Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 100 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
TÓM TẮT LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
THEO NGÀNH
3
1.1. Tổng quan về cơ cấu lao động theo ngành 3
1.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành 8
1.3. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở các địa
phương vùng đồng bằng Sông Hồng
26
1.4. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu lao động của Trung Quốc và Hàn Quốc 29
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO
NGÀNH TẠI TỈNH BẮC NINH TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2006
36
2.1. Các yếu tố kinh tế và xã hội có liên quan đến quá trình chuyển dịch cơ
cấu lao động theo ngành của tỉnh Bắc Ninh
36
2.2. Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành từ 1997-2006 43
CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO
ĐỘNG THEO NGÀNH TẠI TỈNH BẮC NINH ĐẾN NĂM 2020
6
8
3.1. Những căn cứ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành đến năm 2020 6
8
3.2. Định hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành đến năm 2020 75
3.3. Giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành đến năm 2020 75


KẾT LUẬN
8
7
TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TĂT
CCLĐ : Cơ cấu lao động
KCN : Khu công nghiệp
CCN : Cụm công nghiệp
SS : So sánh
NN : Nông nghiệp
LN : Lâm nghiệp
TS : Thuỷ sản
CN : Công nghiệp
XD : Xây dựng
DV : Dịch vụ
NSLĐ : Năng suất lao động
CNKT : Công nhân kỹ thuật
PP : Phân phối
Nxb : Nhà xuất bản
DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu 1.1 Mối quan hệ giữa GDP/người và cơ cấu lao động theo ngành
1
8
Biểu 1.2 CCLĐ theo ngành của vùng đồng bằng sông Hồng
2
8
Biểu 1.3 Số lượng lao động được thu hút vào lĩnh vực phi nông nghiệp ở
nông thôn Trung Quốc
3

0
Biểu 2.1 Tốc độ tăng tổng sản phẩm và đóng góp của các ngành vào tăng
trưởng trong tỉnh 10 năm từ 1997 – 2006
4
0
Biểu 2.2 Quy mô và cơ cấu lao động các ngành trong nền kinh tế 44
Biểu 2.3 Tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu lao động qua các năm 47
Biểu 2.4 Cơ cấu ngành và cơ cấu lao động theo ngành 1997 - 2006 49
Biểu 2.5 Hệ số co giãn của lao động theo GDP 1998 – 2006 51
Biểu 2.6 Cơ cấu lao động ngành nông nghiệp từ 1997 – 2006 53
Biểu 2.7 Cơ cấu lao động ngành công nghiệp 1997 – 2006 55
Biểu 2.8 Cơ cấu lao động ngành dịch vụ 1997 – 2006 57
Biểu 3.1 Dự báo dân số và lao động đến năm 2020 74
Biểu 3.2 Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành đến năm 2020 77
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1 Biến động quy mô lao động của nền kinh tế từ 1997 – 2006 43
Hình 2.2 Động thái lao động các ngành từ 1997 – 2006 45
Hình 2.3 Tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành 1997 – 2006 47
Hình 2.4 Động thái chuyển dịch cơ cấu ngành và cơ cấu lao động
theo ngành
50
Hình 2.5 Biến động của hệ số co giãn lao động theo GDP qua các năm 51
Hình 2.6 Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp
1997 – 2006
54
Hình 2.7 Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nội bộ ngành công nghiệp
1997 – 2006
56
Hình 2.8 Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nội bộ ngành dịch vụ
1997 - 2006

59
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Mục tiêu của tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020 là tỷ trọng trong GDP của
ngành nông nghiệp là 5,6%; ngành công nghiệp là 59,8%; ngành dịch vụ là
34,6%. Nhưng theo số liệu thống kê, năm 2006 tỷ trọng trong GDP của ngành
nông nghiệp là 23,6%; ngành công nghiệp là 47,8%; ngành dịch vụ là 28,6%.
Thực tế trên đòi hỏi tỉnh Bắc Ninh phải có những bước đột phá trên nhiều lĩnh
vực đặc biệt là chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động theo ngành để đáp ứng yêu
cầu của chuyển dịch cơ cấu ngành. Tuy nhiên, năm 2006 tỷ trọng lao động
ngành nông nghiệp là 61,2 %; ngành công nghiệp là 23,6 %; ngành dịch vụ là
15,2%. Với cơ cấu lao động theo ngành còn ở trình độ thấp và lạc hậu, vấn đề
có tính cấp thiết được đặt ra là phải có giải pháp đúng đắn nhằm đẩy nhanh
tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành theo hướng hợp lý, đáp ứng
được yêu cầu mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành đến 2020.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Định
hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020 “
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận kết hợp với việc phân tích thực
trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành từ đó đánh giá quá
trình chuyển dịch, rút kết luận làm cơ sở đề ra các biện pháp có hiệu quả thúc
đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn đi sâu nghiên cứu các vấn đề cơ cấu
lao động theo ngành, chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trong mối quan
hệ với cơ cấu ngành và chuyển dịch cơ cấu ngành.
1
Phạm vi nghiên cứu: Trên cơ sở mốc thời gian tái lập tỉnh (1997) và
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh đến năm 2020, luận văn tập trung

đi sâu nghiên cứu vấn đề chuyển dịch cơ cấu theo ngành và từng nhóm ngành
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thống kê,
phương pháp dự báo, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp.
5. Những đóng góp của luận văn
Góp phần làm rõ các khái niệm về cơ cấu lao động theo ngành, chuyển
dịch cơ cấu lao động ngành; mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu lao động
theo ngành và chuyển dịch cơ cấu ngành. Đồng thời chỉ ra xu hướng chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
theo ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến năm 2006.
Chỉ ra nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh đến năm 2020.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được chia làm ba chương như sau:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu lao động
theo ngành
Chương II: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
tại tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến năm 2006
Chương III: Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động
theo ngành tại tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020
2
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO NGÀNH
1.1. TỔNG QUAN VỀ CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO NGÀNH KINH TẾ
1.1.1. Cơ cấu ngành kinh tế

