Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Sáng kiến một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh để nâng cao chất lượng dạy học môn tiếng việt lớp 22 tại đơn vị đang công tác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 14 trang )

1

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH
ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY- HỌC MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 2/2
TẠI ĐƠN VỊ ĐANG CƠNG TÁC.
1. Mơ tả bản chất của sáng kiến:
1.1. Các giải pháp thực hiện, các bước và cách thức thực hiện:
1.1.1. Các giải pháp thực hiện
- Phương pháp thu nhận và tham khảo tài liệu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
- Phương pháp phân tích – tổng hợp.
- Phương pháp thực hành luyện tập.
- Trao đổi, tọa đàm với đồng nghiệp.
1.1.2 Các bước và cách thực hiện:
Một yêu cầu đặt ra cho giáo viên tiểu học trong giai đoạn hiện nay là cần sử
dụng những phương pháp năng động hơn trong dạy học nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh và bồi dưỡng hứng thú học tập cho các em. Mỗi giáo viên phải
không ngừng học hỏi, suy nghĩ để tìm ra những cách thức, những con đường thuận
lợi nhất để đạt được mục đích đó. Có thể nói, làm thế nào để vừa kích thích hứng
thú học tập của học sinh vừa thực hiện tốt mục tiêu của tiết dạy là sự trăn trở của tất
cả mọi giáo viên.
Hứng thú học tập là thái độ yêu thích đặc biệt của học sinh đối với việc học,
được thể hiện qua nhiều mức độ như: sự chú ý, tập trung, sự ham thích và cao nhất
là niềm đam mê. Ở cấp tiểu học, đa số các em đều chỉ thể hiện ở mức chú ý, tập
trung chứ rất ít học sinh đạt tới mức độ đam mê do các em chưa ý thức được những
lợi ích của việc học tập. Cho nên, đối với học sinh tiểu học, với tâm lí thích được
khen và động viên thì những lời khuyến khích của thầy cơ sẽ là động lực thúc đẩy


các em cố gắng hơn, tập trung hơn trong giờ học.
Có thể chỉ với một lời khen: “Hôm nay cô thấy con làm bài tập này rất tốt”
hoặc là: “Con đã hiểu được nội dung của bài thơ rồi đấy”. Giáo viên đã kích thích
sự hứng thú vốn tiềm ẩn trong học sinh về đối tượng mình đang học, thái độ hứng
thú đó sẽ là điểm khởi đầu cho một chuỗi những biến đổi trong nhận thức của học
sinh về lợi ích của việc học. Do đó, giáo viên tiểu học phải coi trọng việc bồi


2

dưỡng hứng thú học tập cho các em ngay từ những buổi học đầu tiên, những bài
học đầu tiên. Đây là một q trình lâu dài và địi hỏi sự khéo léo trong nghệ thuật
sư phạm.
Tổ chức các hình thức học tập phong phú, tăng cường hình thức học tập ngoài
trời với các kĩ năng thiết thực cho cuộc sống như: quan sát, trải nghiệm, thực
hành…Ví dụ như : Thay vì yêu cầu học sinh ngồi trong lớp tưởng tượng và tả lại
vườn cây của trường em thì giáo viên có thể dẫn học sinh ra thăm vườn trường và
cho các em được tự do quan sát các loại cây trong vườn, cho các em nhổ cỏ, tưới
nước cho cây… điều đó sẽ khơi dậy trong các em những cảm xúc mới mẻ và chắc
chắn bài văn của các em sẽ sinh động hơn, giàu ý tứ hơn, đồng thời sẽ giúp các em
hình thành tình yêu đối với thiên nhiên và cuộc sống.
Ngồi ra, cịn có rất nhiều biện pháp kích thích hứng thú cho các em như:
Làm cho các em thấy được lợi ích của việc học bằng cách chỉ rõ bài học được rút ra
qua từng bài tập đọc hay từng câu chuyện trong phần Nói và nghe, ví dụ như : Khi
học về câu chuyện“ Họa mi, vẹt và quạ”( sách Tiếng Việt 2, tập 1, bộ Kết nối tri
thức với cuộc sống) giáo viên có thể hỏi: “Qua câu chuyện chúng ta rút ra được baì
học gì cho cuộc sống ? ”. Bồi dưỡng hứng thú học tập là một việc làm thiết thực và
có tác động mạnh mẽ đến quá trình học tập của học sinh bởi vì “khơng thể làm tốt
việc nếu mà ta khơng có hứng thú với việc đó”.
Đối tượng giảng dạy của chúng ta chính là học sinh tiểu học cụ thể là các em

