Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phương thức tác động của ý thức đến vật chất và những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của tác động ý thức đối với vật chất.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.42 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐHSP NGHỆ THUẬT TW
KHOA GIÁO DỤC ĐẠI CƯƠNG

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN
TRIẾT HỌC HỌC MÁC-LÊNIN
Tên đề tài:

Phương thức tác động của ý thức đến vật chất và những yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả của tác động ý thức đối với vật chất.

Số thứ tự......
Họ và tên ............................................................
Mã sinh viên: ……………............................................………
Lớp: ……………

Khoa ......................................

Lớp tín chỉ: .......................................

HÀ NỘI, THÁNG 01 NĂM 2023


TRƯỜNG ĐHSP NGHỆ THUẬT TW
KHOA GIÁO DỤC ĐẠI CƯƠNG

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN
TRIẾT HỌC HỌC MÁC-LÊNIN
Tên đề tài:


Phương thức tác động của ý thức đến vật chất và những yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả của tác động ý thức đối với vật chất.
Họ và tên:.............................................................................................................

Số
thoại:...................................................................................................
Thời gian học: Sáng/ Chiều - Thứ .........

điện


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý
thức.................................................................................................................2
1.1. Nguồn gốc của ý thức:.........................................................................2
1.2. Bản chất của ý thức..............................................................................5
1.3. Sự giống và khác nhau giữa vật chất và ý thức....................................6
II. Phương thức tác động của ý thức đến vật chất..........................................8
III. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của tác động ý thức đối với vật
chất...............................................................................................................11
KẾT LUẬN.....................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và nhà nước cần tiếp tục

tiến hành đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước,trong đó đổi mới
kinh tế đóng vai trị then chốt ,giữ vai trò chủ đạo. Đồng thời đổi mới kinh tế
là một vấn đề cấp bách ,bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức sẽ cho phép chúng ta vận dụng vào mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị, giúp cho cơng cuộc đổi mới của đất nước ngày
càng giàu mạnh.
Với ý nghĩa đó em đã chọn đề tài "Phương thức tác động của ý thức
đến vật chất và những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của tác động ý thức đối
với vật chất". Làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống lại lý luận về vật chất và ý thức, mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức đồng thời nêu lên phương thức tác động của ý thức đến vật chất và
những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của tác động ý thức đối với vật chất.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nội dung nghiên cứu về phương thức tác động của ý
thức đến vật chất
- Về không gian: Các tài liệu triết học như: bài giảng, giáo trình và các
nguồn trên internet
- Về thời gian:Các tài liệu triết học Mác – Lênin từ trước đến nay.

1


NỘI DUNG
I. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý
thức
Vấn đề nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức là một vấn đề hết sức
phức tạp của triết học, là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử. Dựa trên những thành tựu của triết học
duy vật, của khoa học và thực tiễn xã hội, triết học Mác – Lênin đã góp phần

làm sáng tỏ vấn đề trên đây.
1.1. Nguồn gốc của ý thức:
* Nguồn gốc tự nhiên: Chủ ngĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước vật
chất có sau, ý thức sinh ra vật chất chi phối sự vận động và tồn tại của thế giới
vật chất, tách ý thức ra khỏi vật chất, lấy ý thức là điểm xuất phát suy ra giới
tự nhiên. Trước Mác nhiều nhà duy vật đã đấu tranh phê phán lại quan điểm
trên của chủ nghĩa duy tâm, khơng thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý
thức chỉ ra mối quan khăng khít giữa vật chất và ý thức, thừa nhận vật chất có
truớc ý thức. Nhưng do khoa học chưa phát triển ảnh hưởng của quan điểm
siêu hình-máy móc nên khơng giải thích đúng nguồn gốc và bản chất ý thức.
Dựa trên thành tựu khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh
chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất
nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng
vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất
của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người. Hoạt động ý thức của con
người diễn ra trên sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Ý thức phụ
thuộc vào hoạt động bộ óc người, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động
ý thức sẽ khơng bình thường hoặc bị rối loạn. Vì vậy, khơng thể tách rời ý
thức ra khỏi hoạt động của bộ óc. Ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động
sinh lý thần kinh của bộ óc người. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc khơng thơi mà