1.1.1.1. Khái niệm cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là hình thức cấu tạo bên trong của nền
kinh tế, là tổng thể các quan hệ chủ yếu về số lượng và chất lượng tương đối
ổn định của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một hệ thống tái sản
xuất xã hội trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Cơ cấu của nền
kinh tế được nghiên cứu theo nhiều phương diện khác nhau, trong đó phổ biến
hơn cả là theo phương diện ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế được hiểu là sự tương quan giữa các ngành trong
tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về
số và chất lượng giữa các ngành. Các mối quan hệ này được hình thành trong
những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định, luôn vận động và hướng vào
những mục tiêu cụ thể.
Trong tổng thể nền kinh tế bao gồm nhiều ngành kinh tế khác nhau, số
lượng các ngành này không cố định. Sự phát triển của phân công lao động xã
hội sẽ làm thay đổi về mặt chất và lượng của các ngành kinh tế. Từ đầu thế kỷ
XIX, nhà Kinh tế học Collin Class căn cứ vào tính chất chuyên môn hóa của
sản xuất đã chia thành 3 nhóm ngành: Khai thác tài nguyên thiên nhiên (nông
nghiệp và khai thác khoáng sản); Công nghiệp chế biến; Sản xuất sản phẩm
vô hình. Sau này, Liên hợp quốc căn cứ vào tính chất hoạt động sản xuất đã
chuyển hoạt động khai thác khoáng sản sang ngành công nghiệp và gọi sản
xuất sản phẩm vô hình là dịch vụ. Thực ra, nguyên tắc phân ngành xuất phát
từ tính chất phân công lao động xã hội, biểu hiện cụ thể qua sự khác nhau về
3
quy trình công nghệ của các ngành trong quá trình tạo ra sản phẩm vật chất và
dịch vụ. Với nguyên tắc đó, các ngành kinh tế được phân thành 3 khu vực hay
còn gọi là 3 nhóm ngành: Khu vực I bao gồm các ngành nông- lâm – ngư
nghiệp; Khu vực II gồm các ngành công nghiệp và xây dựng; Khu vực III bao
gồm các ngành dịch vụ.
Với sự phân ngành này, cơ cấu ngành được nghiên cứu chủ yếu dưới các
góc độ sau: góc độ thu nhập (nghiên cứu cơ cấu ngành theo GDP), góc độ đầu

tư (nghiên cứu cơ cấu ngành theo lượng vốn đầu tư), góc độ lao động (nghiên
cứu cơ cấu ngành theo lao động).
Nền kinh tế được chia thành 3 nhóm ngành lớn, mỗi nhóm ngành này là
sự kết hợp của các ngành nhỏ hơn có những đặc điểm tương đối giống nhau
và các ngành này đã tạo nên cơ cấu nội bộ ngành.
Nhóm ngành nông nghiệp bao gồm các ngành: ngành sản xuất nông
nghiệp, ngành lâm nghiệp và ngành thuỷ sản
Nhóm ngành công nghiệp xây dựng bao gồm các ngành: ngành công
nghiệp khai thác, ngành công nghiệp chế biến, các ngành sản xuất – phân phối
điện nước và khí đốt, ngành xây dựng
Nhóm ngành dịch vụ bao gồm các ngành: các ngành dịch vụ kinh doanh
có tính chất thị trường, dịch vụ sự nghiệp, dịch vụ hành chính công
Tương đối giống cơ cấu ngành về mặt bản chất, cơ cấu nội bộ ngành
chính là hình thức cấu trúc bên trong của ngành, là các mối quan hệ của các
ngành nhỏ về cả số lượng và chất lượng.
Nghiên cứu cơ cấu ngành tức là nghiên cứu tổng thể cơ cấu ngành trong
mối quan hệ mật thiết với cơ cấu nội bộ từng nhóm ngành. Việc nghiên cứu
cơ cấu ngành có ý nghĩa rất quan trọng. Xét trên cả hai khía cạnh tăng trưởng
kinh tế và phát triển kinh tế thì cơ cấu ngành được xem là một trong những
yếu tố quan trọng nhất vì nó phản ánh sự phát triển của khoa học công nghệ,
4
lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội và hợp tác hóa sản xuất. Trạng
thái của cơ cấu ngành phản ánh trình độ phát triển nền kinh tế của mỗi quốc
gia, đó là tiêu chí để xác định xem nền kinh tế của quốc gia đó là nền kinh tế
nông nghiệp, công nghiệp hay hậu công nghiệp.
1.1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và những vấn đề có tính
quy luật về xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình thay đổi của cơ cấu ngành
kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù
hợp với môi trường và điều kiện phát triển. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

