thanh Giản, Trần

rs

ity

Tiễn Thành (1813 - 1883),… Sự phân hóa này còn bắt nguồn từ sự lúng túng



trước một kẻ thù mới hoàn toàn khác với các tập đoàn phong kiến phương

U
TN

Bắc trước đây. Dù Vương triều Nguyễn là một trong số những Vương triều
tiếp xúc và am hiểu nhiều về sức mạnh của phương Tây từ sớm, từ thời
Nguyễn Phúc Ánh còn đang tranh chấp với triều Tây Sơn. Nếu như khuynh
hướng chủ chiến hay chủ hòa đã rõ nét thì khuynh hướng khơng chiến cũng
khơng hịa khá phức tạp. Tư tưởng của khuynh hướng này là giặc từ xa đến
trước hết chúng ta phải thủ rồi từ từ mà tiến thoái. Tiêu biểu cho khuynh
hướng này là các nhà nho như: Trương Đăng Quế (1793 - 1865), Lâm Duy

Hiệp (1806 - 1863),…
Đội ngũ trí thức nho học giai đoạn này cịn phải đối diện với việc gìn giữ

11


những giá trị truyền thống nho học đã tồn tại nghìn năm nay hay cải cách đổi
mới theo nền văn minh phương Tây tiến bộ hơn. Sự phân hóa này chiếm vai
trò chủ đạo trong nửa cuối thế kỉ XIX. Vấn đề canh tân đất nước đã trở thành
một mối quan tâm lớn của tầng lớp trí thức khi một số quốc gia lân cận nhờ
cải cách mà thoát khỏi sự kìm hãm của chủ nghĩa tư bản. Đại diện cho khuynh
hướng chủ hịa để canh tân có thể kể đến như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ
Trạch, Đặng Huy Trứ,… Họ tiêu biểu cho một nhóm trí thức đã kịp thức tỉnh,
thoát khỏi ý thức hệ phong kiến mà nắm bắt được bước tiến của thời đại.

Th

Trong con người họ luôn trăn trở, lo âu với sự đổi mới canh tân đất nước. Nhờ

ai

tiếp xúc với luồng tư tưởng tiến bộ của phương Tây, họ luôn mong muốn

gu

N

dùng tư duy và trí tuệ của mình để đưa đất nước đi lên. Cịn bộ phận cịn lại
ln ra sức bảo vệ những giá trị truyền thống nho học lâu đời, chống phá lại


ye

những tư tưởng canh tân đất nước lúc bấy giờ. Một phần nguyên nhân có thể

n

U

do những người thuộc phái canh tân là người Công giáo như Nguyễn Trường

ve

ni

Tộ. Tuy nhiên, định kiến xã hội chính là rào cản lớn nhất, nó khiến cho những
người theo Cơng giáo như ông khó có thể phát huy hết những khả năng vốn

rs

ity

có của mình. Vị thế của Nguyễn Trường Tộ chỉ được nhìn nhận và đánh giá ở



một mức độ nhất định. Thực tế là sự nghi kị của triều đình về con người

U
TN


Nguyễn Trường Tộ cũng như những đề nghị cải cách của ơng vẫn tồn tại.
Ngồi những vấn đề nói trên, sự phân hóa trong tư tưởng của nho sĩ
đương thời còn thể hiện ở việc xuất và xử. Những cái xử của nho sĩ lúc bấy
giờ không giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp mà là sự bất hợp
tác với kẻ thù, quyết bảo vệ tiết tháo nhà nho. Đối lập với khuynh hướng xử
thế là khuynh hướng xuất thế, họ có xu hướng hợp tác với Pháp. Tuy nhiên,
trong nhóm xuất cũng có những sự phân hóa khác nhau.
Nhìn chung, giai đoạn này tầng lớp nho sĩ Việt Nam có sự phân hóa
mạnh mẽ và sâu sắc. Sự phân hóa này mang tính chất lịch sử cụ thể, bởi đó là

