Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Giáo dục giới tính tại trường THPT ......: Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.56 KB, 35 trang )

BẢN TĨM TẮT ĐỀ TÀI DỰ THI
1. Lí do chọn đề tài:
Đề tài : G
" iáo dục giới tính tại trường THPT ......: Thực trạng và giải pháp" là dạy cho
người ta biết các bí quyết của sự hồ hợp giữa âm và dương, biết các khái niệm thế nào là nam
thế nào là nữ (giới tính) khái niệm về tình dục và nhân cách, để cho con người phát triển một
cách tồn diện.Bên cạnhh đó nó cịn là một khoa học và nghệ thuật dạy cho con người có đạo
đức và hành vi lành mạnh, xây dựng một nhân cách phù hợp với mong muốn của xã hội và hình
thành mối quan hệ có trách nhiệm trong tình bạn cũng như tình yêu..Ngày nay, do chất lượng
cuộc sống ngày càng nâng lên, sự bùng thông tin với nhiều phương tiện nghe, nhìn, sách, báo,
phim ảnh về cuộc sống gia đình, tình bạn, tình yêu, quan hệ nam nữ… là nguyên nhân dẫn đến
sự phát triển sớm về giới tính ở trẻ, đặc biệt là học sinh THPT.Việc khảo sát thực trạng nhận
thức của học sinh về GDGT và việc đưa ra giải pháp kịp thời đã góp phần giải quyết phần nào đó
nhu cầu của học sinh trường THPT ......, giúp giảm bớt hệ lụy đáng tiếc do thiếu hiểu biết gây ra..
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
* Ý nghĩa khoa học:
Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ một số lý thuyết xã hội học như: Lý thuyết cấu
trúc chức năng, lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết nhu cầu, lý thuyết vai trị.
Kết quả nghiên cứu giúp tìm hiểu thực trạng và giải pháp GDGT cho học sinh THPT .
* Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu còn giúp học sinh THPT có nhận thức sâu sắc về vấn đề GDGT cũng
như nhu cầu được GDGT. Nhận thức được điều đó sẽ giúp các em trang bị kiến thức đầy đủ về
GDGT, giải quyết được những băn khoăn, thắc mắc cũng như những sai lầm trong giai đoạn tuổi
dậy thì.
Kết quả nghiên cứu cịn giúp gia đình, nhà trường và cộng đồng xã hội hiểu rõ vai trị
quan trọng của mình trong việc GDGT cho học sinh THPT. Giúp các nhà quản lý, nhà khoa học
tham khảo, đưa ra những biện pháp cũng như phương án giúp học sinh THPT có kiến thức tồn
diện hơn về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng nhận thức , giải pháp GDGT cho học sinh THPT.


Qua đó đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp nâng cao chất lượng GDGT cho trẻ em vị thành
niên.
*Nhiệm vụ nghiên cứu.
Thực trạng nhận thức , giải pháp GDGT cho học sinh THPT .Tìm hiểu một số yếu tố tác
động đến vấn đề GDGT cho học sinh THPT. Đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp về vấn đề
nghiên cứu góp phần nâng cao nhận thức của học sinh THPT về vấn đề này
*Câu hỏi nghiên cứu: Học sinh THPT ......đã có biết được những gì trong nội dung giáo
dục giới tính? Nhà trường đã có những giải pháp gì để giáo dục giới tính cho học sinh?
4. Phương pháp nghiên cứu
1


a. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Tìm hiểu các khái niệm, thuật ngữ liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Thu thập, chọn lọc thông tin, tin tức để phân loại, phân tích, tổng hợp phục vụ cho đề
tài.
b. Phương pháp thu thập thông tin cụ thể
*Phương pháp phân tích tài liệu
Trong q trình nghiên cứu có thu thập, phân tích và tham khảo tài liệu, các cơng trình
nghiên cứu và báo cáo khoa học có liên quan đến đề tài nhằm làm rõ cơ sở lý luận và tổng quan
của đề tài, góp phần bổ sung cho những nhận định của mình.
Ngồi ra đề tài cịn sử dụng, phân tích các báo cáo về địa bàn nghiên cứu.
*Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp điều tra khảo sát , nghiên cứu được tiến hành
đối với học sinh lớp 10, lớp 11, lớp 12 trường THPT ......, TP ......, Tỉnh ........ Cách chọn mẫu là
ngẫu nhiên thuận tiện. Mỗi lớp chọn đại diện 10 – 15 học sinh.
*Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp này được thực hiện để thu thập những thông tin định tính, nhằm làm phong
phú thêm cho những thơng tin định lượng. Đặc biệt phương pháp này tập trung chủ yếu vào
những ý kiến của các em học sinh về thực trạng, giải pháp của nhà trường, gia đình, các phương