không chỉ là sự thay đổi về số lượng các ngành, tỷ trọng mỗi ngành mà còn là
sự thay đổi về vị trí, tính chất mỗi ngành trong mối quan hệ giữa các ngành.
Việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải dựa trên cơ sở cơ cấu hiện có và
nội dung của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu để xây dựng một cơ
cấu mới phù hợp hơn.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một quá trình diễn ra liên
tục và gắn liền với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tính chất bền vững
của tăng trưởng và phát triển kinh tế phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch linh
hoạt của cơ cấu ngành kinh tế trong những điều kiện cụ thể. Việc chuyển dịch
cơ cấu ngành gắn liền và phản ánh tính hiệu quả của việc phân bố nguồn lực.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành được coi là hợp lý, tiến bộ khi tỷ trọng
giá trị ngành công nghiệp và đặc biệt là ngành dịch vụ ngày càng tăng; tỷ
trọng giá trị ngành nông nghiệp ngày càng giảm trong tổng giá trị sản phẩm
xã hội. Trong nội bộ ngành công nghiệp, tỷ trọng các ngành công nghiệp chế
biến tăng lên, cơ cấu sản xuất thay đổi theo hướng chuyển từ ngành sản xuất
các sản phẩm sử dụng nhiều lao động sang ngành sản xuất sản phẩm chứa
hàm lượng cao về vốn và khoa học công nghệ. Trong nội bộ ngành nông
nghiệp, tỷ trọng giá trị sản lượng ngành chăn nuôi sẽ tăng lên và tỷ trọng giá
5
trị sản lượng của ngành trồng trọt giảm xuống tương ứng. Còn đối với ngành
dịch vụ, tỷ trọng giá trị các ngành dịch vụ kinh doanh có tính chất thị trường
ngày càng tăng.
Xây dựng một cơ cấu ngành kinh tế hơp lý, tiến bộ là yêu cầu khách quan
của mỗi quốc gia. Một cơ cấu ngành được coi là hợp lý khi nó đáp ứng được
một số điều kiện cơ bản sau: Các ngành kinh tế phát triển mạnh mẽ và đồng
bộ, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch
vụ tăng dần; trình độ kỹ thuật của nền kinh tế phù hợp với xu hướng phát triển
khoa học công nghệ; cho phép khai thác tối đa và hiệu quả mọi tiềm năng của
quốc gia; thực hiện phân công và hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hóa,
xây dựng cơ cấu ngành kinh tế thành một “cơ cấu mở”.

1.1.2. Cơ cấu lao động theo ngành
Là một hình thức của cơ cấu lao động do đó nghiên cứu cơ cấu lao động
là tiền đề quan trọng để nghiên cứu cơ cấu lao động theo ngành.
Cơ cấu lao động là phạm trù kinh tế xã hội, phản ánh hình thức cấu tạo
bên trong của tổng thể lao động, sự tương quan giữa các bộ phận và mối quan
hệ giữa các bộ phận đó. Đặc trưng của cơ cấu lao động là mối quan hệ tỷ lệ về
mặt số lượng và chất lượng lao động theo những tiêu chí nhất định.
Là một phạm trù kinh tế – xã hội, cơ cấu lao động có những thuộc tính cơ
bản, đó là tính khách quan, tính lịch sử và tính xã hội:
i) Tính khách quan: Cơ cấu lao động bắt nguồn từ dân số và cơ cấu kinh
tế, quá trình vận động của dân số và cơ cấu kinh tế có tính khách quan do đó
nó quy định tính khách quan của cơ cấu lao động.
ii) Tính lịch sử: Quá trình phát triển của loài người là quá trình phát triển
của các phương thức sản xuất, mỗi phương thức sản xuất có một cơ cấu kinh
tế đặc trưng, nên cơ cấu kinh tế có tính lịch sử. Được bắt nguồn từ cơ cấu
kinh tế nên cơ cấu lao động cũng có tính lịch sử.
6
iii) Cơ cấu lao động mang tính xã hội sâu sắc: Cơ cấu lao động phản ánh
sự phân công lao động xã hội. Quá trình phân công lao động xã hội thể hiện
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thể hiện quá trình phát triển của
con người. Mỗi hình thức phân công lao động sẽ tạo nên một cơ cấu lao động
mới. Xét trên phương diện sản xuất, cơ cấu lao động không những phản ánh
các giai tầng của xã hội trong nền sản xuất mà còn phản ánh các hoạt động
kinh tế của các giai tầng xã hội trong mỗi giai đoạn phát triển.
Nghiên cứu cơ cấu lao động nghĩa là nghiên cứu sự phân chia lao động
thành các nhóm, các bộ phận khác nhau dựa theo những tiêu chí cụ thể tuỳ
thuộc vào mục đích nghiên cứu.
Thông thường, cơ cấu lao động được chia làm hai loại : cơ cấu cung về
lao động (theo khả năng) và cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế
(theo cầu). Cơ cấu cung lao động là một trong các yếu tố phản ánh số lượng

và chất lượng của nguồn nhân lực, còn cơ cấu lao động đang làm việc phản
ánh sự phân bố của lao động theo các ngành, khu vực, và theo các tiêu chí
khác. Trong nền kinh tế thị trường, cơ cấu lao động theo cung cầu được hình
thành từ quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao động.
Tùy theo giác độ nghiên cứu mà người ta chia ra các loại cơ cấu lao động
khác nhau:
Xét theo không gian, hình thành cơ cấu lao động theo vùng, lãnh thổ; cơ
cấu lao động theo khu vực thành thị – nông thôn. Loại cơ cấu này dùng để
đánh giá tình trạng phân bố lao động xã hội theo không gian.
Xét theo tính chất các yếu tố tạo nguồn, hình thành cơ cấu lao động theo
độ tuổi; cơ cấu lao động theo trình độ… Loại cơ cấu này dùng để đánh giá
thực trạng về tình hợp lý trong sử dụng lao động.
Xét theo các ngành kinh tế, hình thành cơ cấu lao động theo ngành, đây
là cơ cấu lao động đang làm việc trên các vùng, lãnh thổ được chia theo
7
ngành hay nhóm ngành kinh tế. Loại cơ cấu này dùng để đánh giá thực trạng
phân bố, chuyển dịch lao động giữa các ngành kinh tế quốc dân.
Xét theo từng ngành kinh tế, hình thành cơ cấu lao động theo nội bộ
ngành. Loại cơ cấu này dùng để đánh giá tình trạng phân bố lao động làm
việc trong nội bộ các ngành của nền kinh tế.
Ngoài ra, tùy thuộc mục đích nghiên cứu có thể chia cơ cấu lao động làm
nhiều loại khác nhau như cơ cấu lao động theo giới tính, theo nghề nghiệp …
Luận văn đi sâu nghiên cứu một góc độ của cơ cấu lao động, đó là cơ cấu
lao động theo ngành kinh tế.
Nghiên cứu cơ cấu lao động theo ngành tức là nghiên cứu về cấu trúc bên
trong, sự tương quan, mối quan hệ về lao động giữa 3 nhóm ngành hay từng
nhóm ngành, sự phù hợp và xu hướng chuyển dịch của nó trong mối liên hệ
với cơ cấu ngành kinh tế.
1.2. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO NGÀNH
1.2.1. Khái niệm

Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi tăng, giảm của từng bộ phận
trong tổng thể lao động theo một khoảng thời gian nào đó. Còn chuyển dịch
cơ cấu lao động theo ngành là sự thay đổi trong quan hệ tỷ lệ, cũng như xu
hướng vận động về lao động của các ngành diễn ra trong một không gian, thời
gian và theo xu hướng nhất định.
Thực chất, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là quá trình
phân bố lại lực lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế theo những xu
hướng tiến bộ nhằm mục đích sử dụng lao động có hiệu quả hơn. Quá trình
phân bố lại lực lượng lao động vừa diễn ra trên quy mô toàn bộ nền kinh tế
vừa diễn ra theo phạm vi của từng nhóm ngành. Lao động của một ngành thay
đổi chỉ khi có sự thay đổi về số lượng lao động trong nội bộ ngành đó. Chẳng
hạn, nếu lao động của nhóm ngành nông nghiệp giảm đi, thì rõ ràng việc giảm
8
này là do sự thay đổi lao động của 3 ngành nhỏ nông nghiệp, lâm nghiệp và
ngư nghiệp. Có thể trong mỗi ngành nhỏ số lao động có thể tăng lên hay giảm
xuống nhưng xét trên cả 3 ngành thì số lao động giảm đi. Như vậy, ở đây đã
có sự thay đổi về lao động của từng ngành nhỏ so với tổng số lao động của
ngành nông nghiệp, đây chính là sự thay đổi về cơ cấu lao động trong nội bộ
ngành nông nghiệp.
Có thể khẳng định rằng có mối liên hệ mật thiết giữa việc chuyển dịch cơ
cấu lao động nội bộ ngành và sự thay đổi lao động của ngành, suy rộng ra đó là
mối liên hệ giữa việc chuyển dịch cơ cấu lao động nội bộ ngành và cơ cấu lao
động theo ngành. Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
gắn liền với sự thay đổi cấu trúc lao động trong nội bộ mỗi ngành. Hơn nữa,
quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành còn làm thay đổi chất lượng
lao động trong từng ngành. Mỗi ngành đều có những đặc tính riêng, do đó đặc
điểm sử dụng lao động của các ngành khác nhau đặc biệt là trình độ của lao
động. Do vậy, quá trình chuyển dịch dẫn đến sự di chuyển về lao động và sự di
chuyển này kéo theo sự thay đổi về chất lượng lao động của từng ngành.
1.2.2. Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và

chuyển dịch cơ cấu theo ngành
1.2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là hệ quả tất yếu của
chuyển dịch cơ cấu ngành
Trong mỗi giai đoạn phát triển, vai trò của lao động đối với tăng trưởng
kinh tế được thể hiện ở những mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất càng phát triển dẫn đến
năng suất lao động ngày càng cao, do đó tính chất sử dụng lao động cũng thay
đổi. Các lý thuyết kinh tế đặc biệt là lý thuyết kinh tế hiện đại chỉ ra rằng:
Cùng với vốn, công nghệ và tài nguyên thiên nhiên thì lao động là nguồn gốc
9
của tăng trưởng kinh tế. Sự tăng trưởng này có thể được hiểu là sự tăng
trưởng toàn nền kinh tế hay của từng ngành cấu thành nên nền kinh tế.
Khi phân tích về chuyển dịch cơ cấu ngành chúng ta đã biết bản chất quá
trình chuyển dịch chính là sự thay đổi về cấu trúc của các ngành trong nền
kinh tế, tỷ trọng các ngành thay đổi, vị trí và vai trò của các ngành cũng thay
đổi. Nếu xét trên phương diện giá trị thì cấu trúc về mặt giá trị của các ngành
có sự thay đổi tức là tỷ trọng giá trị của mỗi ngành trong nền kinh tế thay đổi.
Mặt khác, khi giá trị của mỗi ngành thay đổi thì các yếu tố cấu thành nên giá
trị ngành đó cũng thay đổi, lao động là một trong các yếu tố đó. Do vậy, giá
trị một ngành thay đổi sẽ tác động đến sự thay đổi về lao động của ngành đó.
Khi có sự thay đổi về mặt giá trị của cả 3 ngành dẫn đến lao động của cả 3
ngành cũng thay đổi và đây chính là sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các
ngành. Ở một phạm vi hẹp hơn, với cách phân tích tương tự sẽ cho ta thấy sự
thay đổi về cơ cấu nội bộ ngành cũng dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu lao động
trong nội bộ ngành đó. Như vậy, quá trình thay đổi cơ cấu ngành cũng như cơ
cấu nội bộ ngành tất yếu dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các
ngành và cơ cấu lao động trong nội bộ ngành.
1.2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành phải phù hợp với
trình độ phát triển của cơ cấu ngành
Trên giác độ cơ cấu ngành kinh tế thì quá trình tăng trưởng và phát triển