12


sự lúng túng trước một kẻ thù mới với nền văn minh tiến bộ. Bởi nho sĩ là
tinh hoa của xã hội cho nên sự phân hóa của họ đã có tác động to lớn đến
phong trào yêu nước Việt Nam. Như vậy, những biến cố lịch sử trong nửa
cuối thế kỉ XIX đã làm phân hóa hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam tồn tại bao
đời nay. Điều này đã tác động không nhỏ đến quan điểm sáng tác cũng như
nội dung phản ánh trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. Cũng như các trí
thức nho học khác, Nguyễn Trường Tộ tất nhiên cũng không tránh khỏi
những ảnh hưởng của luồng tư tưởng thời đại ấy. Trong bối cảnh lịch sử

Th

những năm cuối của thế kỷ XIX, tình hình Việt Nam có nhiều biến động. Vì

ai

những ngun nhân khách quan và chủ quan, vị thế của Nguyễn Trường Tộ


gu

N

chưa được nhìn nhận hợp lý. Cũng vì vậy, triều đình mới thực hiện được phần
nào những kiến nghị của ông, còn đa phần những chủ trương cải cách của

ye

Nguyễn Trường Tộ vẫn nằm im trên giấy tờ.

n

ve

ni

1.2.1. Cuộc đời

U

1.2. Tác giả Nguyễn Trƣờng Tộ

Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871), con cụ lang Nguyễn Quốc Thủ, tại

rs

ity

thơn Xã Đồi, nay thuộc huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Xã Đoài là thôn theo




đạo công giáo từ xa xưa. Năm 1846, giáo phận Vinh được thành lập với giáo

U
TN

mục tiên khởi là Gauthier Hậu. Ơng ta liền lấy Xã Đồi làm trụ sở. Khi ấy
Nguyễn Trường Tộ đã thông thạo nho học với tứ thư ngũ kinh, sử sách Đông
phương,… và được mệnh danh là Trạng Tộ. Ông từng mở trường dạy học tại
gia, đức cha Hậu biết ông là người tài đức, liền mời ông làm người dạy các
chúng sinh của giáo phận. Đồng thời Nguyễn Trường Tộ cũng nhờ cậy đức
cha để học thêm tiếng Pháp và nghiên cứu nền văn minh phương Tây cùng sự
thay đổi của các quốc gia trên thế giới.
Năm 1858, ông được giám mục Gauthier đưa qua Hương Cảng (Hồng
Kông), Tân Gia Ba (Singapore), Thụy Sỹ, Rôma,… rồi qua ngụ tại Pháp.

13


Trong khoảng hai năm ở đây, ơng đã có điều kiện học tập, nâng cao kiến thức
nhiều mặt như kinh tế, chính trị, ngoại giao, quốc phịng,… Ngồi sự hiểu biết
về khoa học - kĩ thuật, ơng cịn có trình độ như một kiến trúc sư, một người
giỏi kĩ thuật khai mỏ và một số hoạt động công nghệ của Pháp. Cuối 1858,
Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục Gauthier vào Đà Nẵng tránh nạn
(phân tháp) rồi đầu năm 1859 sang Hồng Kông.
Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về Sài Gịn với một hồi bão lớn là
đem những hiểu biết thu thập được của mình để giúp đất nước canh tân, tự


Th

cường, tự lực để mong tránh được sự mất nước, ông làm chức từ - hàn (thông

ai

dịch viên) và bị triều đình nghi kị là tay sai của ngoại bang. Do sống trong

gu

N

lòng địch nên việc phải làm việc với qn Pháp là bất đắc dĩ. Ơng làm cơng
việc phiên dịch các cơng hàm trao đổi giữa triều đình Huế với Soái phủ Pháp

ye

ở thành Gia Định. Nhiều lần ông có sửa đi một số chữ nghĩa trong công hàm

n

U

của hai bên để tránh những lời lẽ quá khích, xúc phạm tới triều đình và gây

ve

ni

hại cho việc tạm hịa. Ngồi ra, một số lần ơng cịn thơng báo cho một số đại

thần của triều Nguyễn như Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ những âm mưu