tiện truyền thông đại chúng trong việc giáo dục giới tính. Qua đây nắm bắt được sự thiếu hụt của
học sinh về kiến thức liên quan đến GDGT, cũng như phương pháp nào giúp học sinh tiếp thu
hiệu quả nhất. Phỏng vấn sâu được tiến hành với số lượng là 5 mẫu trong đó có 2 đối tượng là
học sinh và 3 đối tượng là giáo viên trường THPT ......với các đặc điểm khác nhau về giới tính,
khối học
5. Những điểm mới của đề tài:
- Đưa giáo dục giới tính bước đầu trở thành một mơn học trong trường THPT ......nâng
cao nhận thức của học sinh về các vấn đề liên quan đến giáo dục giới tính, từ đó sống có trách
nhiệm đối với bản thân, gia đình, xã hội.
- Giúp cho học sinh rèn luyện tư tưởng, trau dồi kiến thức, xây dựng nhân cách cho phù
hợp với giới tính, hiểu thế nào là tình u đích thực, tình bạn trong sáng tình dục an tồn,các biện
pháp tránh thai ...có lẽ điều mà hiện nay các trường THPT cần phải quan tâm.
- Tổ chức các hoạt động giáo dục giới tính trong nhà trường (hoạt động chính khóa và
hoạt động ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ kỹ năng sống, phòng tư vấn tâm lý học đường..).Hướng
dẫn được cho học sinh cách sử dụng một số biện pháp tránh thai trong trường hợp khẩn cấp,
cũng như hậu quả của quan hệ tình dục và mang thai sớm ở tuổi vị thành niên. Học sinh nam
được thực hành sử dụng bao cao su đúng cách.
- Giúp học sinh điều chỉnh hành vi, cảm xúc theo hướng tích cực, phát triển và hồn thiện
nhân cách.
- Có hiệu quả giáo dục học sinh cao: Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về
vấn đề liên quan đến giáo dục giới tính. Thơng qua đó trong đời sống thực tế giúp học sinh biết
cách giải quyết các thắc mắc về tâm lý tuổi dậy thì , bảo vệ sức khỏe sinh sản, giải quyết tình
trạng học sinh yêu sớm, quan hệ tình dục khơng an tồn, nạn nạo phá thai, nghỉ học và làm mẹ
khi còn quá trẻ.
6. Kết quả
Học sinh trường THPT ......sau khi tham gia hoạt động về giáo dục giới tính, sức khỏe
sinh sản đã được trang bị thêm những kiến thức cơ bản.
7. Kết luận
2



Qua nghiên cứu thực trạng và giải pháp về giáo dục giới tính cho học sinh trường
THPT ......,chúng tơi rút ra kết luận như sau :
Đa số học sinh trường THPT ......được cung cấp các kiến thức về giáo dục giới tính như :
tình bạn, tình u, tình dục an toàn, các biện pháp tránh thai, các bệnh lây qua đường tình
dục...Tuy nhiên những kiến thức này chỉ cung cấp cho học sinh lý thuyết,chứ thực sự vẫn chưa
trang bị được đầy đủ kiến thức phục vụ trong đời sống thường ngày.
Cũng thông qua nghiên cứu này, các em không chỉ có những quan tâm về tuổi dậy thì của
bản thân và người khác giới, mà còn quan tâm đến các vấn đề liên quan khác.
Ngày nay, do chất lượng cuộc sống ngày càng nâng lên, sự bùng thông tin với nhiều phương tiện
nghe, nhìn, sách, báo, phim ảnh về cuộc sống gia đình, tình bạn, tình yêu, quan hệ nam nữ… là
nguyên nhân dẫn đến sự phát triển sớm về giới tính ở trẻ, đặc biệt là học sinh THPT.
Học sinh THPT thuộc lứa tuổi thanh niên mới lớn, đây là giai đoạn đẹp nhất trong cuộc đời của
mỗi con người nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp. Do vậy, để học sinh THPT có kiến
thức và hiểu biết về giới tính thì vấn đề giáo dục giới tính cho các em là “nhu cầu” cần thiết.
Giáo dục giới tính trong trường THPT sẽ trang bị cho các em có thái độ, hành vi đúng đắn trong
giải quyết các mối quan hệ với bạn bè khác giới đặc biệt sẽ làm chủ trong việc giải quyết các vấn
đề liên quan đến tình u, hơn nhân và gia đình để góp phần xây dựng cuộc sống lành mạnh, tốt
đẹp.
Thực tế nhìn nhận việc giáo dục giới tính ở nước ta trong những năm qua đã được đưa
vào nhà trường phổ thông nhưng mới chỉ dừng lại ở chương trình tích hợp, lồng ghép qua một số
mơn học như Sinh học, Văn học, Địa lí, Giáo dục cơng dân… và một số hoạt động ngoại khoá
của một số trường chỉ mang tính thí điểm mà chưa thực sự thường xuyên, tự giác, tích cực chưa
trở thành nội dung bắt buộc. Bên cạnh đó đội ngũ giáo viên chưa được đào tạo một cách bài bản,
chuyên sâu về kiến thức cũng như kỹ năng… nên hiệu quả giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản
trong nhà trường cịn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu hiểu biết của học sinh cũng như yêu cầu đặt ra
của xã hội. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản, cùng với sự thiếu quan tâm, chăm sóc,
giáo dục của gia đình cùng với những luồng thông tin thiếu lành mạnh đã dẫn đến sự lệch lạc,
thiếu hiểu biết trong nhận thức, thái độ, hành vi của khơng ít thanh thiếu niên về các vấn đề liên
quan đến giáo dục giới tính. Để khắc phục tình trạng này, cần đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa

cơng tác giáo dục giới tính trong nhà trường phổ thông

3


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài :
Cùng với sự phát triển của xã hội hiện nay, nhu cầu tìm hiểu về giới tính của thanh
thiếu niên ngày càng tăng cao. Tuy nhiên, việc tích hợp hay lồng ghép nội dung giáo dục
giới tính chưa đáp ứng được yêu cầu của đa số thanh thiếu niên hiện nay để có thể giải
quyết một số vấn đề liên quan tới giới tính như mối quan hệ nam- nữ, sự biến đổi của cơ
thể, nhu cầu về tình bạn – tình yêu – tình dục. Dẫn tới các hành vi sai lệch hay các mối
quan hệ chưa đúng; hệ lụy kéo theo là tình trạng nạo phá thai tăng cao: theo thống kê
những năm gần đây tại Việt Nam tỉ lệ nạo phá thai lên gần mức 4%/năm (3000 ca/năm) ;
trên thế giới mỗi ngày có 20.000 trẻ em gái dưới 18 tuổi sinh con. Hay tình trạng gần đây
được các báo đài nhắc nhiều đó là tình trạng xâm hại hay lạm dụng tình dục ở trẻ em,
năm 2011 có 1453 trẻ em bị xâm hại tình dục và 5 năm gần đây trung bình mỗi năm có
gần 1000 trẻ em bị xâm hại trên toàn thế giới, nguyên nhân một phần là do các em chưa
được trạng bị tốt kiến thức về giới tính cũng như sức khỏe sinh sản vị thành niên.
Tuổi dậy thì là một giai đoạn phát triển quan trọng của một con người, nó
xuất hiện với những biểu hiện thay đổi rất đặc trưng về mặt tâm sinh lý. Đó là giai đoạn
từ tuổi thơ đang dần trở thành người lớn với sự trưởng thành cả về thể chất và tâm hồn rất
sâu sắc. Trong thời kỳ này trẻ bắt đầu có những băn khoăn, suy nghĩ về sự biến đổi của
cơ thể, những khác biệt giới tính giữa nam và nữ, và với những nhu cầu về tình bạn, tình
yêu, tình dục…Tuổi dậy thì ở mỗi nền văn hóa có những đặc điểm riêng nhưng nói chung
đều bộc lộ sự thay đổi về nhân cách và tâm lý, trẻ VTN luôn muốn thử sức, luôn muốn tự
khẳng định, thích mạo hiểm nhưng khi gặp khó khăn, đau buồn hay thất bại lại chưa đủ
bản lĩnh để lí giải, chống chọi và vượt qua. Chính trong thời điểm này nhu cầu được giáo
dục giới tính (GDGT) ở trẻ vị thành niên là rất cao đặc biệt là giai đoạn đầu của tuổi dậy
thì - giai đoạn trẻ rất cần được sự giúp đỡ, giáo dục để hình thành nhân cách xã hội và

phát triển định hướng giáo dục giới tính nhằm xây dựng mối quan hệ lành mạnh và có
trách nhiệm với bạn bè, gia đình, biết tôn trọng bản thân và bạn khác giới.
Nhà giáo dục học Makarenco đã từng khẳng định “GDGT chỉ là một khía cạnh của
giáo dục tồn diện và khơng thể tách rời ra được, như một cánh tay dính liền với cơ thể.
Muốn cho cánh tay khỏe mạnh thì phải làm cho toàn bộ cơ thể khỏe mạnh và ngược lại
nếu có cơ thể khỏe mạnh về mọi mặt chỉ có cánh tay GDGT là bị bỏ bê và nhức nhối thì
người đó khơng thể thưởng thức sự lành mạnh của phần cơ thể cịn lại" [4]. Điều đó cho
thấy tầm quan trọng của việc GDGT cho trẻ VTN và không thể xem GDGT như là một
điều mới lạ trẻ phải học ở trường khi tới tuổi dậy thì.