kinh tế là quá trình biến đổi liên tục của cơ cấu ngành kinh tế từ cũ sang mới
và ngày càng hoàn thiện hơn. Nền kinh tế trải qua nhiều giai đoạn phát triển
từ lạc hậu đến hiện đại, từ trình độ thấp đến trình độ cao. Mỗi giai đoạn phát
triển, cơ cấu ngành có những đặc trưng riêng và gắn liền với nó là một cơ cấu
lao động phù hợp.
Theo W. Rostow, quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia được chia
thành 5 giai đoạn và ứng với mỗi giai đoạn là một dạng cơ cấu ngành kinh tế
10
đặc trưng, thể hiện bản chất phát triển của giai đoạn ấy. Mặc dù có rất nhiều
hạn chế về cơ sở của việc phân đoạn trong phát triển kinh tế nhưng việc vận
dụng mô hình của ông trong phân tích quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
theo ngành là rất cần thiết. Mô hình của W.Rostow chứng tỏ rằng: gắn liền
với việc chuyển dịch cơ cấu ngành qua các giai đoạn là quá trình chuyển dịch
cơ cấu lao động theo ngành. Tùy thuộc vào tính chất và trình độ của cơ cấu
ngành trong từng giai đoạn mà cơ cấu lao động theo ngành cũng có sự chuyển
dịch phù hợp. Ở mức độ nghiên cứu sâu hơn, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
động theo ngành vừa là quá trình di chuyển lao động từ nông nghiệp sang
công nghiệp và dịch vụ vừa là quá trình thay đổi cơ cấu lao động theo trình
độ, lực lượng lao động có trình độ tăng lên theo từng giai đoạn. Như vậy, cơ
cấu lao động theo ngành luôn chuyển dịch theo tính chất và trình độ của cơ
cấu ngành kinh tế với xu hướng ngày càng hiện đại và hoàn thiện hơn.
1.2.2.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành tạo điều kiện thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành
Lao động với vai trò là một nguồn lực của sản xuất, là yếu tố không thể
thiếu trong các hoạt động kinh tế. Sự tăng trưởng và phát triển của các ngành
kinh tế sẽ không thể có nếu không có yếu tố lao động, vì lao động là một
trong các yếu tố đầu vào có vai trò rất quan trọng trong sản xuất.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là quá trình di chuyển
lao động từ ngành này sang ngành khác. Chính sự di chuyển này đã tác động
mạnh mẽ đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành. Quá trình chuyển dịch cơ

cấu ngành nhanh hay chậm phụ thuộc vào tốc độ quá trình chuyển dịch cơ cấu
lao động. Nếu tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động nhanh sẽ thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu ngành nhanh hơn và ngược lại.
Luận điểm trên có thể được giải thích như sau: Cùng với sự phát triển của
khoa học công nghệ và việc tăng lượng vốn đầu tư vào ngành công nghiệp và
11
dịch vụ. Khi đó cầu lao động trong nông nghiệp sẽ giảm do có áp dụng tiến
bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, cầu lao động trong hai
ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Một vấn đề đặt ra là: Nếu quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra nhanh chóng, tức là khi có sự di chuyển
nhanh về lao động từ ngành nông nghiệp hoặc một bộ phận lao động khác
trong lực lượng lao động sang ngành công nghiệp và dịch vụ thì cầu về lao
động của ngành công nghiệp và dịch vụ được đáp ứng, kết quả là quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra nhanh. Ngược lại, nếu cầu về lao động của
ngành công nghiệp và dịch vụ không được đáp ứng thì quá trình chuyển dịch
cơ cấu ngành sẽ chậm lại.
Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành vừa là hệ quả của quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành vừa là yếu tố thúc đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế.
1.2.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
1.2.3.1. Cơ sở lý thuyết
- Quy luật tăng năng suất lao động của A. Fisher: Theo A. Fisher, xu thế
phát triển khoa học công nghệ, ngành nông nghiệp dễ có khả năng thay thế
lao động nhất, việc tăng cường sử dụng máy móc thiết bị và các phương tiện
canh tác mới tạo điều kiện cho nông dân nâng cao được năng suất lao động.
Kết quả là để đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cần thiết cho xã hội
không cần đến một lượng lao động như cũ, vì vậy tỷ lệ lao động nông nghiệp
có xu hướng giảm dần. Ngành công nghiệp là ngành khó có khả năng thay thế
lao động do đặc tính của ngành này là sử dụng kỹ thuật công nghệ phức tạp.
Do đó, cùng với quá trình phát triển tỷ trọng lao động của ngành này có xu