2


khơng có sự tác động của thế giới bên ngồi để bộ óc phản ánh lại tác động đó
thì cũng khơng thể có ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất,
thuộc tính này được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các
đối tượng vật chất với nhau, phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ
thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại

của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật – vật tác động
và vật nhận tác động. Đồng thời q trình phản ánh bao hàm q trình thơng
tin. Nói cách khác, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác
động. Đây là điều hết sức quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý
thức.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ
nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện
của con người. Ý thức là của con người, nằm trong con người, không thể tách
rời con người. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất – thuộc tính
phản ánh – phát triển thành. Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của
thuộc tính phản ánh của vật chất, nội dung của nó là thơng tin về thế giới bên
ngồi, về vật được phản ánh. Ý thức và sự phản ánh thế giới bên ngồi vào
trong bộ óc người. bộ óc người là cơ quan phản ánh song chỉ có riêng bộ óc
thơi thì chưa thể có ý thức. Khơng có sự tác động của thế giới bên ngoài lên
các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức khơng thể xảy ra. Như
vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc, đó là nguồn
gốc tự nhiên của ý thức.
* Nguồn gốc xã hội: Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự
nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu đựoc song chưa đủ; điều kiện cho sự
ra đời của ý thức là tiên đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời hình thành bộ óc
con người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội, ý thức là sản
phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc vào xã hội và ngay từ đầu đã

3


mang tính chất xã hội. Lao động là q trìmh con người tác động vào giới tự
nhiên nhằm tạo sản phẩm phục vụ nhu cấu của mình. Thơng qua hoạt động
lao động đã cải tạo thế giới khách quan mà con người có thể phản ánh được
và có ý thức về thế giới đó. Sự hình thành ý thức khơng phải là q trình thu

nhận thụ động mà đó là kết quả hoạt động chủ động của con người. Nhờ lao
động con người tác động vào thế giới khách quan, bắt thế giới khách quan bộc
lộ những thuộc tính , những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành
những hiện tượng và các hiện tượng này tác động vào bộ óc người hình thành
dần tri thức về tự nhiên và xã hội. Ý thức được hình thành khơng phải chủ yếu
là do tác động thuần túy, tự nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc người,
mà chủ yếu là do hoạt động của con người cải tạo thế giới khách quan làm
biến đổi thế giới đó. Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động, chủ
động của con người. Như vậy, không phải bỗng nhiên thế giới khách quan
động vào bộ óc người để con người có ý thức mà trái lại, con người có ý thức
chính vì con người chủ động tác động vào thế giới thông qua hoạt động thực
tiễn để cải tạo thế giới, con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế giới.
Nói cách khác, ý thức chỉ được hình thành thơng qua hoạt động thực tiễn của
con người. Nhờ tác động vào thế giới mà con người khám phá ra những bí
mật của thế giới, ngày càng làm phong phú và sâu sắc ý thức của mình về thế
giới. Có thể nói khái quát rằng lao động tạo ra ý thức tư tưởng lá sự phản ánh
thế giới khách quan vào đầu óc con người trong quá trình lao động của con
người.
Lao động khơng xuất phát ở trạng thái đơn nhất mà mang tính tập
thể xã hội. Vì vậy ngơn ngữ xt hiện do nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và trao
đổi tư tưởng cho nhau. Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động
mà hình thành.Nhờ ngơn ngữ mà tổng kết được thực tiễn, trao đỏi thông tin,
trao đổi tri thức tử thế hệ này sang thế hệ khác.Khơng có hệ thống tín hiệu
này – tức ngơn ngữ , thì ý thức khơng thể tồn tại và thể hiện được.Ngôn ngữ,

4


theo C. Mác là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng,
khơng có ngơn ngữ, con người khơng thể có ý thức.

Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra
đời và phát triển của ý thức là lao động , là thực tiển xã hội. Ý thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn
ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã
hội.
1.2. Bản chất của ý thức.
Trong lịch sử triết học triết học duy tâm quan niệm ý thức là một
thực thể độc lập coi ý thức sinh ra vật chất. Còn các nhà triết học duy vật
thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự phản ánh sự vật đó. Trên
cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biên chứng: về bản chất, coi ý thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng
động sáng tạo. Ý thức còn là cái phản ảnh thế giới khách quan, nhưng nó là
cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan, khơng có tính vật chất.Ý
thức là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính.
Nếu coi ý thức cũng là một hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa vật chất và
ý thức, làm mất ý nghĩa của sự đối lập giữa vật chất và ý thức, từ đó dẫn đến
làm mất đi sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Ý thức là
cái phản ánh còn cái được phản ánh- tức là vật chất -tồn tại khách quan. Ý
thức là của con người ra đời trong quá trình cải tạo thế giới cho nên ý thức
con người mang tính năng động sáng tạo theo nhu cầu thực tiễn xã hội. Vì vậy
ý thức “Chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người, và được cải biến đi ở trong đó”. Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người,
song đây là sự phản ảnh đặc biệt – phản ảnh trong quá trình con người, cải tạo
thế giới. Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau đây :

5



- Một là trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao
đổi này mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thơng tin cần
thiết.
- Hai là, mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh
thần. Thực chất đây là quá trình “Sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, theo
nghĩa mã hóa các đối tượng vật chất thành các ý thức tinh thần phi vật chất.
- Ba là, chuyển mơ hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức q
trình hiện thực hóa tư tưởng, thơng qua hoạt động thực tiển biến cái quan
niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các
dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này con người lựa chọn những
phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan
nhằm thực hiện mục đích của mình. Điều đó càng nói lên tính năng động sáng
tạo của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức khơng có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng
tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ảnh, theo qui luật và trong khuôn khổ
của sự phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự
sáng tạo của ý thức không đối lập, loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại
thống nhất với phản ánh, trên cơ sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt
thuộc bản chất của ý thức. Ý thức trong bất cứ trường hợp nào - cũng là sự
phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp,
năng động, sáng tạo của bộ óc. Ý thức chính là một hiện tượng xã hội. Sự ra
đời tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thức tiễn chịu sự chi phối của
quy luật xã hội và quy luật sinh học, do nhu cầu giao tiếp của xã hơi. Vì vậy ý
thức mang bản chất xã hội.
1.3. Sự giống và khác nhau giữa vật chất và ý thức
Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa
tuyệt đối trong phạm vi hạn chế: trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn
đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước ,cái gì là cái có

6



sau. Ngồi giới hạn đó thì khơng cịn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó chỉ là
tương đối . Như vậy để phân ranh giới giữa CNDV và CNDT, để xác định
bản tính và sự thống nhất của thế giới cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất
và ý thức trong khi trả lời cái nào có trước cái nào quyết định. Khơng như vậy
sẽ lẫn lộn 2 đường lối cơ bản trong triết học ,lẫn giữa vật chất và ý thức và
cuối cùng sẽ xa rời quan điểm duy vật .Song sự đối lập giữa vật chất và ý thức
chỉ là sự tương đối như là những nhân tố ,những mặt không thể thiếu được
trong hoạt động của con người ,đặc biệt là hoạt động thực tiễn con người ,ý
thức có thức có thể cải biến được tự nhiên ,thâm nhập vào sự vật, không có
khả năng tự biến thành hiện thực,nhưng thơng qua hoạt động thực tiễn của
con người,ý thức có thể cải tiến được ,thâm nhập vào sự vật ,hiện thực hoá
những mục đích mà nó đề ra cho hoạt động của mình.Điều này bắt nguồn từ
chính ngay bản tính phản ánh,sáng tạo và xã hội của ý thức và chính nhờ bản
tính đó mà chỉ có con người có ý thức mới có khả năng cải biến và thống trị
tự nhiên ,bắt nó phục vụ con người. Như vậy tính tương đối trong sự đối lập
giữa vật chất và ý thức thể hiện ở tính độc lập tương đơí,tính năng động của ý
thức. Mặt khác đời sống con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa
đời sống vật chất và đời sơngs tinh thần trong đó những nhu cầu tinh thần
ngày càng phong phú và đa dạng và những nhu cầu vật chất cũng bị tinh thần
hố.Khẳng định tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức khơng
có nghĩa là khẳng định cả hai yếu tố có vai trị như nhau trong đời sống và
hoạt động của con người .Trái lại, Triết học Mác-Lênin khẳng định rằng,trong
hoạt động của con người những nhân tố vật chất và ý thức có tác động qua
lại ,song sự tác động đó diễn ra trên cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật chất
so với tính thứ hai cuả ý thức.
Trong hoạt động của con người, những nhu cầu vật chất xét đến cùng
bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định mục đích hoạt động
của con người vì nhân tố vật chất quy định khả năng các nhân tố tinh thần có