4


Từ thực tế nói trên, chúng tơi thấy việc giáo dục giới tính đang trở thành vấn đề
cấp bách của toàn xã hội. Tại các trường THPT việc giáo dục giới tính cho học sinh đang
cịn hạn chế, để trang bị những kiến thức cần thiết về giới tính giúp học sinh xây dựng
được các mối quan hệ lành mạnh, có trách nhiệm với bạn bè, gia đình, biết tơn trọng bản
thân và bạn khác giới, tránh xa được những cám dỗ, từ đó đưa ra được các đề xuất và giải
pháp khắc phục các tình trạng trên. Với lí do đó chúng tơi tiến hành đề tài nghiên cứu“
Tìm hiểu nhận thức và nhu cầu của học sinh về giáo dục giới tính trong trường THPT”
2. Ý nghĩa khoa học - ý nghĩa thực tiễn
2.1 Ý nghĩa khoa học.
Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ một số lý thuyết xã hội học như: Lý
thuyết cấu trúc chức năng, lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết nhu cầu, lý thuyết vai
trị.
Kết quả nghiên cứu giúp tìm hiểu thực trạng và giải pháp GDGT cho học sinh
THPT .
2.2 Ý nghĩa thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu còn giúp học sinh THPT có nhận thức sâu sắc về vấn đề
GDGT cũng như nhu cầu được GDGT. Nhận thức được điều đó sẽ giúp các em trang bị

kiến thức đầy đủ về GDGT, giải quyết được những băn khoăn, thắc mắc cũng như những
sai lầm trong giai đoạn tuổi dậy thì.
Kết quả nghiên cứu cịn giúp gia đình, nhà trường và cộng đồng xã hội hiểu rõ vai
trò quan trọng của mình trong việc GDGT cho học sinh THPT. Giúp các nhà quản lý, nhà
khoa học tham khảo, đưa ra những biện pháp cũng như phương án giúp học sinh THPT
có kiến thức toàn diện hơn về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng nhận thức , giải pháp GDGT cho học sinh
THPT. Qua đó đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp nâng cao chất lượng GDGT cho
trẻ em vị thành niên.

5


3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu.
Thực trạng nhận thức , giải pháp GDGT cho học sinh THPT .Tìm hiểu một số yếu
tố tác động đến vấn đề GDGT cho học sinh THPT. Đưa ra một số khuyến nghị và giải
pháp về vấn đề nghiên cứu góp phần nâng cao nhận thức của học sinh THPT về vấn đề
này.
4.Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu, mẫu nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng, giải pháp GDGT cho học sinh THPT
4.2 Khách thể nghiên cứu
Học sinh trường THPT ......, TP ......, Tỉnh .......
4.3 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khảo sát Trường Lộc Phát, TP ......, Tỉnh .......
Thời gian từ tháng 7 năm 2015 đến tháng 1 năm 2016.
4.4 Mẫu nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên số liệu thu thập được từ phiếu điều tra cho học sinh

lớp 10, 11, 12 trường THPT ......, TP ......, Tỉnh ....... với số lượng mẫu: 280 phiếu
5.Phương pháp nghiên cứu
5.1 . Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Tìm hiểu các khái niệm, thuật ngữ liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Thu thập, chọn lọc thông tin, tin tức để phân loại, phân tích, tổng hợp phục vụ cho đề
tài.

5.2 Phương pháp thu thập thông tin cụ thể
6


a.Phương pháp phân tích tài liệu
Trong q trình nghiên cứu có thu thập, phân tích và tham khảo tài liệu, các cơng
trình nghiên cứu và báo cáo khoa học có liên quan đến đề tài nhằm làm rõ cơ sở lý luận
và tổng quan của đề tài, góp phần bổ sung cho những nhận định của mình.
Ngồi ra đề tài cịn sử dụng, phân tích các báo cáo về địa bàn nghiên cứu.
b.Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp điều tra khảo sát , nghiên cứu được
tiến hành đối với học sinh lớp 10, lớp 11, lớp 12 trường THPT ......, TP ......, Tỉnh ........
Cách chọn mẫu là ngẫu nhiên thuận tiện. Mỗi lớp chọn đại diện 10 – 15 học sinh.
c.Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp này được thực hiện để thu thập những thơng tin định tính, nhằm làm
phong phú thêm cho những thông tin định lượng. Đặc biệt phương pháp này tập trung
chủ yếu vào những ý kiến của các em học sinh về thực trạng, giải pháp của nhà trường,
gia đình, các phương tiện truyền thơng đại chúng trong việc giáo dục giới tính. Qua đây
nắm bắt được sự thiếu hụt của học sinh về kiến thức liên quan đến GDGT, cũng như
phương pháp nào giúp học sinh tiếp thu hiệu quả nhất. Phỏng vấn sâu được tiến hành với
số lượng là 5 mẫu trong đó có 2 đối tượng là học sinh và 3 đối tượng là giáo viên trường
THPT ......với các đặc điểm khác nhau về giới tính, khối học.
6. Giả thuyết nghiên cứu

