Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Những khó khăn trong việc định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12 nghiên cứu trường hợp trường trung học phổ thông nguyễn trường tộ xã tân hải thị xã lagi tỉnh bình thuận đề tài sinh viê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC
……

CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
CẤP TRƯỜNG NĂM 2011
ĐỀ TÀI:

NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG VIỆC ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ
NGHIỆP CỦA HỌC SINH LỚP 12
(Nghiên cứu trường hợp Trường Trung học Phổ thông Nguyễn
Trường Tộ- Xã Tân Hải-Thị xã Lagi- Tỉnh Bình Thuận)
Sinh viên thực hiện:
Chủ nhiệm:
1. Hồ Thùy Linh

(Nữ, Lớp Xã hội học k14A, khóa 2008-2012)

Thành viên:
2. Lào Thụy Dương

(Nữ, Lớp Xã hội học k14A, khóa 2008-2012)

3. Phạm Văn Học

(Nam, Lớp Xã hội học k14A, khóa 2008-2012)

4. Nguyễn Thu Hương

(Nữ, Lớp Xã hội học k14A, khóa 2008-2012)



5. Bùi Văn Hưng

(Nam, Lớp Xã hội học k14A, khóa 2008-2012)

Giáo viên hướng dẫn:
Ths.Trần Thị Bích Liên, Khoa Xã hội học

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2011


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. BBGB PVS: Biên bản gỡ băng phỏng vấn sâu
2. BGH: Ban giám hiệu
3. CĐ-ĐH: Cao đẳng- Đại học
4. CP: Chính phủ
5. GDCD: Giáo dục công dân
6. GD-ĐT: Giáo dục - Đào tạo
7. GDHN: Giáo dục hướng nghiệp
8. GĐ: Gia đình
9. GDPT: Giáo dục phổ thông
10. GVCN: Giáo viên chủ nhiệm
11. HS: Học sinh
12. NT: Nhà trường
13. PH: Phụ huynh
14. PTCS: Phổ thông cơ sở
15. PTTH: Phổ thông trung học
16. QĐ: Quyết định
17. THPT: Trung học phổ thông
18. THPTDT: Trung học phổ thông dân tộc

19. THPTDTNT: Trung học phổ thông dân tộc nội trú
20. TP: Thành phố
21. TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
22. TT: Thơng tư


MỤC LỤC

PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................. 1
PHẦN 2: NỘI DUNG ........................................................................................ 16
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........ 16
1.1 Lý thuyết áp dụng .................................................................................. 16
1.2 Các khái niệm ......................................................................................... 19
1.3. Khung phân tích.................................................................................. 24
1.4 Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................ 25
1.5 Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 25
CHƯƠNG 2: MÔ TẢ ĐỊA BÀN VÀ MẪU NGHIÊN CỨU............................ 28
2.1. Mô tả địa bàn nghiên cứu ....................................................................... 28
2.2 Mơ tả mẫu nghiên cứu ............................................................................. 31
2.3 Tìm hiểu hoạt động hướng nghiệp của trường THPT Nguyễn Trường
Tộ ......................................................................................................................... 33
CHƯƠNG 3: NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA HỌC SINH 12 TRONG VIỆC
ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP........................................................................... 37
3.1 Khó khăn từ chính bản thân học sinh ................................................... 38
3.2 Khó khăn từ gia đình ............................................................................... 42
3.3 Khó khăn từ nhà trường: Thiếu thơng tin về ngành nghề, trường dự thi,
nhu cầu lao động ở địa phương........................................................................... 50
3. 4 Khó khăn từ phía xã hội ......................................................................... 56
3. 5 Nhu cầu bộ phận chuyên tư vấn hướng nghiệp ..................................... 61
PHẦN 3: KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ ......................................................... 65

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 73
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 74


1

PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước ta đang bước vào thời kì cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, với nền
kinh tế thị trường mở và nhiều biến động. Hai yếu tố nguồn nhân lực và giáo dục đào
tạo được xem là quan trọng trong việc quyết định thắng lợi của q trình cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước. Vì vậy giáo dục đào tạo rất được Nhà nước quan tâm nhằm
nâng cao trình độ dân trí và cung ứng nguồn nhân lực phù hợp với cơ cấu chuyển dịch
của nền kinh tế đất nước nói chung và kinh tế từng địa phương nói riêng. Nhà trường
Trung học phổ thơng là nơi góp phần không nhỏ cho việc đào tạo những người lao
động mới; hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, là bước khởi đầu quan trọng của quá
trình phát triển nguồn nhân lực.
Xác định vai trị quan trọng của cơng tác hướng nghiệp trong trường phổ thơng,
ngày 19 - 3- 1981, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 126/CP về công tác hướng
nghiệp và sử dụng hợp lí học sinh các cấp PTCS, PTTH tốt nghiệp ra trường. Quyết
định nêu rõ “Công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông nhằm mục đích bồi
dưỡng, hướng dẫn việc chọn nghề của học sinh cho phù hợp với yêu cầu phát triển của
xã hội đồng thời phù hợp với năng khiếu cá nhân”(1). Tiếp đó, Bộ Giáo dục đã ban
hành Thơng tư số 31/TT hướng dẫn thực hiện Quyết định 126/CP trong đó chỉ rõ:
Công tác hướng nghiệp trong trường PT được thực hiện qua 4 con đường cơ bản:
Hướng nghiệp qua dạy học các mơn văn hóa.
Hướng nghiệp qua dạy học các mơn kỹ thuật (nay là các môn công nghệ, nghề phổ
thông) và qua hoạt động lao động sản xuất.
Hướng nghiệp qua các buổi “Sinh hoạt hướng nghiệp” theo chương trình GDPT
mới được gọi là hoạt động GDHN.

Hướng nghiệp qua các hoạt động ngoại khóa ở trong và ngồi nhà trường (2).

(1) QĐ Số 126/CP,
(2) Thông tư số 31/TT,


2

Thế nhưng, trong nhiều năm qua công tác hướng nghiệp ở các trường THPT mới
chỉ dừng ở một số họat động nhất định như tổ chức sinh hoạt hướng nghiệp trong buổi
sinh họat đầu tuần hoặc cuối tuần, hướng dẫn làm hồ sơ thi vào đại học. Hiệu quả của
các hoạt động ấy chưa cao, chưa đạt được mong muốn của chủ trương. Thực trạng ấy
do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về quản lý. Nghị quyết TW II
khóa 8 đã chỉ rõ: “Cơng tác giáo dục hướng nghiệp ở bậc phổ thông chưa được coi
trọng đúng mức ”(3); Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có Chỉ thị số 33/
2003/CT – Bộ GD&ĐT ngày 23 - 7 - 2003 về việc tăng cường giáo dục hướng nghiệp
cho học sinh phổ thơng, trong đó có đánh giá : “Giáo dục hướng nghiệp hiện nay chưa
được các cấp quản lý giáo dục và các trường học quan tâm đúng mức, cịn có địa
phương và trường học chưa thực hiện đầy đủ các nội dung giáo dục hướng nghiệp,
chất lượng hoạt động hướng nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của học sinh và xã
hội, học sinh phổ thông cuối các cấp học và bậc học chưa được chuẩn bị chu đáo để
lựa chọn nghề nghiệp, lựa chọn ngành học phù hợp với bản thân và yêu cầu của xã
hội"(4). Thực tế đã qua và hiện nay hoạt động GDHN trong nhà trường phổ thơng nói
chung, trường THPT nói riêng cịn nhiều hạn chế. GDHN chưa đáp ứng yêu cầu của
xã hội đối với nhiệm vụ định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Các trường bậc THPT,
THCS, những đơn vị chịu trách nhiệm chính trong tư vấn hướng nghiệp - vẫn cịn gặp
rất nhiều khó khăn trong khâu xây dựng hệ thống hướng nghiệp để giúp học sinh có
được sự lựa chọn nghề đúng đắn. Vấn đề này đang được quan tâm của toàn xã hội và
những người làm công tác hướng nghiệp.
Trường THPT Nguyễn Trường Tộ, Xã Tân Hải – Thị Xã Lagi – Bình Thuận, là

ngôi trường mới được xây dựng lại thuộc khu vực nơng thơn thì cơng tác hướng
nghiệp của trường đã được thực hiện tốt chưa? Học sinh lớp 12 của trường nói riêng
và học sinh vùng nơng thơn cũng như học sinh lớp 12 nói chung có gặp khó khăn gì
trong việc định hướng nghề nghiệp khơng? Những khó khăn đó là gì? Có khó khăn
nào mang tính đặc thù của địa phương không? Và đâu là những nguyên do dẫn đến
những khó khăn đó?
(3) Số 02-NQ/HNTW , />
(4) Số: 33/2003/CT-BGDĐT, />