thể tham gia vào hoạt động của con người, tạo đIều kiện cho nhân tố tinh thần

7


hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực và qua đó quy định mục đích
chủ trương biện pháp mà con người đề ra cho hoạt động của mình bằng cách
chọn lọc, sữa chữa bổ bổ sung cụ thể hố mục đích chủ trương biện pháp đó .
Hoạt động nhận thức của con người bao giờ cũng hướng đến mục tiêu cải
biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu sống . Hơn nữa, cuộc sống tinh thần
của con người xét đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào việc thoả mãn nhu
cầu vật chất và vào những điều kiện vật chất hiện có. Khẳng định vai trị cơ sở
,quyết định trực tiếp nhân tố vật chất, triết học Mác-Lênin đồng thời cũng
khơng coi nhẹ vai trị của nhân tố tinh thần, tính năng động chủ quan. Nhân tố
ý thức có tác động trở lại quan trọng đối với nhân tố vật chất. Hơn nữa ,trong
hoạt động của mình ,con người không thể tạo ra các đối tượng vật chất ,cũng
không thể thay đổi được những quy luật vận động của nó. Do đó ,trong q
trình hoạt động của mình con người phải tuân theo quy luật khách quan và chỉ
có thể đề ra những mục đích,chủ trương trong phạm vi vật chất cho phép .
II. Phương thức tác động của ý thức đến vật chất
Theo chủ nghĩa duy vật thì vật chất quyết định ý thức
Theo chủ nghĩa duy tâm ý thức quyết định vật chất
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng
định trong mối quan hệ vật chất và ý thức thì vật chất là cơ sở, cội nguồn sinh
ra ý thức. .

Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng thể hiện qua

vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương ứng. Ý
thức tác động trở lại thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức quyết định nội dung và xu
hưóng phát triển của với ý thức. Khơng có vật chất thì khơng thể có ý thức
bởi vì vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý
thức (não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh hình
thành ý thức, ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não).
Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, ý thức là sự phản ánh thế giới

8


vật chất đó vào con người. Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức,
quyết định nội dung của ý thức. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật
chất, đó là một thuộc tính phản ánh phát triển thành, ý thức ra đời là kết quả
phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất. Điều kiện quyết định
cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề nguồn gốc xã hội, ý thức ra đời cùng
với q trình hình thành bộ óc con nguời nhờ lao động, ngôn ngữ và những
quan hệ xã hội trong hoạt động thức tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật chất
cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành tồn tại và phát triển của
ý thức. Vì vậy ý thức chính là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Ngồi ra ý
thức có thể trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo hiện thực thông qua
hoạt động thực tiễn. Do vậy, vật chất quyết định sự phát triển của ý thức,
quyết định tính phong phú, đa dạng, nhiều vẻ của ý thức.
Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định nhưng sau khi ra đời ý thức có
tính độc lập tương đối nên nó có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. vì vậy con người phải tơn trọng
khách quan của vật chất và của các quy luật tự nhiên xã hội, đồng thời phải
tơn trọng tính chủ quan của mình. Điều này địi hỏi trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người phải xuất phát từ thực tế khách quan,
lấy khách quan làm căn cứ cho hoạt động của mình. Bên cạnh đó cần phát
huy tính năng động chủ quan túc là phát huy vai trị tích cực của ý thức,