rs

ity

của thực dân Pháp. Do ơng là người cơng giáo, có thời gian làm việc với thực



dân Pháp lâu dài, và triều đình lại ln căm ghét đạo Ki - tơ cho nên triều

U
TN

đình cũng như nhân dân ln có thái độ khơng tin tưởng đối với ơng. Chính
điều này cho nên một người tài năng, thơng minh, giàu lịng u nước như
ơng lại không được đánh giá đúng và tin dùng như một số người khác.
1862, ông xin thôi chức Từ - hàn, lui về q, ơng dồn hết tâm trí vào việc
thảo kế hoạch giúp nước. Cho tới tháng 5 - 1863, ông đã thảo sẵn ba văn bản,
làm thành một kế hoạch hồn chỉnh gửi lên triều đình Huế là Tế cấp luận,
Giáo môn luận và Thiên hạ phân hợp đại thế luận. Sau khi thảo xong ba văn
bản quan trọng này, Nguyễn Trường Tộ cịn thảo thềm bài Trần tình để phân
trần về tâm tư và hoàn cảnh riêng của mình, bởi ơng sợ triều đình nghi ngờ vì

14


mình đã từng làm việc với giáo sĩ Pháp.
Trong lúc chờ đợi ở Sài Gịn, sau khi thơi làm phiên dịch cho Pháp ơng

đã giúp xây cất tu viện dịng thánh Phaolo, số 4 Tôn Đức Thắng hiện nay.
Công cuộc xây dựng được bắt đầu tháng 9 năm 1862 và hoàn tất vào 18 - 7 1864. Cũng trong thời gian này, Nguyễn Trường Tộ sống trong những ngày
buồn tẻ và bệnh tật. Ơng cịn bị bệnh tê thấp, chính căn bệnh này đã hạn chế
phần nào những hoạt động của ông.
Từ 1861 - 1866, Nguyễn Trường Tộ chủ yếu ở Sài Gịn, khơng về Nghệ

Th

An, ơng cũng ít đi Huế, cho tới giữa năm 1866 mới được về Xã Đồi. Trong

ai

năm này, ơng được mời về Huế, đây là những năm tháng đầy triển vọng của

gu

N

ông. Trong thời gian này, ông được vua Tự Đức chú ý đến và được triệu vào
kinh giải quyết vấn đề tàu London. Tuy nhiên, triều đình khơng sử dụng và

ye

nhà vua cũng nghe theo, cuối cùng Nguyễn Trường Tộ thấy mình ở Huế cũng

n

U

khơng có gì để làm nên đã xin đi ra Quảng Bình để về Nghệ An.


ve

ni

10 - 4 - 1866, Nguyễn Trường Tộ cùng với linh mục Croc và Nguyễn
Hoàng rời Huế để đi Bố chính. Sau đó ơng cùng giám mục Gauthier đi về Xã

rs

ity

Đồi, Nghệ An. Nhưng khơng lâu sau ông quay lại Huế. Lần quay lại này



Nguyễn Trường Tộ thấy bức xúc về việc canh tân đất nước nhưng ông cũng

U
TN

thấy được rõ ràng và sâu sắc hơn những khó khăn trước mắt. Vua thì nghi ngờ
ơng vì ơng là người cơng giáo, các quan trong triều thì cổ hủ khơng hiểu về
hồn cảnh thực tế mà ln ghen ghét sinh lịng đố kị với nhau.
1867, Nguyễn Trường Tộ đã cùng với giám mục Gauthier và một số
người khác đáp tàu đến Pháp. Đây là giai đoạn mà Nguyễn Trường Tộ viết
dâng lên triều đình Huế nhiều bản điều trần có giá trị nhằm góp phần cho
cơng cuộc canh tân đất nước. Gần 60 di thảo của ông được người đời sau sưu
tầm và gìn giữ đã thể hiện tài năng, tư duy tài tình của ơng trên nhiều phương
diện về chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự,…


