TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
----------
BÀI THẢO LUẬN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỒN KẾT QUỐC TẾ VÀ SỰ VẬN
DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn: Ngơ Thị Minh Nguyệt
Nhóm thực hiện:
Mã lớp HP:
Hà Nội – 2023
1
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................6
NỘI DUNG...........................................................................7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT..............................................7
1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
..........................................................................................7
1.1.1. Cơ sở thực tiễn..........................................................................7
1.1.1.1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX..............7
1.1.1.2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỷ XX..................9
1.1.2. Cơ sở lý luận............................................................................10
1.1.2.1. Giá trị truyền thống dân tộc.................................................10
1.1.2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại..................................................11
1.1.2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin..........................................................12
1.1.3. Nhân tố chủ quan....................................................................13
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế...................16
1.2.1. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế.........................................16
1.2.2. Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức...................19
1.2.3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế..................................................22
1.2.3.1. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích; có lý, có
tình....................................................................................................22
1.2.3.2. Đồn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ...................................25
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỒN KẾT
QUỐC TẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY..............................26
2.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế...................................26
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong
giai đoạn hiện nay.............................................................27
2.2.1. Sự cần thiết của đoàn kết quốc tế..........................................27
2.2.2. Lực lượng đoàn kết và hình thức tổ chức................................33
2.2.2.1. Lực lượng đồn kết quốc tế..................................................34
2.2.2.2. Hình thức tổ chức đồn kết quốc tế.....................................34
2.2.3. Ngun tắc đoàn kết quốc tế..................................................38
KẾT LUẬN..........................................................................46
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................47
3
4
LỜI MỞ ĐẦU
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu lịch sử đấu tranh
dựng nước, giữ nước của dân tộc và thực tiễn đấu tranh cách mạng của
Đảng để tổng kết thành một phương châm sâu sắc: “Đoàn kết, đồn
kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”. Tư tưởng
đồn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong cả tư duy lý
luận và hoạt động thực tiễn; không chỉ trong nội bộ Đảng, trong bộ
máy chính quyền, trong phạm vi một dân tộc, mà cịn được thể hiện
trên bình diện rộng lớn hơn, đó là đồn kết quốc tế. Gần 60 năm hoạt
động cách mạng, trong đó 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Người liên
tục tham gia phong trào cách mạng và đóng góp cho sự nghiệp chung
của cách mạng thế giới, thơng điệp về tình hữu nghị, đồn kết quốc tế
ln được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện một cách rõ ràng và vững
chắc. Tư tưởng đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tài
sản vơ giá của dân tộc Việt Nam và nhân loại. Thực hiện tốt đồn kết
quốc tế là góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng thế giới,
xây dựng hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế
1.1.1. Cơ sở thực tiễn
1.1.1.1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế
giới có nhiều biến động.
Trong nước, chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất phục
trước cuộc xâm lược của tư bản Pháp, lần lượt ký kết các hiệp ước đầu
hàng, thừa nhận nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam
Cho đến cuối thế kỷ XX các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu
hiệu “cần vương” làm các sĩ phu, văn thân lãnh đạo cuối cùng đã thất
bại. Hệ tư tưởng phong kiến tỏ ra lỗi thời trước nhiệm vụ lịch sử.
Từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX, các phong trào đấu tranh yêu
nước chống thực dân Pháp xâm lược liên tục nổ ra. Ở miền Nam, có
các cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực. Ở miền
Trung, có các cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng Như Mai, Phan Đình
Phùng. Ở miền Bắc, có các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật,
Phạm Bành và Đinh Cơng Tráng, Nguyễn Quang Bích, Hồng Hoa
Thám, … Các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới ngọn cờ “Cần Vương” do sĩ
phu, văn thân lãnh đạo cuối cùng đều thất bại. Điều đó chứng tỏ tư
tưởng phong kiến tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
6
Các cuộc khai thác thuộc địa các thực dân Pháp tạo, cho xã hội
nước ta có sự biến chuyển và phân hóa, giai cấp cơng nhân, tầng lớp
tiểu tư sản và tư sản bắt đầu xuất hiện, tạo ra những tiến trình bên
trong cho phong trào u nước giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ
XX.
Thực dân Pháp vẫn duy trì nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu với
khoảng 95% dân số là nông dân; giai cấp địa chủ được bổ sung, củng
cố, tăng cường thêm các điển chủ người Pháp và người nước ngoài.