khơng ngừng tìm kiếm tích luỹ những hiểu biết mới ngày càng đầy đủ hơn,
sâu sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận động và sự phát triển sự vật.
Mặt khác bản thân ý thức tự nó khơng thay đổi được gì trong hiện thực.
Ý muốn tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất được
con người thực hiện trong thực tiễn. Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho
con người những tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng, trên
cơ sở ấy con người xác định đúng mục tiêu và đề ra phương hưóng hoạt động
phù hợp. Ví vậy ý thức tác động trở lại vật chất theo hai hướng:

9


-Ý thức, tư tưởng có thể quyết định làm sao con người hoạt động đúng
và thành cơng khi nó phản ánh đúng và sâu sắc thế giới khách quan, nó sẽ
thúc đẩy thế giới vật chất phát triển nhanh vì đó là cơ sở quan trọng cho việc
xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác.
-Ngược lại ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và
thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan, nó sẽ kìm hãm sự
phát triển của thế giới vật chất.
VD: Aristôt đưa ra thuyết “địa tâm” coi trái đất là trung tâm của vũ trụ
đã làm kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất.
Vì vậy cần phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy
vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan, đồng thời
khắc phục bệnh trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động trong quá trình đổi mới hện
nay. Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ
nhất định, nó khơng thể sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật
chất.
Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức một nguyên tắc được rút ra, đó là nguyên tắc, khách quan. Nguyên tắc
khách quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với ý

thức, nó địi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất
phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan, “phải lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của
mình”. Tuy nhiên, việc thực hiện ngun tắc khách quan khơng có nghĩa là
quan điểm khách quan xem nhẹ, tính năng động, sáng tạo của ý thức mà nó
cịn địi hỏi phát phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ
quan. Bởi vì q trình đạt tới tính khách quan địi hỏi chủ thể phải phát huy
tính năng động, sáng tạo trong việc tìm ra những biện pháp, những con đường
để từng bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ sở đó con người
thực hiện sự biến đổi từ cái “vật tự nó” (tức thực tại khách quan) thành cái

10


phục vụ cho nhu cầu của con người đồng thời sử dụng hiệu quả các điều kiện,
sức mạnh vật chất khách quan, sức mạnh của quy luật … để phục vụ cho các
mục tiêu, mục đích khác nhau của con người.
Biểu hiện của mới quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã
hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động
trở lại xã hội. ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để
xem xét các mối quan hệ khác như cụ thể và khách thể, lý luận và tực tiễn,
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan..
III. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của tác động ý thức đối với
vật chất
- Hoạt động lao động của con người: Lao động chính là những hoạt
động của con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay
đổi giới tự nhiên cho phù hợp cới nhu cầu của con người. Lao động sẽ tác
động đến ý thức của con người cần phải làm gì và làm như thế nào để có thể
thực hiện cơng việc một cách có hiệu quả nhất, vừa tiết kiệm được thời gian

và cơng sức. Do đó, lao động có một tác động rất lơn đến việc hình thành suy
nghĩ của con người.
- Hành vi ứng xử giữa người với người: Đây cũng chính là yếu tố tác
động sâu sắc đến việc hình thành, thay đổi ý thức của mỗi người. Khi một đứa
trẻ được giáo dục và sinh sống tại một môi trường sống lành mạnh, văn minh
sẽ vơ tình giúp đứa trẻ nhận thức được bản thân cũng phải có những hành vi
ứng xử như thế thì mới đúng và giống với mọi người xung quanh. Như vậy,
việc con người đối xử với nhau chân thật hay lừa dối lẫn nhau cũng sẽ khiến
cho người rơi vào hồn cảnh đó nhận thức được việc làm như thế là sai hay
đúng, có lợi cho bản thân hay khơng và dần dần hình thành nên suy nghĩ của
bản thân.