3

Từ những câu hỏi đặt ra, nhóm nghiên cứu đã chọn đề tài “Những khó khăn của
học sinh 12 trong việc định hướng nghề nghiệp” (Nghiên cứu trường hợp của
trường THPT Nguyễn Trường Tộ, Xã Tân Hải – Thị Xã Lagi – Bình Thuận). Trong
khả năng giới hạn của đề tài, nhóm nghiên cứu sẽ chỉ ra những khó khăn mà học sinh
12 gặp phải trong việc định hướng nghề nghiệp cho mình và những ngun nhân dẫn
đến các khó khăn đó.
2. Tình hình nghiên cứu
Học sinh 12 là một bộ phận tri thức trẻ đóng góp vào sự phát triển nguồn nhân lực
của đất nước. Vì vậy, bộ phận này rất được sự quan tâm của nhiều người, nhất là đối
với việc định hướng nghề nghiệp của các em. Vì thế đã có nhiều đề tài nghiên cứu về
vấn đề này.
2.1. Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Phi Yến Khoa Kinh Tế- Quản Trị Kinh
Doanh Trường Đại Học An Giang năm 2006 với đề tài “Hành vi chọn ngành thi đại
học của học sinh 12”.
Mục tiêu của cuộc nghiên cứu này là xác định nhu cầu về thi đại học của học sinh,
cách tìm kiếm thơng tin, đánh giá các tiêu chí chọn lựa và ra quyết định chọn lựa
ngành của học sinh lớp 12; nhận biết xu hướng chọn ngành của học sinh thiên về lĩnh
vực tự nhiên hay xã hội, các yếu tố tác động đến hành vi chọn ngành. Và biết được sự
khác nhau giữa các biến nhân khẩu trong hành vi chọn ngành thi đại học của học sinh

lớp 12.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa số các bạn đến lớp 12 mới nghĩ đến ngành thi đại
học và thường chọn từ 2 ngành trở lên để có tỉ lệ đậu đại học là cao nhất và đến lớp 12
các bạn mới bắt đầu luyện thi đại học. Nguyện vọng chung nhất của các bạn học sinh
12 hiện nay là mong muốn cho mình có nghề nghiệp vững chắc, muốn kiếm tiền.
Trong việc tìm kiếm thông tin, phần lớn nguồn thông tin được các bạn chọn nhiều
nhất là sách báo. Trong khi đó, nguồn thơng tin từ giờ hướng nghiệp hay từ thầy cô
không phải là nguồn thông tin mà các bạn chọn nhiều nhất. Các bạn học sinh chưa đặt
niềm tin tuyệt đối vào giờ hướng nghiệp. Công tác hướng nghiệp ở trường phổ thông
chưa đảm bảo đúng yêu cầu, mục tiêu đào tạo, chưa giải đáp một cách thỏa đáng mọi


4

thắc mắc liên quan đến nghề nghiệp của học sinh. Nguồn thông tin mà các bạn tin cậy
nhất là ba mẹ và nguồn thơng tin hữu ích từ bạn bè cũng chiếm tỉ lệ cao.
Tiêu chí chọn ngành của mẫu nghiên cứu phần lớn cho rằng chọn ngành phù hợp
với năng lực bản thân, phù hợp với sở thích, khả năng có việc làm cao và khả năng
trúng tuyển cao chiếm vị trí quan trọng trong tiêu chọn ngành. Tiêu chí chọn trường
của các bạn cho rằng trường phù hợp với khả năng tài chính và có tỉ lệ chọi thấp là
tiêu chí quan trọng trong việc lựa chọn trường học cho mình sau này.
Trong việc đưa ra quyết định chọn ngành, đa số các bạn đều tham khảo ý kiến của
cha mẹ, anh chị em trong gia đình. Nhưng cũng có khơng ít gia đình cho con cái tồn
quyền quyết định ngành học cho mình. Xu hướng chọn ngành thiên về lĩnh vực tự
nhiên chiếm tỉ lệ cao khối A, B cao trong khi khối D, C chiếm tỉ lệ thấp. Cuộc nghiên
cứu cũng cho thấy, xu hướng khi không đậu đại học phần lớn các bạn đều muốn ôn thi
lại để sang năm thi lại chiếm tỉ lệ cao.
Đề tài được nghiên cứu ở khía cạnh tiếp thị. Hành vi chọn ngành của học sinh
được xem như hành vi của người tiêu dùng, học sinh chính là những khách hàng mà
trường đại học là nơi cung cấp dịch vụ. Nghiên cứu được tiến hành theo hai bước

nghiên cứu sơ bộ định tính và nghiên cứu chính thức định lượng. Nghiên cứu định
tính thơng qua thảo luận tay đơi và phỏng vấn thử, qua đó hiệu chỉnh bảng hỏi cho
nghiên cứu chính thức. Sau đó nghiên cứu định lượng được tiến hành bằng bảng câu
hỏi.
Đề tài nghiên cứu định lượng với cỡ mẫu 200 ở 4 trường THPT, một trường
chun, một trường khơng chun, và hai trường có các học sinh sống ở vùng nông
thôn. Tương ứng mỗi trường là 50 học sinh. Mẫu được lấy là chọn ngẫu nhiên một lớp
12 trong trường THPT.
Qua kết quả nghiên cứu đã cho thấy xu hướng chọn ngành của các em học sinh
hiện nay. Thấy được vai trò của ba mẹ, điều kiện kinh tế gia đình trong việc tư vấn,
cung cấp thông tin và hành vi chọn ngành thi đại học của các em.
Để tài chỉ đề cập đến hành vi chọn ngành, chưa đi sâu nghiên cứu hành vi sau khi
chọn ngành để biết được học sinh có chọn đúng ngành mà mình mong muốn khơng.
Chưa tìm hiểu ngun nhân hay những khó khăn trong việc lựa chọn ngành học. Phạm


5

vi nghiên cứu chưa nói lên được sự khác biệt giữa học sinh nông thôn và thành thị
trong việc ra quyết định chọn ngành.