Bên cạnh tầng lớp thị thủ công, tiểu thương, trong xã hội Việt Nam
xuất hiện những giai tầng mới, đó là giai cấp cơng nhân, giai cấp tư
sản và tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị. Từ đó, bên cạnh mâu thuẫn cơ
bản trong xã hội phong kiến là mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với
địa chủ phong kiến, xuất hiện các mâu thuẫn mới: Mâu thuẫn giữa giai
cấp công nhân Việt Nam với giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa toàn thể
nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp.
Cùng với những biến đổi trên, đến đầu thế kỷ XX, trước ảnh hưởng
của các cuộc vận động cải cách, của cách mạng dân chủ tư sản ở
Trung Quốc và tấm gương Duy tân của Nhật Bản, ở Việt Nam xuất hiện
các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với sự dẫn
dắt của các sĩ phu yêu nước có tinh thần cải cách như: Phong trào
Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng (1905 - 1909); Phong trào Duy
Tân do Phan Châu Trinh phát động (1906 – 1908); Phong trào Đông
Kinh nghĩa thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền và một số nhân sĩ
khác khác động (từ tháng 3 đến tháng 11/1997), Phong trào chống đa
nhu, chống sưu thuế ở Trung Kỳ năm 1968.
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản nói
trên đều thất bại. Nguyên nhân sâu xa là các cấp tư sản Việt Nam còn
non yếu. Nguyên nhân trực tiếp là các tổ chức và người lãnh đạo của
các phong trào chưa có đường lối và phương pháp cách mạng đúng
đắn. Tinh thần yêu nước vẫn sục sơi trong lịng nhân dân. Khủng hoảng
7
về đường lối cứu nước diễn ra sâu sắc. Xuất hiện từ thực tiễn đặt ra câu
hỏi : “Cứu nước bằng con đường nào để có thể đi đến thắng lợi ?”
Trong bối cảnh đó, sự ra đầu của giai cấp công nhân và phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam là làm cho cuộc đấu tranh
giải phóng đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện dấu hiệu mới của một thời đại
mới sắp ra đời
Cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam đã có cơng nhân, nhưng lúc đó mới chỉ
là một lực lượng ít ỏi, khơng ổn định. Đầu thế kỷ XX, công nhân phát
triển hơn và trở thành một giai cấp ngay trước Chiến tranh thế giới thứ
nhất (1914-1918).
Công nhân Việt Nam chịu ba tầng áp bức bóc lột: thực dân, tư bản,
phong kiến. Họ sớm vùng dậy chống lại giới chủ. Từ hình thức đấu
tranh thô sơ như đốt lán trại, bỏ trốn tập thể, họ đã nhanh chóng tiến
tới đình cơng, bãi cơng.
“Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất,
ln ln gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân". Phong trào
công nhân và các phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX tạo
điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa Mác - Lênin xâm nhập, truyền bá vào
đất nước ta. Hồ Chí Minh là một người đã dày công truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam, chuẩn bị về lý luận chính trị, tư tưởng và tổ chức, sáng lập Đảng
Cộng sản Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng
Việt Nam, đánh dấu bước hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
cách mạng Việt Nam. Sau đó, chính thực tiễn Đảng lãnh đạo Cách
mạng Tháng Tám thành công, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp thắng lợi lãnh đạo đất nước vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội,
vừa kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là nhân tố góp phần bổ sung,
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trên tất cả các phương diện.
1.1.1.2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỷ XX
8
Vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới
đã phát triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa. Một số nước đế quốc Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Đức, Nga,
Nhật Bản, Bỉ, … đã chi phối tồn bộ tình hình thế giới. Phần lớn các
nước Châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa và
phục thuộc của các nước đế quốc.
Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lịng
chủ nghĩa tư bản, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô
sản ở các nước tư bản; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau;
mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế
quốc. Sang đầu thế kỷ XX, những mâu thuẫn này ngày càng phát triển
gay gắt. Giành độc lập cho các dân tộc thuộc địa khơng chỉ là địi hỏi
của riêng họ, mà cịn là mong muốn chung của giai cấp vơ sản quốc tế;
tình hình đó đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới
phát triển.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công là thắng lợi đầu
tiên của chủ nghĩa Mác - Lênin ở một nước lớn, rộng một phần sáu thế
giới. Cách mạng Tháng Mười Nga đã đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp
địa chủ phong kiến, lập nên một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài
người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới, mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị
áp bức trên thế giới.