hướng tăng lên. Ngành dịch vụ là ngành khó có khả năng thay thế lao động
nhất do đặc điểm kinh tế kỹ thuật của việc tạo ra sản phẩm dịch vụ, rào cản
cho sự thay thế công nghệ và kỹ thuật rất cao. Trong khi đó, trong một nền
12
kinh tế trình độ cao thì tốc độ tăng của cầu tiêu dùng lớn hơn tốc độ tăng thu
nhập. Vì vậy, tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ sẽ có xu hướng tăng và
tăng càng nhanh khi nền kinh tế càng phát triển.
- Mô hình di cư của Todaro: Bắt đầu từ giả định rằng di cư chủ yếu là
hiện tượng kinh tế. Todaro cho rằng quá trình di cư bắt nguồn từ chênh lệch
trong thu nhập dự kiến có được hơn là thu nhập thực tế giữa nông thôn và
thành thị. Người di cư xem xét những cơ hội khác nhau trong thị trường lao
động giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị và lựa chọn để làm tăng
lợi ích mà họ có thể có được từ việc di cư. Những lợi ích này được xác định
bởi: sự chênh lệch trong mức thu nhập thực tế giữa công việc ở nông thôn và
thành thị; khả năng có thể kiếm được việc làm ở thành thị của người di cư.
Học thuyết của Todaro mô tả vấn đề di cư từ nông thôn ra thành thị như
một cơ chế điều chỉnh mà qua đó quyết định đến việc phân bổ trên các thị
trường lao động nông thôn và thành thị, đặc biệt là sự di chuyển lao động từ
khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp từ đó tác động đến quy
mô lao động của các ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Mặc dù học thuyết của Todaro có những phân tích thiếu tính thực tế khi
áp dụng với các nước Thế giới thứ 3. Tuy nhiên, học thuyết đã đưa ra cơ sở lý
luận khi nghiên cứu một số vấn đề cơ bản liên quan đến lao động trong đó có
vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
1.2.3.2. Xu hướng chuyển dịch
Dựa trên những nghiên cứu của các nhà kinh tế học về chuyển dịch cơ
cấu lao động và phân tích mối quan hệ giữa cơ cấu ngành và cơ cấu lao động
theo ngành, tính tất yếu và xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành chúng ta có
thể rút ra kết luận sau:
Thứ nhất, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành là tất yếu do đó quá trình

chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành cũng mang tính tất yếu.
13
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu theo ngành theo những xu hướng nhất định,
do vậy nó quy định xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Cụ thể
là: Tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm
trong khi đó tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ có xu hướng
ngày càng tăng, đặc biệt là tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ có xu hướng
tăng và tăng càng nhanh khi nền kinh tế càng phát triển. Trong nội bộ ngành
công nghiệp, tỷ trọng lao động các ngành công nghiệp chế biến tăng lên, cơ
cấu lao động thay đổi theo hướng chuyển từ ngành sản xuất các sản phẩm sử
dụng nhiều lao động sang ngành sản xuất sản phẩm chứa hàm lượng cao về
vốn và khoa học công nghệ. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, tỷ trọng lao
động ngành chăn nuôi sẽ tăng lên và tỷ trọng giá trị sản lượng của ngành
trồng trọt giảm xuống tương ứng. Còn đối với ngành dịch vụ, tỷ trọng lao
động các ngành dịch vụ kinh doanh có tính chất thị trường ngày càng tăng.
Theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế phát triển, quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành thường trải qua ba thời kỳ:
Thời kỳ đầu: Thời kỳ phát triển nông nghiệp, lao động ngành nông
nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất, sau đó đến lao động trong ngành công nghiệp
và cuối cùng là dịch vụ.
Thời kỳ thứ hai: Khi sản xuất công nghiệp đã phát triển thì lao động trong
ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất, tiếp đến là lao động trong ngành
nông nghiệp còn lao động trong ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng thấp nhất.
Thời kỳ thứ ba: Đây là thời kỳ hậu công nghiệp, khi các ngành kinh tế
công nghiệp và nông nghiệp đã đạt năng suất lao động cao thì lao động
chuyển dịch nhanh sang ngành dịch vụ. Nguồn nhân lực ở ngành dịch vụ
chiếm tỷ trọng lớn nhất, sau đó đến ngành công nghiệp và cuối cùng là ngành
nông nghiệp. Các nước phát triển đã trải qua ba thời kỳ này và hiện nay đang
ở giai đoạn thứ ba với xu hướng chuyển sang nền kinh tế tri thức. Hiện nay,
14

lao động nông nghiệp ở các nước phát triển chỉ còn chiếm tỷ trọng dưới 5%
lực lượng lao động, lao động trong công nghiệp dưới 30% và lao động dịch
vụ tăng trên 70%.
Như vậy, tính tất yếu và xu hướng quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
theo ngành không chỉ được khẳng định trên phương diện lý thuyết mà còn
được chứng minh bằng thực tiễn quá trình phát triển của một số cường quốc
kinh tế.
1.2.4. Các tiêu chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
1.2.4.1. Động thái thay đổi tỷ trọng lao động các ngành trong nền kinh tế
Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động được thể hiện thông qua việc biến
đổi về tỷ trọng lao động của ngành này so với ngành khác và so với quy mô
lao động của nền kinh tế theo thời gian. Khi đó, xu hướng và tốc độ biến đổi
tỷ trọng lao động của các ngành là căn cứ quan trọng nhất để đánh giá quá
trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là hợp lý hay không hợp lý.
Nếu tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp giảm ngày càng nhanh còn tỷ
trọng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ tăng ngày càng mạnh, đặc
biệt là ngành dịch vụ thì có thể nói quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
theo ngành diễn ra hợp lý và tiến bộ. Tuy nhiên, việc đánh giá này chỉ mang
tính tương đối, vì nó phụ thuộc vào các giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Ở
mỗi giai đoạn khác nhau mặc dù xu hướng chuyển dịch là giống nhau nhưng
tốc độ chuyển dịch của các ngành khác nhau, nó phụ thuộc vào đặc điểm và
trình độ phát triển của nền kinh tế.
1.2.4.2. Tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
Sử dụng phương pháp Vector để lượng hóa và phân tích quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành, bằng cách tính hệ số Cos φ:
15

=

=


=
n
i
n
i
n
i
1
)i(tS
1
)i(tS
1
)).Si(tSi(t
1
2
0
2
10
S
i
(t): tỷ trọng ngành i tại thời điểm t
φ: Là góc hợp bởi hai vector cơ cấu S(t
0
) và S(t
1
). Khi đó Cosφ càng lớn
bao nhiêu thì các cơ cấu càng gần nhau bấy nhiêu và ngược lại. Khi Cosφ = 1
thì góc giữa hai vector này bằng 0 điều đó có nghĩa là hai cơ cấu đồng nhất.
Khi Cosφ = 0 thì góc giữa hai vector này bằng 90