học sinh lớp 2. Đây là lứa tuổi học sinh chuyển tiếp từ giai đoạn vui chơi sang giai
đoạn học tập, khả năng tri giác của các em rất tốt, hứng thú ngày càng bộc lộ và
phát triển rõ rệt. Đặc biệt là hứng thú nhận thức, hứng thú tìm hiểu thế giới xung
quanh, các em thể hiện tính tị mị, ham hiểu biết. Tuy nhiên sự phát triển hứng thú
học tập của học sinh phụ thuộc trực tiếp vào việc tổ chức học tập cho học sinh của
giáo viên. Chính vì vậy, để tổ chức hướng dẫn thực hiện các hoạt động một cách
gây hứng thú cho học sinh, theo tôi người giáo viên cần:
Cách 1: Tạo sự hứng thú qua các hoạt động trong tiết học
* Hoạt động khởi động:
Hoạt động khởi động là hoạt động đầu giờ, giúp các em hứng thú bước vào
tiết học mới, hoặc thông qua hoạt động khởi động để ơn lại những kiến thức cũ có
liên quan đến nội dung bài học mới.
Khởi động còn được gọi là lời mở đầu, là phương thức dẫn dắt học sinh một
cách có ý thức, có mục đích đi vào tri thức mới,là khâu mở đường bắt đầu của việc
dạy học trên lớp.
Một hoạt động khởi động thú vị sẽ tác động đến hứng thú học tập của học
sinh. Nó góp phần tạo nên sự tò mò, hấp dẫn ngay từ khi bắt đầu bài học.
Hoạt động khởi động trong dạy – học môn Tiếng Việt như là khúc dạo đầu
của một bản nhạc. Nó sẽ có tác dụng chỉ huy, phát hiệu lệnh và thức dậy niềm đam
mê học hỏi, tạo tâm thế thoải mái để hướng đến các hoạt động tiếp theo.


3

Ví dụ: Khi dạy bài “Vè chim” sách giáo khoa( SGK) Tiếng Việt 2 bộ Kết nối
tri thức với cuộc sống. Ngồi việc cho học sinh quan sát và nói về các lồi chim mà
em biết như hình ở trong SGK thì giáo viên có thể cho các em xem hình ảnh thật,
hoặc video có kèm tiếng hót của các lồi chim đó. Điều này sẽ khiến cho các em
thích thú và lôi cuốn các em vào các hoạt động tiếp theo.
* Hoạt động chuyển tiếp:

Để duy trì và cải thiện sự tham gia của học sinh, để các em khơng bị chìm vào
giấc ngủ và sự nhàm chán, giáo viên cần có sự chuyển tiếp giữa các hoạt động.
Các hoạt động chuyển tiếp khá đa dạng, giáo viên có thể cho học sinh tập một
bài thể dục ngắn, nhảy một điệu nhảy theo nhạc hay đơn giản chỉ là đứng dậy, vươn
vai, đi ra ngồi,…
* Viết tóm tắt nhanh:
Khi vừa hoàn thành xong một chủ đề học tập, giáo viên có thể yêu cầu học
sinh viết tóm tắt lại những gì các em vừa học hoặc yêu cầu học sinh suy ngẫm về
những nội dung các em đã học.
Nó cũng là cơng cụ giúp giáo viên có thể kiểm tra được mức độ nhận thức
của học sinh và đưa ra phản hồi phù hợp trước khi chuyển sang một nội dung mới
của bài học. Hoạt động này cũng giúp học sinh tập trung hơn vào nội dung của bài
học tiếp theo.
* Các câu hỏi:
Giáo viên nên hình thành thói quen đặt câu hỏi cho học sinh để kiểm tra lại
mức độ nhận thức, để lôi cuốn học sinh trở lại bài học và tăng sự chú ý của các em.
Đồng thời, giáo viên cũng nên tạo ra một diễn đàn cởi mở, nơi đó học sinh có thể
đặt ra các câu hỏi cho giáo viên và các bạn.Điều này sẽ giúp cho tiết học trở nên
thú vị hơn, học sinh sẽ học tập và tiếp thu kiến thức một cách tích cực hơn.
Ví dụ: Trong tiết Luyện tập trang 59 bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống,
Câu 1 trang 59 SGK Tiếng Việt lớp 2: Tìm từ ngữ chỉ hoạt động bảo vệ, chăm sóc
cây