Ngày 2/3/1919, Quốc tế Cộng sản ra đời ở Mátxcơva trở thành Bộ
tham mưu, lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới. Dưới sự lãnh đạo
của Lênin, Quốc tế Cộng sản đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin và kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga ra khắp thế giới,
thúc đẩy sự ra đời và hoạt động ngày càng mạnh mẽ của các đảng
cộng sản ở nhiều nước.
9
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, sự ra đời của Nhà nước Xô
Viết, Quốc tế Cộng sản và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô cùng với sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản, cơng nhân và
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ
Chí Minh trên hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu và con đường cứu
nước. Phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa phương
Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương,
Đảng càng có quan hệ mật thiết với nhau hơn trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
1.1.2. Cơ sở lý luận
1.1.2.1. Giá trị truyền thống dân tộc
Ý thức quốc gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng đồng người
Việt có từ ngàn xưa. Cuộc chiến đấu với thiên nhiên, với giặc ngoại
xâm trong lịch sử ngàn năm đã hun đúc nên truyền thống tốt đẹp của
người Việt Nam: Yêu nước nồng nàn, độc lập tự chủ, kiên cường bất
khuất, đoàn kết thống nhất, nhân ái khoan dung.
Trước hết, là Chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt quá trình lịch sử của dân tộc Việt Nam. Những nội dung
chủ yếu của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã từng bước được đúc kết,
hình thành một hệ thống các nguyên lý với tư tưởng của các anh hùng
hào kiệt như: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,… chính sức
mạnh truyền thống ấy đã thúc giục người thanh niên Nguyễn Tất
Thành ra đi tìm đường cứu nước. Đó cũng là động lực chi phối mọi suy
nghĩ, hành động của Người trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước chứ
chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi theo Lênin, tin theo quốc tế
thứ III.” Truyền thống yêu nước của dân tộc được Nguyễn Tất Thành
tiếp thu từ những ngày ở quê hương và trên con đường bôn ba khắp
năm châu bốn bể. Người đã đến với những người lao động trên thế giới,
10
đến với tình hữu ái vơ sản và đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, đó là con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Thứ hai, đó là tinh thần đồn kết, tương ái của dân tộc. Truyền
thống này hình thành cùng một lúc với sự hình thành dân tộc, từ hoàn
cảnh và yêu cầu đấu tranh chống thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm.
Người Việt Nam quen gắn bó với nhau trong tình làng nghĩa xóm, tối
lửa tắt đèn có nhau. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam có
sự phân hóa về giai cấp, truyền thống này vẫn bền vững. Vì vậy, Hồ
Chí Minh đã chú ý kế thừa và phát huy sức mạnh truyền thống đoàn
kết của dân tộc để hình thành tư tưởng đồn kết quốc tế, phấn đấu vì
một thế giới hịa bình, ổn định và phát triển.Thứ ba, ngoại giao truyền
thống của Việt Nam cũng là một nhân tố quan trọng hình thành tư
tưởng đồn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Ngoại giao truyền thống Việt
Nam xem trọng việc giữ hịa khí, đoàn kết hữu nghị với các nước, phấn
đấu cho sự thái hịa, u chuộng hịa bình là bản chất của ngoại giao
Việt Nam. Trong khi lập trường nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự xâm lược của các ngoại bang. Đại Việt
luôn kiên trì đường lối hịa bình trong quan hệ ngoại giao với các nước
láng giềng. Hòa hiếu là tư tưởng cốt lõi của ngoại giao Đại Việt đúng
như nhà sử học Phan Huy Chú đã đúc kết lịch sử ngoại bang của đất
nước chúng ta: “Trong việc trị nước, hòa hiếu với láng giềng là việc
lớn”.
1.1.2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Tinh hoa văn hóa phương Đơng:
Xuất thân từ một gia đình nho giáo, Hồ Chí Minh hiểu thấu văn
hóa phương Đông. Người đã chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng
nhân trị, đức trị trong Nho giáo để quản lý xã hội. Kế thừa và phát triển
quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng một xã hội lý tưởng trong đó
cơng bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được coi trọng để có
thể đi đến một thế giới đại đồng với hịa bình, khơng có chiến tranh,
11
các dân tộc có quan hệ hữu nghị và hợp tác. Tư tưởng này là nền tảng
để hình thành hệ thống những quan điểm của Hồ Chí Minh về đồn kết
quốc tế.