0
và các vector cơ cấu là trực
giao với nhau. Như vậy: 0 ≤ φ ≤ 90
0
Để đánh giá một cách trực giác sự chuyển dịch có thể so sánh góc φ với
giới hạn tối đa của sự sai lệch giữa hai vector. Do đó, để phản ánh tỷ lệ
chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ta dùng tỷ số φ/90
0
.
Chỉ số này chỉ phản ánh sự biến đổi nói chung của cơ cấu lao động theo
ngành, tức là nó không chỉ ra được sự biến đổi cụ thể của từng ngành. Chỉ số
này càng lớn chứng tỏ quá trình chuyển dịch diễn ra càng mạnh và ngược lại.
Chúng ta có thể dùng chỉ số này kết hợp với việc phân tích xu hướng trên cơ
sở số liệu cụ thể để đánh giá tính hợp lý và tốc độ của quá trình chuyển dịch
cơ cấu lao động theo ngành.
1.2.4.3. Tương quan giữa chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và
chuyển dịch cơ cấu ngành
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành gắn liền với quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế. Do vậy, khi nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu lao
động theo ngành phải đặt trong mối quan hệ mật thiết với quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành. Để có đánh giá tổng thể và toàn diện về chuyển dịch cơ
cấu ngành cần phải thấy được sự tương quan và mối quan hệ giữa hai quá
16
Cos φ
=
trình chuyển dịch. Liệu so với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thì
chuyển dịch cơ cấu lao động đã phù hợp chưa, xu hướng biến đổi tỷ trọng lao
động và tỷ trọng giá trị của các ngành có tương thích hay không, tốc độ
chuyển dịch là nhanh hay chậm, việc chuyển dịch đã đạt được hiệu quả tối ưu
về kinh tế xã hội, đã đảm bảo sử dụng hợp lý và phát huy tối đa tiềm năng của

các nguồn lực hay chưa.
Bằng cách tính hệ số co giãn của lao động theo GDP (e) ta có thể phân
tích mối quan hệ giữa thay đổi GDP với thay đổi lao động trong nền kinh tế.
e =
l
g
Trong đó:
- e: hệ số co giãn của lao động theo GDP
- l: tốc độ tăng trưởng lao động
- g: tốc độ tăng trưởng kinh tế
Phương pháp này có ý nghĩa trong việc xác định mối quan hệ giữa tốc độ
tăng trưởng lao động và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nó cho biết khi GDP thay
đổi 1% thì l phải thay đổi bao nhiêu %. Nếu e > 0 thì g và l thay đổi cùng
chiều, nếu e < 0 thì g và l thay đổi ngược chiều. Nếu e càng nhỏ chứng tỏ để
đạt được 1% tăng trưởng thì nền kinh tế sử dụng càng ít lao động và ngược
lại. Có hai yếu tố cơ bản dẫn đến hiện tượng nền kinh tế sử dụng lao động ít
hơn (hệ số co giãn của lao động theo GDP nhỏ): Một là, sự phát triển của
khoa học công nghệ dẫn đến việc giảm quy mô lao động của các ngành kinh
tế; Hai là, có sự phân bố nguồn lực hợp lý, lao động đã có sự di chuyển từ
ngành sử dụng nhiều lao động sang ngành sử dụng ít lao động. Cả hai yếu tố
trên đều tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
Những phân tích trên đã chứng tỏ: hệ số co giãn của lao động theo GDP
là một yếu tố quan trọng phản ánh tính hiệu quả trong việc sử dụng và phân
17
bố nguồn lao động; có sự liên hệ chặt chẽ giữa hệ số co giãn của lao động
theo GDP và quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
1.2.4.4. Mối quan hệ giữa GDP bình quân đầu người và cơ cấu
lao động ngành
Theo nghiên cứu của các nhà kinh tế, tồn tại mối quan hệ giữa GDP bình
quân đầu người và cơ cấu lao động theo ngành tại các nước đang phát triển.

GDP bình quân đầu người càng cao thì cơ cấu lao động càng có sự thay đổi
mạnh và sự thay đổi này theo hướng giảm tỷ trọng lao động ngành nông
nghiệp và tăng tỷ trọng lao động ngành công nghiệp và dịch vụ. Có sự thích
ứng giữa mức GDP bình quân đầu người và cơ cấu lao động theo ngành, sự
thích ứng này được thể hiện qua biểu sau:
Biểu 1.1. Mối quan hệ giữa GDP/người và cơ cấu lao động theo ngành
GDP/người (USD)
CCLĐ (%)
320 960 1600 2560 3200
Nông nghiệp 66 49 39 30 25
Công nghiệp – Xây dựng 9 21 26 30 33
Dịch vụ 25 30 35 40 42
Nguồn: Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương 2002
Nghiên cứu này có vai trò quan trọng trong việc đánh giá tỉnh hợp lý của
cơ cấu lao động theo ngành tại một thời điểm xác định dựa trên tương quan
giữa mức GDP/người và hiện trạng cơ cấu lao động theo ngành
1.2.5. Các nhân tố tác động đến quá trình chuyển dịch CCLĐ theo ngành
1.2.5.1. Các nhân tố liên quan đến nhu cầu chuyển dịch CCLĐ theo
ngành
- Sự phát triển của khoa học công nghệ
Nếu thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX với đặc trưng là cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật thì từ sau Chiến tranh Thế giới thứ II đến hiện nay được đặc
18
trưng bởi cuộc cách mạng khoa học công nghệ.
Khoa học công nghệ không chỉ tạo ra các công cụ lao động mới mà cả
phương pháp sản xuất mới, do đó mở ra khả năng mới về kết quả sản xuất và
tăng năng suất lao động. Dưới tác động của khoa học công nghệ, các nguồn
lực sản xuất được mở rộng: mở rộng khả năng phát hiện, khai thác và đưa vào
sử dụng các nguồn tài nguyên; làm biến đổi chất lượng lao động; cơ cấu lao
động xã hội chuyển từ lao động giản đơn là chủ yếu sang lao động bằng máy