2.2. Đề tài “Thực trạng hướng nghiệp cho học sinh tại Trường THPTDT Ngoại trú
Đồng Nai” của Tác giả Đoàn Thị Hải Yến (chủ nhiệm) - Khoa Giáo Dục Học - Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thực
hiện năm 2007.
Mục đích của cuộc nghiên cứu này nêu lên thực trạng hướng nghiệp của trường
THPT dân tộc ngoại trú Đồng Nai để thấy được được tầm quan trọng của hướng
nghiệp, từ đó đưa ra các kiến nghị và giải pháp góp phần giải quyết những vấn đề cịn
tồn đọng. Với q trình nghiên cứu tác giả đã thu được những kết quả sau:
Nhận thức của học sinh và giáo viên trường THPTDT Ngoại trú Đồng Nai đều rất

cao và họ đều coi hoạt động hướng nghiệp là một việc làm quan trọng cho học sinh.
Hoạt động hướng nghiệp sẽ giúp cho học sinh định hướng đúng khả năng của mình
phù hợp với ngành nghề nào, giúp cho học sinh nắm bắt được ngành nghề nào quan
trọng và xã hội đang cần.
Ngồi ra tác giả cịn đi sâu phân tích thực trạng tổ chức hoạt động hướng nghiệp
của trường như: mục đích hướng nghiệp, thời gian hướng nghiệp, nội dung hướng
nghiệp, lực lượng hướng nghiệp và nguồn tiếp cận thơng tin. Mục đích hướng nghiệp
theo như khảo sát thì phần đơng trả lời giúp lựa chọn nghề đúng khả năng và nguyện
vọng, thời gian hướng nghiệp vào các buổi họp lớp với giáo viên chủ nhiệm, các buổi
sáng thứ hai chào cờ, các buổi ngoại khóa… Hướng nghiệp xoay quanh nội dung đó là
cung cấp cho học sinh những kiến thức chung về các ngành nghề và các chỉ tiêu đầu
vào của các trường…Tất cả các yếu tố xoay quanh vấn đề thực trạng tổ chức hướng
nghiệp trên tuy đã có nhưng cịn rất là hạn hẹp, hướng nghiệp ở trường mặc dù nhận
thức là rất quan trọng nhưng dường như chất lượng và ứng dụng còn chưa sát với thực
tế nên học sinh vẫn chưa thể có sự lựa chọn đúng đắn nhờ vào hoạt động hướng
nghiệp được.
Một kết quả nữa mà nhóm tác giả thu nhận được đó là có rất nhiều khó khăn trong
cơng tác hướng nghiệp của trường đang ảnh hưởng rất lớn tới quá trình hướng nghiệp


6

cho học sinh. Một trong số khó khăn lớn nhất phải kể đến đó là lực lượng hướng
nghiệp cịn q non trẻ, không nắm bắt được xu hướng nghề nghiệp cũng như khơng
đủ trình độ chun mơn để có thể hướng cho học sinh đi đúng hướng được. Ngoài ra
việc tiếp cận thơng tin cịn gặp rất nhiều khó khăn cũng ảnh hưởng tới quá trình hướng
nghiệp.
Đề tài sử dụng phương pháp định lượng và định tính để thu thập thông tin. Phương
pháp định lượng: phương pháp bảng hỏi gồm 21 câu hỏi cho học sinh và 15 câu hỏi
cho giáo viên. Tác giả khảo sát 31/153 học sinh lớp 10; 30/119 học sinh lớp 11; 105

học sinh lớp 12 và khảo sát 31 giáo viên của trường. Sử dụng phương pháp chọn mẫu
ngẫu nhiên phi xác suất và có sự so sánh nhận thức, nhu cầu và mục đích trong hoạt
động hướng nghiệp của 3 khối lớp này. Phương pháp định tính: phương pháp quan sát,
phương pháp tư liệu sẵn có.
Qua đề tài tác giả đã tập trung phân tích các yếu tố để thể hiện thực trạng hướng
nghiệp của trường THPTDTNT Đồng Nai một cách đầy đủ, đồng thời tác giả đi sâu
phân tích yếu tố tiếp cận thơng tin, vì đây là một trường học dân tộc ngoại trú nên khả
năng tiếp cận sẽ rất thấp, không có điều kiện tiếp xúc với thơng tin đồng nghĩa với
việc nắm bắt xu thế nghề sẽ yếu kém đi rất nhiều. Tác giả sử dụng sự so sánh với 3
khối lớp để thấy được nhận thức và tầm quan trọng của khối lớp 12 là lớn hơn cả.
Trong đề tài, tác giả chưa đi sâu phân tích vào lực lượng hướng nghiệp như thế
nào, lực lượng hướng nghiệp là nòng cốt giúp hướng cho học sinh đi đúng đắn và
những người làm trong hoạt động này phải hiểu được khả năng của mỗi học sinh của
mình nhưng nhóm tác giả chưa làm rõ được thực trạng đội ngũ hướng nghiệp hiện
nay.
2.3. Đề tài “Thực trạng tự hướng nghiệp của học sinh Trung học phổ thơng tại
Thành phố Biên Hịa – Đồng Nai” – Cơng trình nghiên cứu khoa học sinh viên cấp
trường năm 2010 do Bùi Sơn Lâm làm chủ nhiệm, khoa Giáo Dục, Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Mục đích nghiên của đề tài là nghiên cứu thực trạng tự hướng nghiệp của học sinh
THPT tại Thành phố Biên Hịa – Đồng Nai, từ đó đưa ra các kiến nghị giúp cho hoạt
động tự hướng nghiệp của học sinh được tốt hơn.


7

Qua kết quả nghiên cứu, đề tài đã cho thấy phần lớn học sinh đã nhận thức về tính
chất tự giác của chính bản thân trong q trình kiếm tìm một ngành nghề phù hợp.
Hoạt động tự hướng nghiệp phải kể tới tầm quan trọng của các yếu tố giúp đỡ từ
những người xung quanh, đồng thời học sinh cũng bước đầu đánh giá được tính chất

phức tạp của quá trình tự hướng nghiệp.
Ngồi ra hầu hết học sinh THPT thành phố Biên Hòa – Đồng Nai đều đánh giá
hoạt động tự hướng nghiệp là cần thiết. Tuy nhiên mức độ hứng thú của học sinh khi
tham gia các hoạt động tự hướng nghiệp ở mức bình thường và học sinh thường chưa
u thích các cơng tác tự hướng nghiệp như vậy.
Đề tài cũng nêu ra những khó khăn trong hoạt động tự hướng nghiệp như thông tin
hướng nghiệp thiếu tính thống nhất, khơng xác định được năng lực, sở thích của bản
thân.
Đề tài nghiên cứu 200 mẫu là học sinh của 2 trường THPT Nam Hà và THPT
Nguyễn Hữu Cảnh. Trong đó Trường Nam Hà nghiên cứu: khối 10 với 33 mẫu, khối
11 là 33 mẫu, khối 12 là 34 mẫu. Trường Nguyễn Hữu Cảnh nghiên cứu: khối 10 có
33 mẫu, khối 11 là 33 mẫu, khối 12 là 34 mẫu. Đề tài sử dụng các phương pháp thu
thập thơng tin sau: phương pháp tư liệu sẵn có, phương pháp điều tra bảng hỏi,
phương pháp lấy ý kiến chuyên gia, phương pháp thống kê toán học.
Trong đề tài tác giả sử dụng tam giác hướng nghiệp của Platonop để làm rõ mối
quan hệ giữa thị trường lao động – các yêu cầu của nghề - cá nhân và những đặc điểm
cá nhân. Với mối quan hệ này thì địi hỏi công tác tự hướng nghiệp phải được đặt lên
hàng đầu. Đề tài chỉ mới dừng lại ở việc tìm hiểu nhận thức của học sinh về tầm quan
trọng của tự hướng nghiệp mà khơng đi sâu vào phân tích những khó khăn của học
sinh khi tự hướng nghiệp hay các yếu tố tác động đến việc tự hướng nghiệp, cách thức
tự hướng nghiệp như thế nào cho đạt hiệu quả.
2.4. Đề tài: “Xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh PTTH ở huyện Hóc
Mơn-TP.Hồ Chí Minh”. Nhóm sinh viên khoa Giáo Dục học – Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh ,tháng 4 -2004.
Qua việc tìm hiểu về xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh PTTH ở huyện
Hóc Mơn- TP. Hồ Chí Minh, bài nghiên cứu đã tập trung phân tích xu hướng chọn