Nếu đề tài này được thực hiện và triển khai thường xuyên trong nhà trường thì học
sinh trường THPT ......khơng chỉ được trang bị những kiến thức liên quan đến nội dung
GDGT còn giúp các em trang bị thêm các kỹ năng sống cần như: giúp các em hiểu được
thế nào là tình yêu đích thực, làm gì để giữ gìn tình bạn trong sáng, hiểu rõ hơn về bản
thân cũng như người khác giới. Giảm bớt được hiện tượng yêu sớm yêu bạo ở học sinh
hiện nay, giúp các em biết thế nào là tình dục an tồn, tránh việc mang thai ngồi ý muốn
và những hệ lụy kèm theo nó.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .
1.1 Cơ sở lí luận
7


a.Thuyết hành động xã hội
Các tác giả nổi tiếng của thuyết này như Weber, Parson,… đều coi hành động xã
hội là cốt lõi của mối quan hệ con người - xã hội, là cơ sở của đời sống xã hội của con
người. Theo Weber, hành động xã hội là hành vi được chủ thể gắn cho một ý nghĩa chủ
quan nhất định. Và cái mà Weber gọi là "ý nghĩa chủ quan" chính là ý thức , là hành động
có ý thức, chủ thể hiểu được mình định thực hiện hành động gì? và sẽ thực hiện nó như
thế nào? khác hẳn với những hành động bản năng sinh học.
Hành động xã hội có tính chuẩn mực, ln phụ thuộc vào hệ giá trị chuẩn mực
của xã hội. Nhận thức của học sinh THPT về vấn đề GDGT đều được điều chỉnh bởi
quan niệm của xã hội về giá trị chuẩn mực đã được các thành viên trong xã hội chấp nhận
vì vậy nhận thức và hành vi về vấn đề GDGT của các em khơng thể khơng tính đến hệ
giá trị - chuẩn mực của xã hội.
Hành động có tính duy lý, nghĩa là phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của chủ thể.
Các cá nhân một mặt tuân theo hệ giá trị chuẩn mực của xã hội, mặt khác vẫn hành động
rất khác nhau, chứ không nhất thiết theo khn mẫu cứng nhắc. Vì vậy các cá nhân tuỳ
thuộc vào nhu cầu, mức độ quan tâm của mình mà có những nhận thức và hành vi khác
nhau về vấn đề GDGT.

b.Thuyết cấu trúc - chức năng.
Theo lý thuyết câú trúc chức năng thì xã hội là một hệ thống tương đối chặt chẽ
được cấu thành từ các tiểu hệ thống. Đến lượt mình mỗi tiểu hệ thống lại được coi là một
hệ thống được cấu thành từ các tiểu hệ thống nhỏ hơn...Mỗi bộ phận của hệ thống hoặc
tiểu hệ thống đều giữ những vai trò nhất định phù hợp nhằm duy trì sự ổn định và đảm
bảo sự phát triển của toàn bộ hệ thống. Mở rộng ra cho bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào
trong xã hội cũng đều có những chức năng riêng của mình, mà nếu thiếu đi sự vật, hiện
tượng ấy cùng những chức năng tương ứng của nó thì xã hội khơng thể tồn tại được.
Vận dụng quan điểm này có thể xem xét nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội
là những tiểu hệ thống và hoạt động giáo dục tri thức khoa học cũng như GDGT là những
tiểu hệ thống nhỏ hơn. Và trong đời sống xã hội nếu thiếu đi bất cứ một tri thức nào thì
con người khó có thể phát triển bình thường. Việc Giáo dục giới tính cho các em học sinh
THPT phải được xem là việc cần làm ngay và là trách nhiệm của cả gia đình, nhà trường
và xã hội nhằm giúp các em có thể phát triển một cách hài hồ về thể chất và tâm hồn
c.Lý thuyết nhu cầu của Maslow.

8


Nhu cầu thể hiện sự đòi hỏi của cơ thể sống đối với mơi trường bên ngồi thể hiện
thành những ứng xử tìm kiếm, nếu khơng thì thiếu những điều kiện tồn tại và phát triển.
Maslow là người đầu tiên đưa ra hệ thống các nhu cầu của con người. Thuyết về thang
phân cấp nhu cầu của ông được chia thành 5 bâc: từ nhu cầu vật chất đến nhu cầu hoàn
thiện và phát huy tiềm năng của bản thân.
1. Các nhu cầu về sinh lý: ăn, ngủ...
2. Các nhu cầu về an toàn an sinh.
3. Nhu cầu về xã hội văn hoá.
4. Nhu cầu tự trọng
5. Nhu cầu tự thể hiện, tự khẳng định.
Mọi hành vi của con người đều do sự thúc đẩy của những nhu cầu nhất định. Mỗi