15


Trong những năm cuối đời (1868 - 1871), Nguyễn Trường Tộ có góp
phần quan trọng trong việc xây dựng nhà chung Xã Đồi, đồng thời ơng cũng
có nhiều liên lạc với triều đình Huế, khoảng hai mươi văn bản trong số đó
hiện có ba văn bản chưa tìm thấy ở đâu. Ngày 3 - 1 - 1871, Nguyễn Trường
Tộ được tổng đốc Nghệ An cử đi Huế với lí do là để đem học sinh đi du học.
Trong những ngày ở Huế, ông đã lặng lẽ gặp gỡ nhiều quan chức trong triều
đình và ơng cũng để lại nhiều văn bản thơi thúc triều đình mở rộng bang giao,
canh tân đất nước,…Sau một thời gian ở Huế bệnh cũ tái phát, Nguyễn

Th

Trường Tộ về Nghệ An. Ông từ trần ngày 22 - 11 - 1871 trong niềm tiếc nuối

ai

của nhiều người.

gu

N

Nguyễn Trường Tộ là một cái tên ngày càng đến gần với thế hệ ngày
nay. Với tư duy và sự cống hiến của mình, ơng được người đời gọi với những

ye


tên cao quý “người yêu nước sáng suốt”, “nhà cải cách lớn của dân

n

U

tộc”,…ông xứng đáng là một danh nhân lịch sử của dân tộc với những công
1.2.2. Con người

rs

ve

ni

lao to lớn mà ơng đã đóng góp cho sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam.

ity

Nguyễn Trường Tộ sinh ra trong hoàn cảnh đất nước ta hết sức bi đát.



Vua khơng phải bậc minh qn, đầu óc thủ cựu, xem người phương Tây là

U
TN

trên hết, chỉ biết vui chơi hưởng lạc. Nguyễn Trường Tộ được du học thành
tài và tiếp thu được tư tưởng tiến bộ, đồng thời ơng thấy được hồn cảnh đất

nước hiện giờ, do đó ơng ln canh cánh nỗi ưu tư vì nước. Ơng thâu gom
được nhiều kiến thức quý báu, cộng với tấm lịng u nước thương nịi thiết
tha, ơng đã ơm một giấc mơ canh tân đất nước, làm cho nước Việt trở thành
một nước lớn mạnh. Nguyễn Trường Tộ thông minh, học giỏi và tài năng, ông
được dân gian truyền tụng là trạng Tộ. Tuy nhiên, ơng khơng đỗ đạt gì, có thể
vì ơng là người cơng giáo nên khơng được đi thi hoặc là ông không muốn đi
theo con đường khoa cử. Do sớm tiếp xúc với phương Tây nên Nguyễn

16


Trường Tộ rất giỏi ngoại ngữ, ông thông thạo nhiều thứ tiếng. Đồng thời, ông
là người đầu tiên chỉ ra những thiếu sót, khuyết điểm của chính quyền nhà
Nguyễn. Ơng bày tỏ đã làm quan là phải thanh liêm, tích cực, nhiều kinh
nghiệm đề có thể hồn thành nhiệm vụ, làm việc có ích cho dân. Ngồi ra ơng
cịn phản đối nền giáo dục lạc hậu, luôn lo lắng cho giáo dục nước nhà.
Nguyễn Trường Tộ không chỉ là một nhà cải cách nổi tiếng, một người
Công giáo yêu nước tha thiết, mà còn là một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam
trong thế kỉ XIX. Mặc dù bị hạn chế bởi thế giới quan duy tâm tôn giáo nhưng