4

Sau khi học sinh làm xong bài tập, giáo viên sẽ đặt câu hỏi để hệ thống lại
kiến thức trong phần này: - Thế nào là từ chỉ hoạt động? Hoặc: Để bảo vệ và chăm
sóc cây, thì chúng ta nên làm gì và khơng nên làm gì?
* Làm việc nhóm:

Làm việc nhóm là cách hiệu quả để học sinh tương tác, thảo luận, chia sẻ và
hỗ trợ lẫn nhau trong q trình học tập. Các hoạt động nhóm phù hợp sẽ luôn khiến
học sinh cảm thấy lôi cuốn và hứng thú trong tiết học.
* Sử dụng các đoạn video:
Video là một công cụ hiệu quả để thu hút sự chú ý của học sinh. Khi dạy các
bài học, nếu có những video minh họa(thú vị và hấp dẫn) giáo viên nên sử dụng và
đưa vào bài giảng. Tuy nhiên khi sử dụng các đoạn video giáo viên cần lưu ý:
- Cần đặt ra mục đích và nhiệm vụ cụ thể cho học sinh trước khi xem video.
- Không nên sử dụng các đoạn video quá dài.
- Nên dừng lại và đặt câu hỏi(để học sinh dự đốn điều gì sẽ xảy ra tiếp theo
hoặc nhấn mạnh vào một chi tiết nào đó).
- Nên có hoạt động thảo luận sau khi kết thúc việc xem video.
* Liên hệ với cuộc sống thực:
Học sinh sẽ cảm thấy hứng thú nếu giáo viên có thể kết nối những nội dung
của bài học với các vấn đề của cuộc sống thực. Điều này cũng giúp giáo viên hiểu
kiến thức một cách sâu sắc hơn.
* Sự hỗ trợ:
Khi gặp khó khăn, điều mà bạn cần nhất là sự giúp đỡ. Hãy suy nghĩ về điều
này trong quá trình giảng dạy. Nếu một học sinh gặp khó khăn và khơng biết cách
để giải quyết cũng như khơng nhận được sự hỗ trợ từ phía giáo viên, điều chắc
chắn là học sinh đó sẽ cảm thấy chán nản và muốn từ bỏ.
Trong quá trình giảng dạy, hãy dự đốn những khó khăn mà học sinh sẽ gặp
phải, hãy ghi chú những học sinh cần sự hỗ trợ và xây dựng phương án để có thể
giúp đỡ học sinh ngay trên lớp.
* Sử dụng công nghệ thông tin:
Cơng nghệ có một sức hấp dẫn kì diệu đối với học sinh. Giáo viên cần tích
cực tìm kiếm và sử dụng các trò chơi, các ứng dụng và các phần mềm trực quan, có
tính tương tác để lơi cuốn người học.
* Học tập thông qua các hoạt động trải nghiệm
Việc học sinh phải ngồi tại chỗ và lắng nghe giáo viên giảng bài có thể là một

“cực hình”. Hãy thay đổi phương pháp giảng dạy, hãy thay thế phương pháp thuyết
trình, giảng giải bằng các hoạt động dạy học tích cực. Hãy cho phép học sinh được
tham gia vào các hoạt động trải nghiệm, được tương tác và trao đổi cùng nhau.
Bằng cách đó, học sinh sẽ tham gia tích cực hơn vào tiết học.
Cách 2: Tạo hứng thú bằng cách sử dụng các trò chơi trong dạy học môn
Tiếng Việt lớp 2