8


nghề trong năm 2004 ở các em và các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến xu hướng lựa
chọn ngành nghề trong các em học sinh PTTH.
Việc lựa chọn nghề của các em học sinh PTTH bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như:
Các nhóm ngành nghề trong xã hội rõ ràng có sự chi phối bởi đặc điểm về giới
tính. Nam đa phần tập trung vào nhóm ngành khoa học kỹ thuật hay khoa học tự
nhiên, còn nữ chủ yếu lựa chọn nhóm ngành về khoa học xã hội.
Bởi lẽ, có sự khác biệt trong việc lựa chọn như vậy là do các em bị ảnh hưởng từ
hai yếu tố chính, đó là yếu tố xã hội và yếu tố bên trong.
Yếu tố xã hội: ngồi thành tích học tập, việc chọn nghề còn phụ thuộc vào các mối
quan hệ xã hội như ông bà, cha mẹ, thầy cô, bè bạn. Sự tin tưởng chủ yếu tập trung
vào những người thân yêu, đáng tin tưởng là ông bà, cha mẹ, thầy cơ mà khơng có sự
khác biệt giữa giới tính và trình độ học vấn.
Yếu tố bên trong: xu hướng chọn hai nghề để vào đời tỏ ra phổ biến vì những biến
động bất thường trong xã hội. Song sự nhận thức từ lớp 10 đến lớp 12 có thay đổi đã
dẫn tới những nhận thức khác nhau. Nhìn chung đến lớp 12 thì đa số cũng khơng đồng
ý việc chọn lấy một nghề để rồi sống chết với nghề đó.
Bên cạnh đó, do yếu tố tâm sinh lý mà vị thế các ngành nghề trong xã hội cũng bị
tác động, làm ảnh hưởng đến xu hướng lựa chọn ngành nghề ở học sinh PTTH.
Các yếu tố như đô thị hố, cơng nghiệp hố đã có những tác động làm thay đổi
nhận thức của học sinh PTTH ở TP.Hồ Chí Minh nói chung và Hóc Mơn nói riêng,
dẫn đến việc lựa chọn ngành nghề cũng thay đổi. Các nghề ngoại giao, sản xuất kinh
doanh thuộc lĩnh vực xã hội dường như chiếm ưu thế hơn cả, tuy vậy thì nghề truyền
thống như dạy học vẫn được quan tâm.
Cuộc nghiên cứu còn cho thấy rằng các em học sinh PTTH tuy đang còn ngồi
trong ghế nhà trường mà các em đã có những suy nghĩ rất chín chắn, ln mơ ước khi
vào đời điều cần phải có là thi vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên
nghiệp. Đa số các em muốn tiếp tục con đường học tập sau khi đã rời trường PTTH và
bất đắc dĩ lắm các em mới chịu dừng lại để học nghề, làm thợ.
Đề tài này tập trung nghiên cứu tại ba trường: PTTH Nguyễn Hữu Cầu, PTTH Lý
Thường Kiệt và trường PTTH Bà Điểm. Khảo sát trong cả ba khối 10-11-12 ở ba



9

trường với tổng số mẫu điều tra là 300 học sinh. Phương pháp thu thập thông tin ở đây
là bảng hỏi (gồm 20 câu hỏi bao gồm câu hỏi đóng, câu hỏi mở với thang đo định tính
và định lượng). Ngồi ra thì đề tài cịn kết hợp sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu
và dùng tư liệu sẵn có với mục đích thu thập được thơng tin mang tính khách quan,
cũng như độ tin cậy cao hơn.
Kết quả của đề tài nghiên cứu này đã giúp cho chúng ta có một cái nhìn về xu
hướng lựa chọn ngành nghề của các em học sinh PTTH tại ba trường ở Hóc MơnTPHCM năm 2004 và những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề.
Tuy nhiên, đề tài chưa làm nổi bật được các yếu tố đó đã gây những khó khăn như thế
nào đến việc định hướng, lựa chọn nghề nghiệp mà các em học sinh thường gặp phải.
2.5. Bài viết “Quản lí giáo dục hướng nghiệp trung học phổ thơng cần những giải
pháp mới để góp phần phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” của ThS. Hồ Văn Thống, đăng trên Tạp chí Giáo Dục số 240 (kì 2 – 6/2010).
Bài viết nêu lên một số điểm hạn chế trong việc triển khai chương trình giáo dục
hướng nghiệp như việc phân phối hoạt động giáo dục hướng nghiệp cịn q ít và
thường nằm ở ngồi giờ lên lớp hay cơng tác giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ
thơng cịn yếu, chưa có cán bộ, giáo viên chuyên trách, nội dung hướng nghiệp cịn rất
nghèo nàn ở các trường…
Thơng qua những điểm bất cập tác giả muốn đưa ra các giải pháp căn cơ, quyết liệt
trong giai đoạn mới: Một là: tăng cường trách nhiệm quản lý giáo dục hướng nghiệp
bằng cách xây dựng kế hoạch hướng nghiệp cụ thể, cử giáo viên tham gia các lớp tập
huấn về công tác hướng nghiệp, xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện
công tác giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường một cách đồng bộ; Hai là xây dựng
đội ngũ giáo viên, những người làm công tác giáo dục hướng nghiệp: đó là các giáo
viên dạy bộ mơn kỹ thuật công nghiệp và kỹ thuật nông nghiệp, hợp đồng với giáo
viên các trường trung cấp chuyên nghiệp về dạy nghề, xây dựng đội ngũ cộng tác viên
là cha mẹ, cựu học sinh đã và đang đi học…; Ba là cải tiến nội dung và hình thức giáo

dục hướng nghiệp: nội dung phải xuất phát từ nhu cầu thực tế khách quan, phối hợp
đoàn thanh niên lồng ghép nội dung hướng nghiệp vào các hoạt động ngoại khóa, tổ
chức các chuyến tham quan các cơ sở sản xuất, nhà máy, xí nghiệp…; Bốn là tăng


10

cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác giáo dục hướng nghiệp;
Năm là tổ chức thực hiện dạy nghề phổ thông cho học sinh THPT; Sáu là phân luồng
học sinh sau tốt nghiệp phổ thông để giúp học sinh hiểu rõ về khả năng của bản thân
và điều kiện gia đình, giúp cho học sinh hiểu các hướng đi sau khi tốt nghiệp.
Bài viết nêu ra những giải pháp rất cụ thể trong đó đề cao vai trị của nhà trường vì
nhà trường sẽ là nơi hướng dẫn và chuẩn bị cho học sinh những kỹ năng, tâm lý, tư
tưởng. Các giải pháp đã trình bày nếu được áp dụng một cách chặt chẽ và có hiệu quả
trong q trình quản lý giáo dục hướng nghiệp THPT sẽ tạo tiền đề để góp phần đáp
ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
2.6. Bài viết “Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đến xu hướng lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh 12”, Trần Đình Chiến , trường Đại học Hùng Vương –Phú Thọ,
Tạp chí giáo dục, số 200 (kì 2-10/2008).
Bằng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn trực tiếp trên 600 học sinh
lớp 12 năm 2007-2008 tại tỉnh Phú Thọ (4/2008). Trong đề tài, tác giả đưa ra nhận
định nền kinh tế thị trường là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng nhất đến xu
hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh 12. Qua kết quả nghiên cứu của đề tài, tác
giả đã thu được những kết quả sau:
Về xu hướng chọn trường và cấp học: học sinh 12 có nguyện vọng thi vào các
trường ĐH,CĐ là rất cao. Các em xem đó là con đường duy nhất để lập nghiệp, để
khẳng định mình trong xã hội ngày nay. Qua điều tra, tác giả cũng cho thấy thực trạng
việc thi vào đại học, cao đẳng của học sinh chủ yếu mang tính “phong trào”, đa số học
sinh được hỏi cho rằng khơng tự tin hoặc khơng có khả năng thi đỗ mà chỉ thi cho

biết, thi cho vừa ý cha mẹ.
Về xu hướng những ngành nghề mà học sinh lớp 12 ưu tiên lựa chọn thì các em có
xu hướng chọn vào những ngành: tài chính, ngân hàng, kế tốn, tin học, ngoại ngữ,
điện tử viễn thông, y dược…và nghề được ưu tiên nhất là nghề dạy học.
Khi tìm hiểu những vấn đề học sinh lớp 12 quan tâm khi lựa chọn nghề nghiệp,
học sinh 12 hiện nay chọn nghề khơng cịn dồn sự quan tâm số một vào một số yếu tố
thu nhập, xin việc hay vị thế xã hội của nghề như trước đây mà các em bắt đầu quan