cá nhân khác nhau trong hoàn cảnh khác nhau sẽ có nhu cầu khác nhau và ở cấp bậc khác
nhau, nhưng phải đáp ứng được nhu cầu bậc thấp mới đi đến đáp ứng được nhu cầu bậc
cao hơn.
Sử dụng lý thuyết này vào đề tài nghiên cứu để chỉ ra rằng: việc trẻ trong độ tuổi
dậy thì có nhu cầu được hiểu biết các vấn đề về giới tính là tất yếu nhằm đáp ứng nhu cầu
của chính bản thân các em.
d. Lý thuyết vai trò
Theo Ralph Linton, vai trò là một quan điểm cơ bản trong lý thuyết xã hội học nó
đánh giá cao những mong đợi xã hội gắn với những vị thế cụ thể và phân tích thực hiện
những mong đợi. Mỗi cá nhân có một loại vai trị được đem lại từ những hình mẫu xã hội
khác nhau mà anh ta tham dự. Trong tiến trình cuộc đời của mỗi cá nhân thực hiện một số
những vai trò khác nhau lần lượt hoặc đồng thời và tổng hợp tất cả các vai trò xã hội của
anh ta được thực hiện từ khi sinh ra cho đến lúc chết tạo thành nhân cách xã hội của anh
ta. Ralph Linton nói chúng ta giữ địa vị nhưng chúng ta đóng các vai trị. Vai trị và địa vị
khơng thể tách rời nhau. Khơng thể có vai trị mà khơng có địa vị hoặc ngược lại. Vai trò
trở thành tập hợp các quyền và nghĩa vụ đã được thể chế hố có nghĩa là với vị trí mà các
nhân xã hội hay tổ chức nắm giữ thì chủ thể xã hội đó cần thực hiện tốt những mong đợi,
bổn phận, trách nhiệm ở vị trí đó.
Ở đề tài này có thể thấy vai trị của nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội là có
trách nhiệm giáo dục những tri thức khoa học cũng như những tri thức xã hội cho học
sinh. Vai trị đó được thực hiện khi nhà trường, gia đình, cộng đồng xã hội tham gia vào
9


việc giáo dục học sinh thoả mãn những mong đợi của xã hội đối với nghĩa vụ và trách
nhiệm của trường học. .
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chưa bao giờ GDGT được quan tâm nhiều như hiện nay trên phạm vi toàn thế
giới, nhất là sau hai hội nghị quốc tế ở Cairo 1994 ( Dân số và phát triển) và Bắc Kinh
1995 ( Diễn đàn phụ nữ) vì xã hội đã nhận thấy những nguy cơ hiển nhiên của việc không

coi trọng đúng mức ý nghĩa giáo dục và phịng ngừa của bộ mơn GDGT này.
Hầu hết các nước Châu Âu đều coi GDGT là một vấn đề lành mạnh. Cịn ở nhiều
nước Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, vấn đề GDGT vẫn được coi là vấn đề “
nhạy cảm” do xuất phát từ tư tưởng phong kiến. Nhưng trong những năm trở lại đây,
trước xu thế phát triển của xã hội, vấn đề GDGT được đề cập nhiều hơn trên các phương
tiện truyền thông đại chúng qua sách báo, TV.
Cuốn sách “ Sức khoẻ vị thành niên” là tài liệu do Trung tâm Bảo vệ bà mẹ trẻ em
kế hoạch hố gia đình hợp tác với Thụy Điển đem lại những thông tin quý giá giúp định
hướng hành động GDGT và chăm sóc SKSS vị thành niên.
Cuốn sách “ Giáo dục giới tính vì sự phát triển của vị thành niên” của bác sĩ Đào
Xuân Dũng đã cho thấy sự cần thiết phải GDGT cho trẻ ở độ tuổi vị thành niên.
TS Hoàng Bá Thịnh chủ biên với cuốn sách " Một số nghiên cứu về SKSS ở Việt
Nam sau Cairo" của NXB Chính trị quốc gia.
Ngồi những cuốn sách nói về GDGT phải kể đến các cơng trình nghiên cứu, các
bài báo trên tạp chí.
Trường ĐH Y Thái Bình với “ báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu SKSS Vị thành
niên ở 5 tỉnh của Việt Nam” Nghiên cứu cho biết tỉ lệ VTN có được thơng tin từ nhà
trường trong các lĩnh vực SKSS.
Nguyễn Linh Khiếu với bài viết “ Tình bạn, tình yêu, tình dục tuổi vị thành niên”
(t/c Khoa học về phụ nữ, số 3/2000). Bài viết là kết quả nghiên cứu khía cạnh tình bạn,
tình u trong một dự án về SKSS vị thành niên năm 1998.
Một bài báo khác đăng trên t/c Khoa học về Phụ nữ, số 3/2003 của Nguyễn
Phương Thảo, “ Vị thành niên và vấn đề Sức khoẻ sinh sản” Bài viết phân tích hiểu biết
của VTN về những nội dung cơ bản của SKSS như: tuổi dậy thì, tình dục, mang thai, các
biện pháp tránh thai...
10