5

* Mục đích, ý nghĩa:
- Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi vẫn còn rất ham chơi, đặc biệt là lứa
tuổi học sinh lớp 2, vì thế thơng qua phương pháp trị chơi học tập để kích thích
hứng thú ở các em là rất hiệu quả. Qua trò chơi giúp các em thư giản, học mà chơi,
chơi mà học từ đó các em sẽ rất thích và đi đến hứng thú với mơn học.
- Việc sử dụng trị chơi học tập trong quá trình dạy học nhằm làm cho việc
tiếp thu tri thức, rèn luyện kĩ năng bớt đi vẻ khơ khan, có thêm sự sinh động, hấp
dẫn, làm cho hiệu quả học tập của học sinh tăng lên.
- Trị chơi học tập là một hình thức học tập bằng hoạt động, hấp dẫn học sinh,
do đó duy trì tốt hơn sự chú ý của các em với bài học.
- Trị chơi làm thay đổi hình thức học tập chỉ bằng hoạt động trí tuệ, do đó
giảm tính chất căng thẳng của giờ học, nhất là các giờ học kiến thức lý thuyết mới.
* GV có thể thực hiện như sau :
Bước 1: GV giới thiệu tên, mục đích của trị chơi.
Bước 2: Hướng dẫn chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau:
- Tổ chức người tham gia trò chơi: số người tham gia, số đội tham gia (mấy
đội chơi), quản trò, trọng tài.
- Các dụng cụ dùng để chơi: (giấy khổ to, quân bài, thẻ từ, cờ,...).
- Cách chơi: từng việc làm cụ thể của người chơi hoặc đội chơi, thời gian
chơi, những điều người chơi không được làm,…

- Cách xác nhận kết quả và cách tính tính điểm chơi, các giải pháp của cuộc
chơi (nếu có)
Bước 3: Thực hiện trị chơi.
Bước 4: Nhận xét sau cuộc chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau:
- GV hoặc trọng tài là HS nhận xét về thái độ tham gia trò chơi của từng đội,
những việc làm chưa tốt của các đội để rút kinh nghiệm.
+ Trọng tài công bố kết quả chơi của từng đội, cá nhân và trao phần thưởng
cho đội đoạt giải.
+ Một số HS nêu kiến thức, kĩ năng trong bài học mà trị chơi đã thể hiện.
Ví dụ : Trị chơi : Ai nhanh thuộc bài.
1. Mục đích:
- Trau dồi khả năng đọc thuộc tại lớp các bài có yêu cầu đọc thuộc lòng
trong sách giáo khoa(SGK) Tiếng Việt 2; luyện đọc thuộc cá bài học thuộc
lịng(HTL) trong các tiết ơn tập giữa kì , cuối kì theo qui định của chương trình.
- Luyện trí nhớ(kết hợp giữa hình thức và nội dung) dựa vào một số từ ngữ
làm điểm tựa trong bài HTL; rèn kĩ năng đọc thuộc.
2. Chuẩn bị:
- Các phiếu HTL bằng giấy viết sẵn các từ ngữ đầu dòng thơ(khổ thơ) hoặc
đầu câu văn(đoạn văn) làm điểm tựa, giúp học sinh nhớ và đọc thuộc từng khổ
thơ(đoạn văn) hay toàn bộ bài tập đọc.


6

Ví dụ: Phiếu HTL(2 khổ thơ đầu) bài Bờ tre đón khách, SGK Tiếng Việt 2 bộ
Kết nối tri thức với cuộc sống, tập 2, trang 49.
Bờ tre đón khách
Bờ tre…
Suốt …
Một đàn…