móc, nhờ đó tăng năng suất lao động và giảm một cách tương đối số lượng
lao động được sử dụng trong các ngành dẫn đến sự thay đổi về lao động giữa
các ngành và làm cơ cấu lao động theo ngành thay đổi.
Các công nghệ mới ra đời như sử dụng vật liệu mới, công nghệ sinh học,
công nghệ điện tử… đã làm cho nền kinh tế chuyển từ phát triển theo chiều
rộng sang phát triển theo chiều sâu, nghĩa là việc tăng trưởng kinh tế dựa trên
việc nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất. Với vai trò này, khoa học
công nghệ là nhân tố quan trọng nhất làm biến đổi nền kinh tế từ nền kinh
nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và tri thức. Điều này đồng nghĩa
với việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành từ lạc hậu đến hiện đại, từ
trình độ thấp lên trình độ cao.
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ không chỉ đẩy nhanh
tốc độ phát triển của các ngành, mà còn làm cho phân công lao động xã hội
ngày càng sâu sắc và đưa đến việc phân chia các ngành thành nhiều phân
ngành nhỏ, xuất hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế mới. Từ đó làm thay
đổi cơ cấu lao động theo ngành với xu hướng tích cực, thể hiện: tỷ trọng lao
động của ngành công nghiệp mà đặc biệt là ngành dịch vụ có xu hướng tăng
dần, trong khi đó tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm; cơ
cấu lao động trong nội bộ mỗi ngành cũng có sự biến đổi sâu sắc, tỷ trọng lao
19
động trong các ngành có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao ngày càng tăng.
Có thể nói khoa học công nghệ không những đẩy nhanh tốc độ chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành theo hướng hợp lý và hiện đại mà còn làm
thay đổi cơ cấu lao động nội bộ ngành đồng thời tác động đến việc chuyển
dịch cơ cấu lao động theo trình độ.
- Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động theo
ngành có mối liên hệ hữu cơ, chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành vừa là
đòi hỏi vừa là hệ quả của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Trong phần này
chúng ta đề cập đến yếu tố định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ tác động

như thế nào đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
Hầu hết các quốc gia đều phải nghiên cứu và đưa ra các định hướng xây
dựng và phát triển cơ cấu ngành hợp lý. Việc định hướng không những có tác
dụng trong việc xác định con đường sẽ đi mà còn tạo ra các căn cứ để quản lý,
huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả. Gắn liền với một cơ cấu
ngành là một cơ cấu lao động, cho nên việc định hướng xây dựng cơ cấu
ngành sẽ đặt ra yêu cầu về chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở thời
điểm hiện tại để phù hợp với cơ cấu ngành đã được định hướng trong tương
lai. Rõ ràng, với mỗi định hướng khác nhau sẽ làm cho cơ cấu lao động theo
ngành chuyển dịch theo những hướng khác nhau. Như vậy, việc định hướng
cơ cấu ngành đúng đắn, có tính khả thi cao thì cơ cấu lao động theo ngành
cũng có điều kiện chuyển dịch đúng hướng và phù hợp với cơ cấu ngành.
- Quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá
Đô thị hoá là một quá trình tập trung dân cư đô thị, đồng thời là quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất nông nghiệp giảm,
sản xuất phi nông nghiệp tăng. Bộ mặt đô thị ngày càng hiện đại, không
20
gian đô thị mở rộng.
Theo lý thuyết của Todaro, quá trình đô thị hoá gắn liền với quá trình di
dân từ nông thôn ra thành thị, quá trình di chuyển lao động từ khu vực nông
nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp. Việc di chuyển này trực tiếp làm giảm
tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động ngành công
nghiệp và dịch vụ dẫn đến thay đổi cơ cấu lao động theo ngành.
Quá trình đô thị hoá một mặt làm giảm diện tích đất nông nghiệp, nhu
cầu lao động nông nghiệp giảm dần. Mặt khác, do sự phát triển về cơ sở hạ
tầng, tâm lý của người lao động và việc dư thừa lao động nông nghiệp dẫn
đến xu hướng phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ, từ đó làm tỷ trọng
lao động của các ngành này không ngừng tăng lên. Có thể thấy rằng, đô thị
hoá vừa tác động trực tiếp đến số lượng và tỷ trọng lao động của các ngành
vừa gián tiếp tác động đến cơ cấu lao động theo ngành thông qua sự thay đổi

cơ cấu ngành kinh tế.
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ tạo ra năng suất lao
động xã hội cao. Quá trình công nghiệp hoá gắn liền với sự phát triển của
ngành công nghiệp đặc biệt là các ngành có hàm lượng khoa học cao. Việc
phát triển các ngành sản xuất về cả số lượng và chất lượng là một biểu hiện
của sự phát trỉển của lực lượng sản xuất, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của
nền kinh tế làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi mạnh mẽ do sự biến đổi của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế tất yếu
dẫn đến sự thay đổi của cơ cấu lao động trong nền kinh tế, trong đó có cơ cấu
21

×