11

tâm đến việc thể hiện năng lực, phẩm chất cá nhân của mình trong nghề được chọn.
Các em ln có sự cân nhắc giữa chi phí cho học nghề sau này và đồng thời nghề đó
phải có khả năng tìm được việc làm.
Qua điều tra, công tác giáo dục hướng nghiệp ở các trường chủ yếu mang tính hình
thức chưa có hiệu quả. Thời gian dành cho giáo dục hướng nghiệp so với các mơn học
khác là rất ít, hình thức đơn điệu, khơ khan, lạc hậu, mang tính tự phát khơng thu hút
được học sinh. Các em chưa nhìn nhận đúng tầm quan trọng của việc chọn nghề. Gia
đình, nhà trường chưa thực sự thực hiện được vai trò của mình và bị ảnh hưởng khá
lớn của nền kinh tế thị trường.
Bài viết đã đưa ra một nguyên nhân ảnh hưởng đến xu hướng lựa chọn nghề
nghiệp đó là do sự tác động của nền kinh tế thị trường. Đó là học sinh hiện nay chỉ đặt
mục tiêu thi vào các trường ĐH, CĐ và lựa chọn các em cho là có thu nhập cao lại
“nhàn hạ”, dễ tìm việc làm. Tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị về cơng tác hướng
nghiệp trong nhà trường có kết quả như: đào tạo giáo viên hướng nghiệp và chuyên
gia tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường. Nêu lên thực trang xu hướng chọn nghề
của học sinh 12 hiện nay cịn nhiều bất cập.
2.7. Bài viết, “Tìm hiểu nhận thức của học sinh nông thôn về tầm quan trọng của
công tác hướng nghiệp đối với việc chọn nghề ”, Lê Minh Thiện, Tạp chí giáo dục, số
250 (kì 2/11/2010), trang 25.

Để tìm hiểu nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của công tác hướng nghiệp
đối với việc chọn nghề, năm 2007 và 2008, tác giả đã tiến hành khảo sát 1036 học
sinh thuộc các lớp 9, 10, 11 và 12 trên địa bàn 4 tỉnh: Nam Định, Thái Bình, Hà Tây
(nay là Hà Nội) và Bắc Giang. Kết quả thu được:
Hầu hết học sinh đều thấy được tầm quan trọng của việc chọn nghề phù hợp. Các
em đều cho rằng chọn đúng một nghề phù hợp sẽ thúc đẩy sự nỗ lực, tạo hứng thú, là
động lực cho sự phấn đấu và sự nhiệp sau này.
Các em đều hứng thú với các hoạt động như: tham quan các trường đại học, dạy
nghề, cơ sở sản xuất ở địa phương, giới thiệu tình hình phát triển kinh tế xã hội trên cả
nước và địa phương, giới thiệu ngành nghề,…nhưng các hình thức này chưa thực sự
phong phú và chưa được tổ chức thường xuyên, rất ít được thực hiện.


12

Càng lên lớp cao nhận thức về vai trò của công tác hướng nghiệp đối với việc chọn
nghề càng giảm. Tác giả đã lý giải vấn đề này, đối với học sinh trung học cơ sở ở các
vùng nông thôn thông tin về nghề nghiệp rất thiếu. Các trung tâm dạy nghề và hướng
nghiệp phần lớn nằm ở trung tâm các huyện, xa nơi các em ở. Các em cũng chưa đủ
mạnh dạn, tự tin và điều kiện cũng như hiểu biết để đến những nơi này nếu khơng có
người lớn hướng dẫn. Với học sinh trung học phổ thông, sau khi tốt nghiệp các em có
thể thi vào các trường đại học, cao đẳng, trường nghề nào đó tùy thích. Và ở trong mơi
trường này, học sinh có nhiều nguồn hỗ trợ thơng tin hơn. Do đó, tỉ lệ học sinh đánh
giá tầm quan trọng của công tác hướng nghiệp giảm dần. Thêm vào đó, thực tế ở nơng
thơn, nhiều em sau khi tốt nghiệp cấp 2, nếu gia đình khơng có điều kiện kinh tế để
học cao hơn thì các em có thể chọn cho mình học một nghề nào đó hoặc nghỉ học ở
nhà giúp gia đình.
Học lực của học sinh khác nhau cũng ảnh hưởng đến sự đánh giá về mức độ quan
trọng của công tác hướng nghiệp. Học sinh trung bình và yếu đánh giá rất cao hơn so
với học sinh giỏi và khá về vai trị của cơng tác hướng nghiệp trong việc chọn nghề

sau này. Các em không đủ tự tin để thi đậu vào các trường đại học nên việc cân nhắc
lựa chọn để thi đậu là mục đích quan trọng.
Đề tài đã thấy được nhận thức của học sinh nông thôn về tầm quan trọng của công
tác hướng nghiệp đối với việc chọn nghề. Qua đó thấy được thực trạng hướng nghiệp
ở vùng nông thôn, nhu cầu hướng nghiệp của các em học sinh vùng nông thôn.
Tuy nhiên, đề tài chưa làm rõ được những khó khăn trong việc lựa chọn nghề
nghiệp, trong việc tiếp cận thông tin của các em về tư vấn hướng nghiệp. Những kết
luận trong đề tài như nhận thức về tầm quan trọng của hướng nghiệp của học sinh có
sự khác nhau qua các năm học và học lực đi ngược lại với thực tế nên khơng thể đưa
ra kết luận chung cho học sinh nói chung mà chỉ ứng dụng trong phạm vi nghiên cứu.
Tóm lại, qua những đề tài và bài viết trên đã cho chúng ta thấy những kết quả
đáng lưu ý trong việc định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT nói chung và các
em đang học lớp 12 nói riêng như sau:
Hầu hết các em đều nhận thấy được tầm quan trọng của việc tư vấn hướng nghiệp
trong việc giúp các em định hướng được nghề nghiệp cho mình. Nhưng hoạt động tư


13

vấn hướng nghiệp ở các trường, đặc biệt vùng nông thôn chưa làm tốt công tác này.
Đa số đều mang tính hình thức, chưa được đầu tư đúng mức, nội dung sơ sài… chưa
thu hút được sự quan tâm của các em và chưa cung cấp đủ thông tin cần thiết theo như
nhu cầu tìm hiểu về ngành nghề mà các em muốn lựa chọn.
Sau khi tốt nghiệp, đa số học sinh đều muốn thi vào các trường CĐ, ĐH và dù có
rớt cũng muốn ơn thi lại. Xu hướng lựa chọn nghề là chọn những nghề có thu nhập
cao, dễ kiếm việc làm, có địa vị trong xã hội. Xu hướng này chịu sự chi phối bởi nhiều
yếu tố như điều kiện gia đình, bản thân và lớn nhất là do sự tác động của xã hội.
Cha mẹ, thầy cơ, nhà trường đóng vai trị quan trọng trong việc tư vấn hướng
nghiệp cho các em định hướng nghề nghiệp cho mình nhưng phần lớn các em đều cho
rằng chưa nhận được sự quan tâm đúng mức.