Th

Nguyễn Trường Tộ đã có những tư tưởng triết học độc đáo về nhân sinh, xã

ai

hội,... so với các nhà tư tưởng Việt Nam cùng thời. Bên cạnh đó ơng cịn đưa

gu


N

ra khơng ít những kiến nghị trong nhiều lĩnh vực, từ khoa học tự nhiên đến
khoa học xã hội, quốc phòng, ngoại giao. Đọc năm mươi tám di thảo của ông

ye

chúng ta thấy được sự am hiểu sâu sắc của ông về nhiều lĩnh vực. Song ông

n

U

không chỉ là một nhà yêu nước mà còn là một triết gia lớn của Việt Nam. Từ

ve

ni

những di thảo của ông, độc giả dễ dàng nhận thấy rất nhiều luận điểm triết
học có giá trị. Ông bỏ ra cả cuộc đời để học tập và suy nghĩ cho dân tộc, vì

rs

ity

dân tộc. Ơng tiên đoán trước mười lăm năm rằng thế nào đất nước cũng sa




vào tình thế khốn quẫn, bi đát. Ơng trải lịng mình, suy nghĩ của mình lên

U
TN

những trang điều trần, ông ý thức được ý nghĩa những bản điều trần ấy cho tới
mai sau vẫn cịn giá trị.

Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ đã vượt hẳn lên trên tầm thời đại
giữa thế kỉ XIX ở Việt Nam. Vua Tự Đức tuy đã có lúc tin dùng ơng tuy
nhiên nhà vua cũng như các nho sĩ, văn thân thời ấy chưa hiểu được luồng tư
tưởng của ông nên chưa coi trọng đúng mức những kiến nghị canh tân của
ơng. Trí tuệ ơng như một luồng ánh sáng soi vào thời đại nhưng lại bị lãng
quên. Tuy bị phản đối và những bản điều trần gửi lên không được chấp nhận
nhưng Nguyễn Trường Tộ vẫn ln kiên trì, nhẫn nại. Trong vòng mười năm,

17


ông liên tục gửi lên vua Tự Đức và triều đình Huế rất nhiều bản điều trần.
Điều này cho chúng ta thấy được một con người ln hết lịng vì nước vì dân.
Giáo sư Nguyễn Hữu Tá đã từng nói: “Ở tuổi ba mươi, Nguyễn Trường
Tộ đã có một vốn kiến thức rộng và sâu cả về phương diện chính trị, kinh tế,
văn hóa, khoa học - kỹ thuật. Với tiềm lực chất xám rất quý như thế, nếu ông
được tin dùng, được tạo điều kiện để hoạt động, tình thế có thể sẽ rất khác. Bi
kịch của Nguyễn Trường Tộ, ngẫm ra là một nghịch lí khó tin nhưng có thật.
u nước nhưng khơng được giúp nước vượt qua đại họa ngoại xâm, thực sự

Th


có tài năng xuất chúng nhưng vấp phải vật cản quá lớn - sự trì trệ bảo thủ, dị

ai

ứng với chủ trương duy tân, tự cường của triều đình Tự Đức và sự nghi ngờ

gu

N

dai dẳng của họ với những người tin theo Công giáo”
Với tư duy hơn người, nếu như những cải cách của Nguyễn Trường Tộ

ye

được thực hiện thì rất có thể Việt Nam đã thoát khỏi nạn mất nước năm 1884.

n

U

Tư tưởng của ơng đã vượt ra khỏi những giáo lí nho giáo để đối diện với thực

ve

ni

tế thời đại. Năng lực tư duy sắc bén đã giúp ơng hồn thành nên những bản
điều trần nhằm canh tân đất nước. Tư tưởng, hành động của ông xứng đáng là


rs

ity

người đại biểu tiến bộ cho một mơ hình nho học sau này. Nguyễn Trường Tộ



cịn là người có nhân cách cao đẹp, ngay từ những ngày đầu tuổi trẻ, dưới mái

U
TN

trường “Cửa Khổng sân Trình”, Nguyễn Trường Tộ đã có khát vọng riêng
cho đời. Ông từ giã con đường tiến thân bằng khoa cử, chính lí tưởng khác
với một số người đương thời đã đưa Nguyễn Trường Tộ lên một tầm cao hơn.
Mặt khác, ơng cịn là một người có lịng u nước chân thành, đứng trước
hoàn cảnh đất nước chịu xâm lược, Nguyễn Trường Tộ đã ln cố gắng hết
mình đi tìm con đường đổi mới đất nước.
1.2.3. Trước tác
- Các bản điều trần và phúc trình