11


- Ngôn ngữ giao tiếp: Ngôn ngữ cũng tương tự như hành vi con người.
Con người sử dụng chung một loại ngôn ngữ trong một quốc gia sẽ nhận thức
được đây là một dân tộc và cần có những hành vi ứng xử phù hợp hơn. Đồng
thời khi con người sử dụng ngôn ngữ để bày tỏ ra quan điểm của bản thân
cũng sẽ khiến cho đối phương nhận thức được những hàm ý trong lời nói và
hình thành nên ý thức của bản thân về một vụ việc nào đó. Do đó, ngơn ngữ
chính là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức,
khơng có ngơn ngữ thì thì ý thức khơng thể tồn tại được.
Vai trị của ý thức có một tầm quan trọng đối với thực tiễn cuộc sống
và khẳng định vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức,
còn ý thức chỉ là sản phẩm, là sự phản ánh chân thật về thế giới khách quan.
Và hành động của con người chỉ xuất phát từ những yếu tố tác động của thế
giới khách quan.
Điều này đã tạo cho con người sự thông minh, nhạy bén để có thể ứng
phó kịp thời với các tác động của mơi trường xung quanh. Từ đó giúp tạo nên

các giá trị thực tiễn cho đời sống xã hội, nhiều cơng trình kiến trúc được tạo
nên, nhiều phát minh khoa học được hình thành do ý thức của con người dự
đoán được những thiên tai, hay những thay đổi của tương lai…
Không những vậy, việc ý thức tốt về một vấn đề nào đó giúp cho con
người hạn chế được những hành vi vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng hậu quả
xấu đến sự phát triển của quốc gia. Các quốc gia có thể mở rộng mối quan hệ
ngoại giao với nhau về kinh tế để cùng nhau hợp tác phát triển, xây dựng đất
nước và thị trường thế giới ngày càng phát triển hiện đại hơn.
Như vậy, nói tới vai trị của ý thức thực chất là nói tới vai trị của con
người, vì ý thức tự nó khơng trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Do
đó, muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn. Nghĩa là con
người muốn thực hiện quy luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng
đắn những quy luật đó, phải có ý chí và phương pháp để tổ chức hành động.

12


Vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người, có thể quyết
định làm cho con người hành động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên
cơ sở những điều kiện khách quan nhất định.
Do đó, con người càng phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách quan
thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả. Vì vậy, phải phát huy tính năng động,
sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động, cải tạo
thế giới khách quan.

13


KẾT LUẬN
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,

vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay ý thức hay vật chất là yếu tố thông
qua hoạt động thực tiễn của con người quyết định đường lối chủ trương phát
triển kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển
của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về mối quan hệ biện
chứng giữa ý thức và vật chất luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho
hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội.
Từ lý luận chủ nghĩa Mác Lênin Đảng ta đã rút ra bài học ”Mọi đường
lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy luật khách
quan”. Nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hố và hiện đại
hố. Ngun nhân sự phát triển kinh tế vững mạnh xuất phát từ mối quan hệ
nào? Mối quan hệ giữa biện chứng vật chất giữ ý thức và vật chất ảnh hưởng
tới nền kinh tế như thế nào?Và sự thành công hay thất bại, phát triển hay lạc
hậu của bất kì nền kinh tế nào đều do có lập trường triết học đúng đắn..

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Trường ĐHSP nghệ thuật TW
2. Tạp chí triêt học
3. Tác phẩm kinh điển Mác-Ănggen
4. Giáo trình triết học Mác Lênin
5.

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức VI của Đảng cộng sản
Việt Nam.




×