Tạp chí Khoa học và phụ nữ số 3/2001 của các tác giả Đồn Kim Thắng và Dương
Chí Thiện đã có nghiên cứu về “ Giáo dục giới tính và SKSS VTN”. Bài viết đã đưa ra

thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của trẻ em VTN đối với giáo dục SKSS VTN và
GDGT.
Nghiên cứu khác được thực hiện tại Hà Nội với nội dung “ Nhu cầu GDGT và
SKSS của học sinh THPT” nghiên cứu trường hợp 4 trường nội thành Hà Nội ( tạp chí
XHH số 4, 2002) của 3 tác giả Đoàn Kim Thắng, Phạm Thị Văn, Phạm Quốc Thắng.
Nghiên cứu nêu lên thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi và nhu cầu học sinh THPT về
GDGT.
Ngồi ra cịn các khố luận tốt nghiệp
“ GDGT cho con cái trong gia đình hiện nay” năm 1997 của Phạm Thị Kim
Xuyến.
“Tìm hiểu nhận thức và hành vi chăm sóc SKSS của VTN Việt Nam hiện nay” của
Bùi Thu Hương năm 2002
“Vai trò của cha mẹ trong việc Giáo dục SKSS VTN trong các gia đình cơng nhân
viên chức ở thị xã Tam Điệp, Ninh Bình hiện nay” của Nguyễn Thanh Hương năm 2005.
Tuy nhiên có rất ít các đề tài nghiên cứu về thực trạng nhận thức của học sinh
THPT về vấn đề GDGT. Việc dạy và học GDGT trong các trường THPT hiện nay ra sao?
Nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội đóng vai trò như thế nào trong việc GDGT. Đề
tài nghiên cứu này mong muốn làm rõ những vấn đề trên.
1.3. Một số khái niệm công cụ
1.3.1 Nhận thức.
Theo nghĩa triết học, nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện thực ở
trong tư duy của con người, được quy định bởi những quy luật phát triển xã hội và không
thể tách rời với thực tiễn. Mục tiêu của nhận thức là đạt đến chân lý khách quan. Quá
trình nhận thức: thu thập kiến thức, hình thành khái niệm về hiện tượng thực tế giúp con
người hiểu biết về thế giới xung quanh. Quá trình nhận thức là để tích luỹ tri thức, tích
luỹ kinh nghiệm từ đó cải tạo thế giới.
Như vậy, nhận thức là sự phản biện biện chứng thế giới khách quan vào trong bộ
óc của con người, là q trình xâm nhập ý chí con người vào hiện thực làm cho hiện thực
chịu sự chi phối của chủ thể và quá trình nhận thức chính là q trình con người làm
phong phú thêm tri thức bằng những tri thức mới.

11


Nhận thức nảy sinh, bộc lộ và phát triển trong sự tương tác giữa chủ thể nhận thức
và khách thể nhận thức trong quá trình phản ánh hiện thức khách quan.
Chủ thể nhận thức là con người, trong tính hiện thực của nó,mà bản chất con
người là tổng hồ các mối quan hệ xã hội. Con người với tư cách là chủ thể nhận thức,
nhận thức của con người bị chi phối bởi các yếu tố sau:
- Nhu cầu lợi ích: mỗi cá nhân, nhóm người đều có những nhu cầu lợi ích nhất
định.
-Truyền thống văn hố dân tộc và điều kiện kinh tế xã hội khác nhau được phản
ánh khác nhau ở những người khác nhau.
-Các tri thức của thế hệ trước để lại đối với tong cá nhân có sự kế thừa hay bác bỏ
ảnh hưởng rất lớn tới nhận thức của họ.
- Đặc điểm tâm sinh lý của từng người: Vì chủ thể nhận thức là con người nên phụ
thuộc nhiều vào đặc điểm sinh học di truyền, bẩm sinh.
-Trình độ phát triển cụ thể của mỗi cá nhân về mặt sinh học.
Khách thể nhận thức: Là đối tượng mà nhận thức hướng vào, khách thể nhận thức
khơng đồng nhất với thế giới vật chất vì khách thể nhận thức không những chỉ hướng vào
thế giới vật chất mà còn hướng vào thế giới tinh thần.
Khách thể nhận thức của nghiên cứu này là toàn bộ quá trình giáo dục giới tính
bao gồm: nội dung GDGT, cơng tác tuyên truyền giáo dục, …
Giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức có mối quan hệ biện chứng khơng
thể tách rời trong q trình nhận thức. Khách thể nhận thức được phản ánh mang đậm
tính cá nhân thơng qua cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tư tưởng…làm cho chủ thể nhận
thức có thái độ, tình cảm đối với khách thể nhận thức và hành động tương ứng.
Hoạt động xã hội vànhận thức có mối quan hệ biện chứng. Cội nguồn của nhận
thức là tính tích cực hoạt động, hiệu quả hoạt động phụ thuộc vào nhận thức. V.I Leenin
đã viết :”Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường
biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”