Một giải pháp cho các vấn đề này được đưa ra đó là phải có bộ phận tư vấn hướng
nghiệp chuyên trách trong nhà trường nhưng hiện nay chưa được triển khai trong tất
cả các trường, còn nhiều bất cập về nguồn nhân lực, trình độ, nội dung…
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Mối liên hệ giữa các xung đột xã hội với những khó khăn của học sinh lớp 12
trường THPT Nguyễn Trường Tộ (Xã Tân Hải- Thị xã Lagi- Bình Thuận) trong việc
định hướng nghề nghiệp.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Nhóm học sinh lớp 12 trường THPT Nguyễn Trường Tộ, Xã Tân Hải- Thị xã
Lagi- Bình Thuận.
- Nhóm nhà trường: Các thầy cơ trong trường THPT Nguyễn Trường Tộ, Xã Tân
Hải – Thị xã Lagi – Bình Thuận. Bao gồm Ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm, giáo
viên bộ mơn…
- Nhóm gia đình: Cha mẹ của học sinh lớp 12 trường THPT Nguyễn Trường Tộ,
Xã Tân Hải – Thị xã Lagi – Bình Thuận.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Trường THPT Nguyễn Trường Tộ, Xã Tân Hải- Thị xã Lagi- Bình
Thuận.


14

- Thời gian: Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2011
4. Mục tiêu nghiên cứu
4.1 Mục tiêu chung
- Nghiên cứu các xung đột xã hội về xung đột nhận thức và xung đột vai trò như
là nguyên nhân của những khó khăn mà học sinh lớp 12 gặp phải trong việc định
hướng nghề nghiệp của mình.
- Đưa ra một số suy nghĩ mang tính khuyến nghị.

4.2 Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu hoạt động hướng nghiệp cho học sinh 12 trường THPT Nguyễn
Trường Tộ, xã Tân Hải – Thị xã Lagi – Bình Thuận.
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa các nhóm gia đình, nhà trường, học sinh lớp 12 trong
các xung đột xã hội với nhau để thấy được những khó khăn của học sinh lớp 12 trong
việc định hướng nghề nghiệp.
- Nhu cầu của học sinh lớp 12 trường THPT Nguyễn Trường Tộ, xã Tân Hải –
Thị xã Lagi – Bình Thuận đối với việc giải quyết những khó khăn nếu có của mình.
5. Ý nghĩa đề tài
5.1. Ý nghĩa khoa học:
Giáo dục đóng một vai trị quan trọng trong đời sống và trong sự nghiệp phát triển
đất nước. Chính vì thế, những vấn đề liên quan đến giáo dục được quan tâm nghiên
cứu của nhiều ngành như: giáo dục học, tâm lý học, văn hóa học...trong đó có xã hội
học.
Đề tài đã sử dụng hai lý thuyết là lý thuyết xã hội hóa và lý thuyết xung đột xã hội
vào nghiên cứu những khó khăn trong việc định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp
12.
Đặc biêt là lý thuyết xung đột xã hội để thấy các mâu thuẫn, xung đột xã hội đã
tác động gây những khó khăn trong việc định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12.
Nghiên cứu này có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến chuyên
ngành xã hội học trong việc áp dụng lý thuyết xung đột vào giải quyết các vấn đề xã
hội.


15

5.2 Ý nghĩa thực tiễn:
Việc định hướng nghề nghiệp cho học sinh 12 là một vấn đề nghiên cứu có ý
nghĩa trong xã hội, các nhà quản lý giáo dục nói chung và cho chính bản thân, gia đình
của các em nói riêng. Nghiên cứu định hướng nghề nghiệp sẽ góp phần đưa ra những

giải pháp giúp học sinh có thể lựa chọn nghề nghiệp một cách đúng đắn và đạt được
nhiều hiệu quả.
Đề tài đi sâu phân tích những khó khăn mà các em học sinh 12 gặp phải trong quá
trình định hướng nghề nghiệp của mình, do chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau.
Trên cơ sở khoa học, kết quả nghiên cứu đề tài giúp cho những ai quan tâm có thêm
chút ít thơng tin để làm cơ sở trong hoạt động thực tiễn của mình.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khuyến nghị. Phần nội dung đề tài gồm
có 3 chương:
 Chương 1: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
 Chương 2: Mô tả địa bàn và mẫu nghiên cứu
 Chương 3: Những khó khăn của học sinh trong việc định hướng nghề
nghiệp


16

PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1.1 Lý thuyết áp dụng
1.1.1 Lý thuyết xung đột xã hội:
Đối với các nhà lý thuyết xã hội học thì lý thuyết xung đột xã hội được coi như là
một khuynh hướng đặc sắc của lý thuyết xã hội học hiện đại. Các phạm trù của lý
thuyết này có khởi nguồn từ rất sớm, từ những ý tưởng ban đầu của Machiavelli ở thế
kỉ 15, Hobbes ở thế kỉ 16, rồi phát triển đến những nền tảng kinh điển của Marx ở
giữa thế kỉ 19, Marx Weber và Simmel ở trong khoảng từ cuối thế kỉ 19 sang đầu thế
kỉ 20.
Các nhà xã hội học đưa ra một cách hiểu khái quát về khái niệm “xung đột xã
hội”. Trong cuốn “Các lý thuyết xã hội học hiện đại” được dịch sang tiếng việt năm

1999 tác giả Gunter Endruweit viết “xung đột xã hội là các quan hệ và q trình xã
hội mà ở đó có thể phân biệt hai hay nhiều cá nhân hay nhóm có quyền lợi đối lập
nhau trong những cách giải quyết vấn đề nhất định”. Đồng thời G. Endruweit cũng
cho rằng nếu hiểu khái niệm xung đột q hẹp thì nó sẽ loại những quan hệ xung đột
tiềm ẩn giữa các nhóm xã hội ra khỏi phân tích thơng qua đó những điều kiện cấu trúc
quan trọng cho sự hình thành hành động xung đột rõ ràng sẽ biến mất khỏi tầm quan
sát.
“Xung đột” (conflicts), theo nghĩa chung nhất của từ này, được hiểu như quan hệ
khơng tương thích giữa các yếu tố trong một hệ thống, dẫn đến sự vận hành trục trặc
hoặc sự sụp đổ của hệ thống. Xung đột cũng có nghĩa là mâu thuẫn giữa các bên, các ý
kiến hay các thế lực. Xung đột không phải là khái niệm phản ánh bản chất của sự kiện
mà chỉ thâu tóm “vẻ bề ngồi”, tức là quan hệ “khơng tương hợp” của các chủ thể khi
cùng tham dự vào một hệ thống xác định. Cơ sở của mọi xung đột xã hội đều bắt
nguồn từ sự khác biệt và không dung hợp về lợi ích, nhu cầu, vai trị, giá trị,…giữa
các chủ thể có mặt trong tương tác.