Tinh hoa văn hóa phương Tây:
Tư tưởng Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hoá
dân chủ và cách mạng phương Tây, đặc biệt là hai bản Tuyên ngôn của
Pháp và Mỹ. Tư tưởng tự do, bình đẳng trong Tun ngơn nhân quyền
và dân quyền của Đại cách mạng Pháp 1791 trong câu nói: "Tất cả mọi
người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Người còn tiếp thu tư
tưởng dân chủ, về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc
trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776: “Người ta sinh ra tự do và bình
đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng và quyền
lợi. Sự khác biệt xã hội chỉ có thể được thiết lập trên cơ sở lợi ích
chung” và “Mục đích của mọi tổ chức chính trị là việc bảo toàn các
nguồn lợi thiên nhiên và bảo toàn các quyền con người không thể bị
tước bỏ. Các quyền đó là tự do, tài sản, sự an tồn, và quyền được
chống lại mọi sự áp bức”.
Hồ Chí Minh đã học hỏi trong hai bản Tuyên ngôn này nội dung về
quyền bình đẳng, tự do cá nhân. Sau này Người đã phát triển nó thành
quyền sống, quyền độc lập, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc
của tất cả các dân tộc. Người hiểu được rằng, để mọi người đều được
hưởng nhân quyền, cần phải hình thành sự đồn kết quốc tế giữa các
dân tộc trên thế giới.
1.1.2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Sau nhiều năm bôn ba ở các nước, cuối năm 1917, Nguyễn Ái
Quốc trở lại nước Pháp, tham gia phong trào công nhân Pháp và gia
nhập Đảng Xã hội Pháp. Nguyễn Ái Quốc muốn nhanh chóng tìm ra con
12
đường cứu nước đúng đắn và tìm lực lượng đồn kết tin cậy. Điều quan
trọng hơn hết của Nguyễn Ái Quốc là “sự đoàn kết”, “đoàn kết với các
dân tộc thuộc địa”. Hầu hết trong các buổi mít tinh, thảo luận, Người
đều phát hiện và khéo lái những vấn đề đang thảo luận sang vấn đề
đoàn kết với các vấn đề thuộc địa. Người đã từng nói: “Trong các cuộc
bàn cãi, người ta rất ít nói đến sự đồn kết với các dân tộc thuộc địa,
nhưng đó lại là vấn đề mà tôi quan tâm hơn hết.”
Sau khi được biết Quốc tế thứ III do Lênin sáng lập có chủ trương
đoàn kết các dân tộc thuộc địa và nhất là được đọc “Bản sơ thảo lần
thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, lần đầu
tiên Nguyễn Ái Quốc biết có một tổ chức quốc tế ủng hộ sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc bị áp bức. Luận cương của Lênin đã giải quyết
trọn vẹn một vấn đề rất cơ bản mà Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm
là vấn đề dân tộc và thuộc địa đặt ra trong mối quan hệ quốc tế, chỉ ra
con đường giải phóng các dân tộc thuộc địa. Luận cương tạo ra một
bước chuyển biến căn bản trong nhận thức tư tưởng về vấn đề đồng
minh về xác định kẻ thù. Luận cương là lời giải đáp hợp lí nhất, đúng
đắn nhất mà Nguyễn Ái Quốc tìm thấy được về con đường cứu nước,
con đường giải phóng dân tộc, đó là “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc khơng cịn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản, gắn
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa Mác – Lênin”.
Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua (tháng
12/1920),Nguyễn Ái Quốc bỏ qua phiếu tán thành Đảng gia nhập Quốc
tế III, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Bằng việc làm đó,Nguyễn Ái Quốc đã nêu cao ngọn cờ đoàn kết quốc
tế. Từ đoàn kết các dân tộc thuộc địa, mở thành đồn kết với giai cấp
vơ sản chính quốc và giai cấp vô sản thế giới. Nguyễn Ái Quốc viết
những bản tham luận, phát biểu trong các kỳ sinh hoạt đảng và các
cuộc họp của các tổ chức xã hội khác, tham gia lãnh đạo Ban Nghiên
cứu về thuộc địa, ra báo Người cùng khổ… Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ
tội ác của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, tranh thủ sự ủng hộ của dư
13
luận tiến bộ Pháp và thế giới, hình thành mặt trận đồn kết quốc tế đối
với sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức. Những việc làm đó đã
đánh dấu một bước chuyển biến quyết định trong nhận thức tư tưởng
và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ đây, Người đã tiếp thu
sâu sắc và sáng tạo những khẩu hiệu chiến lược của Mác – Lênin, “Vơ
sản tồn thế giới, đồn kết lại”, “Vơ sản tồn thế giới và các dân tộc bị
áp bức, đoàn kết lại”. Người đã gọi Lênin là hiện thân của tình anh em
bốn bể. Người nhấn mạnh: “Lao động tất cả các nước đồn kết lại” và
Người khẳng định, chính Lênin và Quốc tế Cộng sản đã chỉ ra cho dân
tộc và giai cấp vô sản thế giới sự cần thiết và con đường tập hợp đoàn
kết các lực lượng cách mạng trong phạm vi từng nước và thế giới vào
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Hồ Chí
Minh tiếp thu và đi theo chủ nghĩa Mác – Lênin trên tinh thần độc lập,
tự chủ, sáng tạo, trên cơ sở đó Người xây dựng và phát triển tư tưởng
đồn kết quốc tế của mình.
Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin là một nhân tố quan trọng có ý
nghĩa định hình rõ rệt tư tưởng đồn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Trải
qua gần 10 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã từ một nhà
yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, trở thành một chiến sĩ quốc tế
chân chính.
1.1.3. Nhân tố chủ quan
Phẩm chất Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh có lý tưởng cao cả và hồi bão lớn cứu dân, cứu nước
thốt khỏi cảnh lầm than, cơ cực để theo kịp các nước tiên tiến trên thế
giới. Mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ của
thời đại và sự nhận thức đúng đắn về thời đại đã tạo điều kiện để Hồ
Chí Minh hoạt động có hiệu quả cho dân tộc và nhân loại.
Có được điều đó là nhờ vào nhân cách, phẩm chất và tài năng trí
tuệ siêu việt của Hồ Chí Minh. Phẩm chất tài năng đó được biểu hiện
14
trước hết ở tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán
tinh tường, sáng suốt trong việc nhận xét, đánh giá các sự vật, sự việc
chung quanh. Phẩm chất, tài năng đó cũng được biểu hiện ở bản lĩnh
kiên định, luôn tin vào nhân dân khiêm tốn binh đi, ham học hỏi, nhạy
bén với cái mỏi có phương pháp biện chứng cọ đầu óc thực tiễn. Người
có ý chí, nghị lực to lớn, một mình dám đi ra nước ngoài khảo sát thực
tế các nước đế quốc giàu có cũng như các dân tộc thuộc địa nghèo
nàn, lạc hậu, mà chỉ với hai bàn tay trắng. Qua những chuyến đi và
những cuộc khảo nghiệm, chủ nghĩa yêu nước ở Người có những biến
chuyển mới. Sự đồng cảm với đồng bào mình đã được nâng lên thành
sự đồng cảm với nhân dân lao động, với các dân tộc cùng cảnh ngộ bị
áp bức như dân tộc mình. Người đã đưa ra kết luận quan trọng: "Dù
màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: Giống người
bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là
thật mà thơi: tình hữu ái vơ sản". Kết luận trên vô cùng quan trọng, là
khởi đầu của tư tưởng đồn kết quốc tế Hồ Chí Minh - đồn kết với
những người lao khổ, cần lao trên thế giới.
Người đã làm nhiều nghề khác nhau để kiếm sống, biết rất nhiều
ngoại ngữ, tự học hỏi và hoạt động cách mạng. Kết hợp học ở nhà
trường, học trong sách vở, học trong thực tế hoạt động cách mạng, học
ở nhân dân khắp những nơi Người đã đến, và đã có vốn học thức văn
hố sâu rộng Đơng Tây kim cổ để vận dụng vào hoạt động cách mạng.
Cũng từ quá trình 10 năm trải nghiệm thực tiễn ở nhiều nước,
Nguyễn Ái Quốc cũng rút ra kết luận rằng: “Nguyên nhân đầu tiên đã
gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đơng, đó là sự biệt lập... họ
thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn
nhau”. Vì vậy, Người chỉ ra sự cần thiết của việc xây dựng khối đoàn
kết chiến đấu giữa các dân tộc bị đọa đày, đau khổ. Người kêu gọi
nhân dân các nước thuộc địa Pháp rằng: "Chúng tôi yêu cầu các bạn
giúp đỡ chúng tôi trong nhiệm vụ đó, vì các bạn và chúng tơi, chúng ta
15
cùng chung một lợi ích… Mối quan hệ giữa chúng tơi với các bạn sẽ là
những mối quan hệ đồn kết và liên minh".