Hạ cánh.....
Tre …
Nở đầy…
Đến chơi …
Có..........
Đứng nhìn …
Im như…
Một chú …
Đỗ xuống…
Chú .......
Đậu vào....
Chú ý: Làm nhiều phiếu giống nhau cho nhiều học sinh cùng tham dự trò chơi.
Phiếu HTL được bỏ trong bì thư để giữ kín nội dung. Nội dung phiếu có thể yêu
cầu HS đọc thuộc một, hai đoạn hoặc cả bài; có thể ghi từ ngữ đầu dòng thơ(câu
văn) hoặc từ ngữ đầu khổ thơ(đoạn văn), tùy trình độ học sinh(HS) lớp dạy.
- Giáo viên(GV) (hoặc lớp trưởng) làm trọng tài sẽ phát phiếu cho từng HS dự
thi, phát lệnh “mở phiếu” và chỉ định người giành quyền đọc trước; cùng cả lớp
nhận xét và đánh giá kết quả đọc thuộc lòng của HS dự thi.
3. Cách tiến hành:
- 4-5 HS xung phong đọc thuộc lòng lên đứng trước lớp. GV(hoặc 1 HS làm
trọng tài) phát cho mỗi bạn 1 phong bì đựng phiếu HTL.
- Khi nghe lệnh trọng tài hô“bắt đầu”, tất cả HS mở bì thư để đọc phiếu HTL;
ai giơ tay xin đọc trước sẽ được trọng tài chỉ định đọc đầu tiên, nếu đọc thuộc và
diễn cảm sẽ được ở lại, nếu đọc cịn sai lẫn, chưa thuộc thì sẽ phải quay về chổ ngồi
nhường quyền đọc thuộc cho HS tiếp theo. Cứ như vậy cho đến bạn cuối cùng.
- Đồng thời giáo viên cũng chuẩn bị sẵn slide trình chiếu đáp án đúng của các
câu thơ để so sánh và nhận xét(có thể dùng bảng phụ thay slide).
- Tùy thời gian cho phép, GV có thể tổ chức cho HS thi nhiều đợt. Kết thúc
cuộc thi, trọng tài cùng cả lớp bình chọn HS đọc thuộc lịng hay nhất để biểu
dương.

Cách 3: Tạo hứng thú bằng cách trang trí lớp học


7

Việc lớp học được trang trí đẹp cũng là một trong những cách để giúp học
sinh thêm hứng thú trong việc tới lớp mỗi ngày và trong việc học của mình.
Giáo viên có thể làm góc học tập, vừa để trang trí, vừa là nơi trưng bày những
sản phẩm học tập của học sinh.


8

Góc học tập của lớp
Tạo góc thư viện lớp học, bố trí nhiều sách báo để học sinh có thể đọc sau
những giờ học. Từ đó giúp trau dồi thêm khả năng đọc cho các em.

Thư viện lớp học


9

Giáo viên có thể làm góc thi đua, là nơi để các tổ, cá nhân cùng nhau cố gắng.
Giáo viên sẽ tổng kết vào cuối mỗi tuần.

Bảng thi đua của lớp


10


Cách 4: Tạo hứng thú bằng cách trưng bày sản phẩm học tập của học
sinh
Nếu Các sản phẩm học tập của học sinh được giáo viên áp dụng trong
phương pháp giảng dạy sẽ mang lại hiệu quả cao cho tiết học. Việc trưng bày các
sản phẩm nội dung bài học vừa giúp học sinh hứng thú, và tạo kỹ năng thống kê,
đúc kết bài học, mang lại hiệu quả học tập cao. Các sản phẩm được trưng bày giúp
học sinh hãnh diện và cảm thấy tự hào về thành quả đạt được. Giúp các em nỗ lực
phấn đấu để dành được nhiều lời khen trong tương lai.
Ví dụ: - Trong phần viết (Chính tả hay tập viết) học sinh viết đúng cỡ chữ,
đúng chính tả, chữ viết đẹp, trình bày sạch sẽ thì giáo viên có thể chụp lại sau đó
chiếu lên màn hình ti vi để cả lớp đều thấy được bài của học sinh đó. Điều này
khơng những giúp học sinh học tốt sẽ càng cố gắng hơn mà còn làm khơi dậy sự
quyết tâm đối với những học sinh khác cố gắng để được như bạn.

- Hoặc trưng bày các bài viết đẹp ở góc học tập của lớp.
Cách 5: Tạo hứng thú bằng cách khen thưởng, động viên kịp thời.
Đối với lứa tuổi học sinh lớp 2 việc khen thưởng động viên kịp thời các em là
rất cần thiết. Giáo viên có thể sử dụng nhiều hình thức khen thưởng khác nhau khi
nhận thấy sự tiến bộ của học sinh như: tặng một món quà nhỏ, tuyên dương trước
lớp, hoặc tặng thư khen ...