17

Vậy, xung đột xã hội là sự đối đầu công khai, là mâu thuẫn giữa hai hoặc nhiều
hơn nữa chủ thể và người tham gia vào tương tác xã hội mà nguyên nhân là sự bất
đồng về nhu cầu, lợi ích, giá trị (5).
Nguồn gốc của mọi sự xung đột khác nhau, tùy theo sự khác nhau của bản thân
những cuộc xung đột xã hội. Nhưng mọi cuộc xung đột đều được giải thích bởi sự
kiện là những hành động xã hội và những mục đích mà chúng tìm kiếm tất yếu sẽ gặp
nhau, đúng như là tự do của mỗi người gặp gỡ tự do của người khác. Việc gặp gỡ này
là một sự hạn chế lẫn nhau, nếu nó được sự thừa nhận và chấp nhận ngay tức khắc, thì
tình hình xung đột khơng nảy sinh. Trong trường hợp ngược lại, sự xung đột là không
thể tránh khỏi.
Trên thực tế, xung đột được biểu thị qua ba mức độ khác nhau của phản ứng đó

là: bày tỏ thái độ phản đối bằng ngôn ngữ, thể hiện sự phản đối bằng hành động phi
bạo lực và chủ động trấn áp bằng cách sử dụng bạo lực (vũ trang).
Các chức năng tích cực của xung đột ở chỗ nó bộc lộ ra chỗ đứng, lợi ích và mục
tiêu của người tham gia, nhờ thế góp phần giải quyết cân bằng mọi vấn đề nảy sinh.
Tuy nhiên, xung đột còn chứa đựng các chức năng tiêu cực như dẫn đến tình trạng lộn
xộn và mất ổn định, không thể đảm bảo sự bình yên và trật tự. Hậu quả của xung đột
là những tổn thất về vật chất và tinh thần. Tiêu cực có thể bao gồm phần lớn những
xung đột phát sinh do con người thiếu phù hợp với nhau về tâm lý- xã hội, ngồi ra
cịn phải kể đến những xung đột gây khó khăn cho việc đưa ra quyết định cần thiết.
Uliam Samnher (1840-1910) là người theo chủ nghĩa Darwin về xã hội nổi tiếng ở
nước Mỹ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Samnher trước hết nghiên cứu hệ thống
các quy tắc hành vi điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nội bộ nhóm và giữa các
nhóm xã hội với nhau. Mối liên hệ của sự xung đột trong một nhóm xã hội với sự
xung đột giữa các nhóm xã hội mà Samnher rút ra có ý nghĩa to lớn đối với việc
nghiên cứu về xung đột xã hội. Trong đề tài nghiên cứu, vận dụng lý thuyết xung đột
để giải thích, thấy được nguyên nhân gây ra khó khăn trong việc định hướng nghề

(5) Vũ Quang Hà, Giáo trình lí thuyết xã hội học hiện đại, nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh, 2010, trang 72-76.


18

nghiệp của học sinh 12 qua các xung đột xã hội về nhận thức, vai trị, nhu cầu của các
nhóm xã hội.
Xung đột về nhận thức ở đây được xem xét từ phía học sinh. Cụ thể, trong bản
thân học sinh có thể có sự xung đột xảy ra giữa một bên là việc học sinh nhận thức rõ
về năng lực học tập của chính mình với một bên là sở thích từ các em. Ngồi ra, sự
nhận thức về trách nhiệm là một người con trong gia đình thì xung đột cịn được nhìn
nhận trên góc độ giữa năng lực, sở thích tự bản thân đối với sự kỳ vọng, mong đợi từ

gia đình.
Mặt khác, chúng ta cịn tìm hiểu xung đột về vai trò, đối với học sinh khi một lúc
đóng vai trị là một người con phải nghe lời ba mẹ, làm tròn bổn phận của người con,
nhưng cũng là một người học sinh ln có những ước mơ, sở thích riêng cho chính
mình. Đồng thời, đối với gia đình hoặc nhà trường thì chính những nơi này cũng có
thể xảy ra xung đột, khi đóng vai trò vừa là nơi cung cấp về điều kiện vật chất, tinh
thần, kiến thức, nhưng cũng là nơi định hướng tương lai cho học sinh.
1.1.2 Lý thuyết xã hội hóa
Xã hội hóa là q trình mà trong đó cá nhân học cách thức hành động tương ứng
vai trị của mình để thực hiện tốt các mơ hình hành vi tương ứng với hệ thống vai trị
mà cá nhân phải đóng trong cuộc đời mình. Xã hội hóa cũng có thể hiểu là quá trình
tương tác giữa người này với người khác, kết quả là một sự chấp nhận những khuôn
mẫu hành động và sự thích nghi với những khn mẫu (6).
Q trình xã hội hóa của một cá nhân diễn ra trong ba mơi trường chính: mơi
trường xã hội hóa trong gia đình, trong nhà trường và trong xã hội. Mỗi mơi trường
đóng một vai trị khác nhau trong giai đoạn phát triển của con người. Lứa tuổi học
sinh sẽ chịu sự ảnh hưởng nhiều từ môi trường nhà trường. Nhà trường ở đây không
chỉ là nơi cung cấp kiến thức cho các em mà cịn có vai trị định hướng tương lai cho
học sinh để các em chuẩn bị bước ra, tiếp xúc nhiều hơn với môi trường xã hội.
Trong đề tài nghiên cứu của mình, nhóm nghiên cứu áp dụng cách tiếp cận lý
thuyết xã hội hóa để làm rõ những khó khăn, áp lực của học sinh lớp 12 từ phía 3 mơi
(6) Phạm Thủy Ba dịch, “Nhập môn xã hội học”, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội năm 1993.


19

trường: gia đình, nhà trường và xã hội đối với việc định hướng nghề nghiệp trong
tương lai.
1.2 Các khái niệm
 Định hướng nghề nghiệp

Định hướng là việc hoạch định trước một phương pháp, mục tiêu để thực hiện
nếu khơng có gì thay đổi. Sự định hướng này đã có sự cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ra
quyết định. Mục đích cuối cùng của sự định hướng có đạt được hay khơng cịn phụ
thuộc vào điều kiện khách quan (7).
Định hướng nghề nghiệp: là các hoạt động nhằm hỗ trợ mọi cá nhân chọn lựa và
phát triển chuyên môn nghề nghiệp phù hợp nhất với khả năng của cá nhân, đồng thời
thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các lĩnh vực nghề nghiệp (thị trường lao động) ở
cấp độ địa phương và quốc gia (8).
- Hỗ trợ: là sự giúp đỡ, trợ giúp từ các cơ quan, các tổ chức chuyên ngành (cả về
vật chất và tinh thần) đối với từng cá nhân để họ có thể đạt được mục đích theo những
yêu cầu được đề ra.
- Phát triển chuyên môn: là sự phát huy những kiến thức nghiệp vụ, cũng như
kinh nghiệm về ngành nghề mà chúng ta đã học tập, trau dồi được từ gia đình, nhà
trường, xã hội. Trên cơ sở đó, chúng ta áp dụng vào công việc thực tế, vận dụng
những kĩ năng, kiến thức này một cách tối ưu để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
 Khó khăn
Là những vướng mắc, những chướng ngại thường gặp ở mỗi cá nhân, con người,
qua đó có thể cản trở chúng ta duy trì và phát triển cuộc sống của mình trong xã hội.
Khó khăn trong việc định hướng nghề nghiệp bao gồm những khó khăn (9).
1. Giới hạn của năng lực bản thân: tri thức là vơ tận, năng lực con người thì
hạn chế. Mỗi người có một năng lực riêng nên việc lựa chọn một ngành nghề phải
phù hợp với năng lực của mỗi người.