Đặc biệt, Hồ Chí Minh cịn là người có bản lĩnh tư duy độc lập, tự
chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng; đã vận dụng
đúng quy luật chung của xã hội loài người, của cách mạng thế giới vào
hoàn cảnh riêng, cụ thể của Việt Nam, đề xuất tư tưởng, đường lối cách
mạng mới đáp ứng đúng địi hỏi thực tiễn; có năng lực tổ chức. biến tư
tưởng, đường lối thành hiện thực.
Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại, đã
đưa cách mạng Việt Nam vào dịng chảy chung của cách mạng thế
giới. Hồ Chí Minh là người có năng lực tổng kết thực tiễn, năng lực dự
báo tương lai chính xác để dẫn dắt tồn Đảng, toàn quân, toàn dân ta
đi tới bến bờ thắng lợi vinh quang.
Hồ Chí Minh là người suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân;
là người suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam và của cách mạng thế giới. Những phẩm chất cá nhân đó
là một nhân tố quyết định những thành cơng của Hồ Chí Minh trong
hoạt động lý luận và thực tiễn cho dân tộc Việt Nam và nhân loại.
Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận
Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong
phú, phi thường. Trước khi trở thành Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã
sống, học tập và hoạt động cách mạng ở gần 80 nước trên thế giới.
Những năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế giới để
học tập, nghiên cứu, Hồ Chí Minh đã không ngừng quan sát, nhận xét
thực tiễn, làm phong phú thêm sự hiểu biết của mình, đồng thời hình
thành những cơ sở trọng để tạo dựng nên những thành công trong lĩnh
vực hoạt động lý luận của Người về sau. Người hiểu sâu sắc chủ nghĩa
đế quốc, chủ nghĩa thực dân và chế độ thực dân không chỉ qua tìm
hiểu tài liệu, sách, báo, radio mà cịn hiểu biết sâu sắc về chúng qua
16
cuộc sống và hoạt động thực tiễn tại các cường quốc đế quốc. Người
đặc biệt xác định rõ bản chất, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, thực
dân thấu hiểu tình cảnh người dân ở nhiều nước thuộc hệ thống thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh.
Các nhà yêu nước tiền bối và cùng thời với Hồ Chí Minh tuy củng
đã có những quan sát, nhưng họ chưa nhận thấy, hoặc nhận thức chưa
đúng về sự thay đổi của dân tộc và thời đại. Trong quá tình tìm đường
cứu nước, Hồ Chí Minh khám phá các quy luật vận động xã hội đời sống
văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để
khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và
được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Nhờ vào con đường nhận thức chân
lý như vậy mà lý luận của Hồ Chí Minh mang giá trị khách quan, cách
mạng và khoa học.
Người thấu hiểu về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng
chủ nghĩa xã hội, về xây dựng Đảng Cộng sản, … không chỉ qua nghiên
cứu lý luận mà còn qua việc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp,
qua hoạt động ở Trung Quốc, qua tham gia phong trào cộng sản quốc
tế ở nhiều nước, qua nghiên cứu đời sống xã hội ở Liên Xô - nước xã hội
chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, ...
Hồ Chí Minh là nhà tổ chức vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Người
đã hiện thực hóa tư tưởng, lý luận cách mạng thành hiện thực sinh
động; đồng thời tổng kết thực tiễn cách mạng, bổ sung, phát triển lý
luận, tư tưởng cách mạng. Cùng với việc tìm thấy mục tiêu, phương
hướng cách mạng Việt Nam ở chủ nghĩa Mác - Lênin, Người tham gia
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp; chuẩn bị về nhiều mặt cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam - tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam theo
chủ nghĩa Mác - Lênin. Người sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất
sáng lập Quân đội nhân dân Việt Nam; khai sinh Nhà nước kiểu mới ở
Việt Nam. Những phẩm chất cá nhân cũng những hoạt động thực tiễn
17
phong phú trên nhiều lĩnh vực khác nhau ở trong nước và trên thế giới
là nhân tố chủ quan hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế
1.2.1. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế
a) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách
mạng
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đồn kết quốc tế để tập hợp lực
lượng bên ngồi, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè
quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách
mạng thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp cho các mạng Việt
Nam. Đây là một trong những nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết quốc tế và cũng là một trong những bài học quan
trọng nhất, mang tính thời sự sâu sắc nhất của cách mạng Việt Nam.