11

Thư khen trong tuần
Bản thân tôi đã áp dụng : Mỗi khi nhận thấy sự tiến bộ của học sinh, tơi sẽ tặng
cho em đó một bơng hoa để gắn lên tên của mình ở bảng thi đua lớp. Mỗi tiết sinh
hoạt cuối tuần tôi đều tổng kết và tặng Thư khen cho những học sinh đạt nhiều
bông hoa .


Bảng thi đua của lớp


12

Ngồi ra, những học sinh có sự tiến bộ vượt bậc trong tuần học sẽ được
tuyên dương trước lớp vào tiết sinh hoạt lớp cuối tuần hoặc sẽ được tặng một món
quà nhỏ ngay sau tiết học đó, điều đó sẽ làm cho các em nhận thấy được sự tiến bộ
của mình và đồng thời cũng sẽ làm động lực cho các em cũng như các bạn trong
lớp.

Một số học sinh tiêu biểu được tuyên dương trong tuần
1.2. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết (nếu là
giải
pháp
cải
tiến
giải
pháp đã biết trước đó tại cơ sở): Khơng
1.3. Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những
nhược
điểm
hiện
tại
(nếu là giải pháp cải tiến giải pháp đã biết trước đó tại cơ
sở): Không
1.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến:


13


Biện pháp này đã được áp dụng trong năm học 2021-2022, cho học sinh lớp
2/2 tại đơn vị tôi đang cơng tác.
Ngồi ra, biện pháp này có thể áp dụng cho các khối lớp 1,3,4,5 tại đơn vị tôi
đang công tác trong những năm học tới.
1.4. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Đối với giáo viên: Cần có sự nhiệt tình, nắm bắt được tâm lí cũng như chất
lượng học sinh đầu năm của lớp mình phụ trách, từ đó phân loại được đối tượng
học sinh và áp dụng các phương pháp phù hợp. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc
việc học tập của các em.
Giáo viên cần giữ mối liên hệ thường xuyên với phụ huynh học sinh, cần nhiệt
tình, mềm dẻo trước những phụ huynh khó tính, phải thường xuyên trao đổi và tư
vấn cho phụ huynh hiểu được quá trình học tập của các em tốt phải có sự hỗ trợ
quan tâm từ phía gia đình.
Đối với học sinh có hồn cảnh đặc biệt, giáo viên cần quan tâm, giúp đỡ, động
viên các em giúp các em tự tin trong học tập và hoà nhập với cộng đồng, cần giúp
đỡ các em cả vật chất và tinh thần.
Đối với phụ huynh học sinh: Cần phối hợp chặt chẽ với giáo viên để theo dõi
sự tiến bộ của con em mình. Nhắc nhở việc học tập của các em khi về nhà.
Đối với nhà trường: Phòng học thoáng mát, đầy đủ ánh sáng, bàn ghế đúng
tiêu chuẩn, đảm bảo các thiết bị học tập đầy đủ cho các em.
1.5. Hiệu quả sáng kiến mang lại:
Khi tôi áp dụng các cách thực hiện trên, tính đến thời điểm hiện tại học sinh
của lớp tôi đang giảng dạy có nhiều tiến bộ hơn hẳn và đã đạt được những kết quả
sau:
Tổng số

Hoàn thành tốt
S
TL

L

Hoàn thành
S
TL
L

Chưa hoàn thành
S
TL
L
7
39
%
0
0%

Trước khi
18
3
16,6
8
44,4
thực hiện
%
%
Sau khi thực
18
8
44,4

10
55,6
hiện
%
%
2. Những thông tin cần được bảo mật - nếu có: Khơng
3. Danh sách những thành viên đã tham gia áp dụng thử
hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu(nếu có): Khơng
TT Họ
và Nơi cơng tác Nơi áp dụng sáng Ghi chú


14

tên
kiến
4. Hồ sơ kèm theo (Bản mô tả nội dung sáng kiến có thể minh
họa bằng các bản vẽ, thiết kế, sơ đồ, ảnh chụp mẫu sản phẩm... nếu có): Không



×