(7) Forum.huongnghiep.vn
(8) www.huongnghiepviet.vn
(9) www.huongnghiepviet.vn


20


2. Thiếu thông tin về ngành-nghề, thị trường lao động ở trong nước cũng như
từng địa phương: là thiếu sự hiểu biết đầy đủ về bản chất thực tế của ngành-nghề
đó, những yêu cầu về kĩ năng cần có…; những thông tin về nhu cầu sử dụng nhân
lực của các tỉnh, thành phố như: nhu cầu sử dụng nhân lực các loại cho các vùng
kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu chế xuất và cho các loại doanh nghiệp và
liên doanh của các thành phần kinh tế khác, hay nhu cầu về nguồn nhân lực cần có
ở địa phương.
3. Thiếu điều kiện tài chính để theo học: là những yêu cầu, cũng như đòi hỏi
cần thiết về mặt của cải, vật chất nhằm phục vụ cho mục đích học tập, đào tạo
ngành nghề. Như việc nhiều người đã chọn được nghề phù hợp nhưng thiếu điều
kiện tài chính theo học như khơng đủ tiền đóng học phí, khơng có điều kiện để trọ
học. Nhiều gia đình có con thi đỗ vào trường đại học nhưng đành phải cho con ở
nhà vì thu nhập của gia đình khơng đủ sức cung ứng cho việc học của con em,
trong hoàn cảnh ấy, nhiều em vừa học đại học, vừa lao động.
4. Áp lực từ sự kì vọng của gia đình: đó là những rào cản, trở ngại xuất phát
từ chính những người thân, gia đình các em trong việc lựa chọn ngành nghề của
mình. Họ can thiệp vào việc chọn nghề của các em thường do động cơ muốn con
em mình chọn những nghề mà theo chủ quan của họ thì đó là lĩnh vực hoạt động
mang lại lợi ích thiết thực mà khơng quan tâm xem nó có phù hợp với năng lực, sở
thích của các em hay khơng.
5. Sự phát triển ngày càng cao và đa dạng của xã hội, xã hội ln biến đổi, sự
phát triển nhanh chóng của nền tri thức, tuy có nhiều cơng việc, ngành nghề mới
xuất hiện, nhiều nhu cầu mới về khả năng và kỹ năng của người lao động nhưng
năng lực của các em có giới hạn nên chưa thể đáp ứng hết được đòi hỏi ngày càng
cao của xã hội.
 Khái niệm vai trị, xung đột vai trị
Có nhiều khái niệm khác nhau về vai trò: khái niệm vai trò của mỗi cá nhân như
là một vai diễn, là một hoặc nhiều chức năng mà cá nhân ấy phải đảm trước xã hội.
Theo Robertsons thì vai trị là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, quyền lợi và nghĩa
vụ được gắn liền với một vị thế xã hội nhất định. Hay, vai trị là mơ hình hành vi được



21

xác lập một cách khách quan căn cứ vào đòi hỏi của xã hội đối với từng vị thế nhất
định để thực hiện quyền và nghĩa vụ tương ứng đối với các vị thế đó (10).
Khái niệm vai trị được hiểu gắn liền với một loạt các khái niệm khác: quy chế,
chức năng, nghĩa vụ, quyền…Có thể coi vai trị như tập hợp những ứng xử của mỗi
các nhân mà người khác mong đợi. Người ta phân biệt vai trò được đóng với vai trị
được định đóng. Vai trị được đóng biểu hiện thành một ứng xử, một hoạt động với
bên ngồi (như: cha mẹ chăm sóc con cái, bác sĩ chữa bệnh,…). Cịn vai trị định đóng
chủ yếu nhấn mạnh tới khía cạnh bên trong của mọi ứng xử, moi hoạt động (như tán
thành quan điểm của một người khác. Vai trị khơng phải là một cái gì đó có sẵn, nó là
kết quả của một q trình luyện tập của cá nhân, có ý thức hoặc khơng có ý thức. Nó
gắn liền với q trình xã hội hóa của cá nhân (11).
Vai trò xã hội: đây là một phạm trù dùng để diễn đạt sự tương tác xã hội, sự thực
hiện chức năng của mỗi cá nhân trong tập đoàn hay của cá nhân và tập đoàn trong
toàn bộ xã hội. Theo quan điểm của xã hội học thì “vai trị xã hội là khái niệm dùng để
chỉ toàn bộ những nghĩa vụ và quyền lợi gắn liền với một vị trí xã hội nào đó” (12).
Vai trị xã hội của một cá nhân trong xã hội cũng nhận được những quyền lợi xã hội
tương ứng với việc thực hiện vai trị của họ. Mỗi cá nhân có vơ vàn vai trị, bao nhiêu
mối quan hệ xã hội thì có bấy nhiêu vai trị xã hội. Vị thế và vai trò của mỗi cá nhân
trong xã hội bắt nguồn từ vị trí kinh tế, chính trị xã hội của họ, từ địa vị của các cá
nhân thuộc các giai cấp và các nhóm xã hội khác quy định nên. Mỗi cá nhân có nhiều
vị thế và vai trị khác nhau ở gia đình ngồi xã hội và tùy theo vai trị của mình mà cá
nhân sẽ có những ứng xử, hành vi, tác phong, hành động tương ứng với vai trò cá
nhân đảm trách.
Xung đột vai trò: trong một xã hội mỗi cá nhân có rất nhiều vị trí, vị thế khác
nhau. Ở mỗi vị trí cá nhân lại có các quyền và nghĩa vụ kèm theo gọi là địa vị xã hội
hay vị thế xã hội. Ở mỗi vị thế cá nhân lại có nhiều vai trị khác nhau, cá nhân càng có

(10) . Phạm Tất Dong- Lê Ngọc Hùng, xã hội học đại cương, NXB Đại học quốc gia Hà

Nội
(11) . Chung Á-Nguyễn Đình Tấn: chủ biên nghiên cứu xã hội học, NXB chính trị quốc
gia năm 1997
(12) . TS Trần Thị Kim Xuyến (chủ biên), “Nhập môn Xã hội học”. NXB Đại học Quốc
gia TP. Hồ Chí Minh. 2005, trang 166.


22

nhiều vị thế trong xã hội thì lại càng có nhiều vai trị. Vì thế nếu như mỗi cá nhân
khơng thực hiện tốt được các vai trị của mình thì sẽ xảy ra xung đột vai trò. Xung đột
vai trò xảy ra khi cá nhân thấy vai trị khơng thích hợp và họ thấy khó khăn trong việc
thực hiện vai trị đó, nhất là những vai trị được nhiều người mong đợi, kỳ vọng quá
nhiều. Xung đột vai trò ở đây được xét trong tự bản thân người học sinh đối với vai
trị là một người con trong gia đình, và đó cịn là vai trị của gia đình cũng như nhà
trường với vị trí là những người hướng dẫn, định hướng ngành nghề cho các em học
sinh.


Khái niệm nhận thức, xung đột nhận thức

Nhận thức là hành động (quá trình) con người tìm hiểu thế giới tự nhiên. Trong
quá trình này, con người lý giải vạn vật theo từng giai đoạn nhận thức của mình. Từ
đó, tìm ra quy luật vận động và phát triển, thay đổi và tiến hóa, bản chất và hình thức,
hình thành và tiêu vong của thế giới vật chất và tinh thần (13).
Theo triết học Mac-Lenin, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: nhận thức
là q trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào
trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn.

Cịn theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam”: nhận thức là quá trình biện chứng của
sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và
khơng ngừng tiến đến gần khách thể. Q trình nhận thức diễn ra khơng giản đơn, thụ
động, máy móc mà là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người một
cách năng động, sáng tạo, biện chứng.
Mỗi người luôn chịu sự tác động không giống nhau của từng thế giới khách quan
khác nhau thì sẽ có những nhận thức khác nhau. Nhận thức là quá trình con người ta
được tiếp thu và định hình sẵn trong óc khi sống trong từng hoàn cảnh, trong từng
nhóm người và ở trong từng vai trò khác nhau. Khi nhận thức dưới tác động của nhiều
yếu tố thì sẽ có những quan điểm, những tư duy, những tưởng tượng rất khác nhau.
Chính sự khác nhau đó có thể là ngun nhân dẫn đến sự xung đột.
Xung đột nhận thức là một dạng của xung đột mà ở đó có sự khác biệt, không
tương đồng trong suy nghĩ, trong ý thức của con người. Xung đột nhận thức là dạng
(13) Trích Mic.edu.vn


×