Là một nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh ln có niềm tin
bất diệt vào sức mạnh dân tộc. Ngay trong những năm tháng đen tối
nhất của cách mạng, Người vẫn bộc lộ một niềm lạc quan tin tưởng rất
mạnh mẽ và sâu sắc về sức mạnh của dân tộc.
Sức mạnh dân tộc là sự tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần,
song trước nhất là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực,
tự cường của dân tộc, sức mạnh của tinh thần đồn kết, ý chí đấu
tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập. từ do... Sức mạnh đó đã giúp
cho dân tộc Việt Nam vượt qua một thử thách, khó khăn trong dựng
nước và giữ nước.
Sức mạnh thời đại là sức mạnh phong trào cách mạng thế giới, đó
cịn là sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin được xác lập bởi thắng lợi
của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Trong quá trình hoạt động
cách mạng, nhờ chú ý tăng kết thực tiền dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác
18
- Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước phát hiện ra sức mạnh vĩ đại tiềm ẩn
của các phong trào cách mạng thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ.
Các phong trào đó nếu được liên kết, tập hợp trong một khỏi đoàn kết
quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to lớn.
Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng thế giới ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước.
Người cho rằng, cách mạng Việt Nam chỉ có thể thành cơng khi thực
hiện đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Thực hiện
đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết
dân tộc là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Cùng với quá
trình phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với
quốc tế, tư tưởng đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới đã được
Hồ Chí Minh phát triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng và cụ thể hơn.
Như vậy, đoàn kết dân tộc gắn với đoàn kết quốc tế để kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho
cách mạng chiến thắng kẻ thù. Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong
những yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đồn
kết quốc tế cũng là một nhân tố thường xuyên và hết sức quan trọng
giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
b) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân
dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của
thời đại
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng chủ nghĩa yêu nước chân chính phải
được gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải
gắn liền với đoàn kết quốc tế; thực hiện đồn kết quốc tế khơng vì
thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà cịn vì sự nghiệp chung của
nhân loại tiến bộ trong công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc
và các thể lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời
19
đại. Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại
chấm dứt thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ
quốc tế ngày càng sâu rộng cho các dân tộc, làm cho vận mệnh của
mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người.
Ngay sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh
đã hoạt động khơng mệt mỏi để phá thế đơn độc của cách mạng Việt
Nam, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Trong suốt q
trình đó, Người không chỉ phát huy triệt để sức mạnh chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần dân tộc trong đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân
tộc mình mà cịn kiên trì đấu tranh khơng mệt mỏi để củng cố và tăng
cường đoàn kết giữa các lực lượng cách mạng thế giới đấu tranh cho
mục tiêu chung, hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Người cho rằng, Đảng phải lấy toàn bộ thực tiễn của mình chứng
minh: Chủ nghĩa u nước triệt để khơng thể nào tách rời chủ nghĩa
quốc tế vô sản trong sáng.Trong Báo các chính trị tại Đại hội II (tháng
2-1951). Người chỉ rõ: "Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với
tinh thần "vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của
tinh thần quốc tế". Sau này, trong tác phẩm Thưởng thức chính trị
(1954). Người nói rõ hơn: "Tinh thần yêu nước là kiên quyết giữ gìn
quyền độc lập, tự do và đất đai tồn vẹn của nước mình. Tinh thần
quốc tế là đồn kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác đề giữ
gìn hịa bình thế giới, chống chính sách xâm lược và chính sách chiến
tranh của đế quốc, giữ gìn hịa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của
nước ta... Đó là lập trường quốc tế cách mạng".
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đồn kết quốc tế trong cuộc
đấu tranh vì mục tiêu chung, các đảng cộng sản trên thế giới vì kiên trì
chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị
kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô vanh... những khuynh hướng làm suy yếu sức
mạnh đoàn kết, thống nhất các lực lượng cách mạng thế giới. Nói cách
khác, các đảng cộng sản trên thế giới phải tiến hành có hiệu quả việc
20