Hịa từ (Bàn về hịa) gửi tướng Nguyễn Bá Nghi (1861)

18





Tế cấp luận (Bàn về những việc khẩn cấp, tháng 3 - 4 năm

1863, hiện chưa tìm thấy)


Giáo mơn luận (Bàn về việc tự do tôn giáo, 26 tháng 3 năm

1863)


Thiên hạ phân hợp đại thế luận (Bàn về những thế lớn phân

và hợp trong thiên hạ). Đây là bài "Hòa từ" được sửa chữa lại (1863)
Điều trần (7 tháng 5 năm 1863)



Lục lợi từ (Kế hoạch làm cho dân giàu, tháng 6 năm 1864)



Khai hoang từ (Bàn về việc khai hoang, tháng 2 năm 1865)



Điều trần khả năng lấy lại ba tỉnh miền Đông [Nam Kỳ]

ai

Th




Kế hoạch vận động ở Pháp để giữ ba tỉnh miền Tây [Nam

n

Kỳ] (1866)

ye



gu

N

(1866)

Báo cáo về việc gặp viên Lãnh sự Tây Ban Nha (1866)



Kế ly gián giữa Anh và Pháp (1866)



Điều trần về hội nước ngồi (1866)




Phúc trình về việc ký hợp đồng với các hội nước ngoài (gửi

ity

rs

ve

ni

U





về khi sang Pháp năm 1887)

U
TN



Về tám điều cần bàn gấp (gửi về khi sang Pháp năm 1867)



Điều trần về việc tiễu trần giặc biển (tháng 8, 1868)




Điều trần về việc tái tu võ bị (1869)



Kế hoạch nội cơng ngoại kích thu hồi sáu tỉnh Nam Kỳ (tháng

11, 1870)


Bổ sung kế hoạch sai sứ đi Tây và đánh úp Gia Định (tháng

11, 1870)


Bàn về việc cho Pháp thông thương để đổi lại sáu tỉnh (tháng

19


2, 1871)


Kế hoạch thương nghị với Pháp và vận động sự giúp đỡ của

các nước khác (tháng 2, 1871)


Kế hoạch vay tiền để dùng vào việc binh (tháng 2, 1871)




Về việc gửi học sinh sang Singapore học sinh ngữ (tháng 2,

1871)


Về việc nhờ Giám mục Hòa giúp lấy lại 6 tỉnh (tháng 3,

1871)
Tu võ bị (bàn về việc chỉnh đốn qn đội và quốc phịng, tháng

ai

Th



5, 1871)


N



Về việc nơng chính (tháng 8, 1871), v.v...

n


- Di cảo thơ

ye

gu

Về việc cần canh tân, quảng giao để giữ nước (tháng 8, 1871)

Đà Nẵng ngẫu bạc



Bát nguyệt sơ cửu nhật du Ngũ Hành Sơn tự kỳ 1



Bát nguyệt sơ cửu nhật du Ngũ Hành Sơn tự kỳ 2



Cần Giờ phong cảnh



Chu thứ dữ biện lý viên tác biệt tập cổ tại Cần Giờ hải khẩu



Chu thứ tống lễ bộ viên ngoại hồi ngụ dưỡng bệnh




Chu thứ trung thu



Hải thuyền dạ vũ



Quá Hoành Sơn quan hữu cảm

+

Thạch Bi sơn ngẫu thành

ity

rs

ve

ni

U






U
TN

1.3. Tác phẩm “Tế cấp bát điều”
1.3.1. Hoàn cảnh ra đời
Sau khi mất Nam Kỳ, nhà nước Việt Nam phong kiến dưới triều Tự Đức

20


×