Nhận thức là sự phản ánh thế giới xung quanh, “nhận thức là biết được, hiểu được,
ý thức được” thế giới xung quanh thông qua các hoạt động thực tiễn và từ sự nhận thức
đó con người tiến hành các hoạt động thực tiễn, thông qua đó nâng cao hiểu biết của
mình.
12


1.3.2. Khái niệm vị thành niên
Quá trình phát triển của một đứa trẻ từ khi sinh ra tới khi trưởng thành trải qua các
giai đoạn phát triển khác nhau với các đặc đIểm tâm sinh lý đặc trưng. Tuổi vị thành niên
là giai đoạn cuối cùng trong quá trình phát triển của trẻ em. Đó là giai đoạn chuyển tiếp
từ trẻ em thành người lớn. Việc xác định chính xác tuổi bắt đầu và kết thúc của tuổi vị
thành niên là khơng đơn giản. Mỗi tác giả có những quan niệm khác nhau. Chẳng hạn
E.Spranger cho rằng tuổi vị thành niên là từ 14 tới 17 tuổi;
Đ.Bromlei lại coi tuổi vị thành niên là từ 11 đến 15 tuổi;
nhà tâm lý học Xô viết Đ.B.Encônhin cho rằng lứa tuổi vị thành niên là từ 11 cho
tới hết 15
Theo các nhà Tâm lý học Việt Nam thì tuổi vị thành niên gồm hai giai đoạn là:
giai đoạn học sinh THCS (hay thiếu niên) và giai đoạn học sinh PTTH (hay giai đoạn đầu
của tuổi thanh niên). Theo chúng tôi, khái niệm trẻ em vị thành niên là khái niệm dùng để
chỉ những trẻ có độ tuổi từ 11 tới 17 tuổi, là lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ em lên người lớn.
1.3.3. Khái niệm giáo dục giới tính
Giáo dục giới tính là một thuật ngữ rộng miêu tả việc giáo dục về giải phẫu
sinh dục, sinh sản, quan hệ tình dục,sức khoẻ sinh sản, các quan hệ tình cảm, quyền sinh
sản và các trách nhiệm, tránh thai, và các khía cạnh khác củathái độ tình dục lồi người.
Những cách giáo dục giới tính thơng thường là thơng qua cha mẹ, người chăm sóc, các
chương trình trường học và các chiến dịch sức khoẻ cộng đồng.Nhằm mục đích :
- Giúp giới trẻ có những hiểu biết cơ bản về các đặc điểm giới tính, về q trình sinh sản
ở người, về các bệnh lây lan do quan hệ tình dục.
- Có ý thức và biết cách đánh giá đúng đắn hành vi của mình và của người khác trong

mối quan hệ với người khác giới, xây dựng đúng đắn tình bạn, tình yêu chân chính.
- Chuẩn bị về mặt tâm lí và thực tiễn cho cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, tư cách làm
cha, làm mẹ trong tương lai.
( từ điển Bách khoa Việt Nam 2, NXB từ điển Bách khoa Hà Nội, 2002_
Như vậy, Giáo dục giới tính nhằm giáo dục mối quen hệ nhân văn và có trách
nhiệm giữa nam và nữ trên các khía cạnh sinh học, sức khỏe sinh sản và tình dục. GDGT
là một khoa học liên ngành (tâm lý, y học, xã hội học)
13


Giáo dục giới tính là sự chuẩn bị cho thanh thiếu niên những hiểu biết để bước
vào đời để biết ứng xử với nhau một cách tơn trọng và có trách nhiệm và cũng biết tự bảo
vệ sức khỏe sinh sản.
1.4. Tổng quan địa bàn nghiên cứu :
Trường THPT ......được thành lập theo số 134/QĐUB của UBND Tỉnh .......
ngày 13/07/2005 trên cơ sở nâng cấp trường THCS BC Lộc Phát.Trường tọa lạc trên mặt
tiền của tỉnh lộ (Tp.Bảo Lộc - Huyện Bảo Lâm) số ….. Nguyễn …. - Phường ….. Tp. .... - Tinh ........ Theo luật giáo dục 2005 là xóa loại hình trường bán cơng. Ngày
27/02/2008 UBND Tỉnh ....... đã ra quyết định số 530/QĐ-UBND chuyển trường thành
“trường THCS & THPT ......” với cơ chế tự chủ về tổ chức bộ máy, sử dụng lao động(nhà
nước không giao chỉ tiêu biên chế) và tự chủ một phần tài chính(35%). Theo nghị định số
43/2006/NĐ-CP của Chính Phủ (04/2006) nhà trường tuyển sinh học sinh chủ yếu tại 4
phường, xã phía đơng Tp. ...... Dân cư chủ yếu là đồng bào cơng giáo di cư từ từ miền
Bắc(1954). Có thu nhập chủ yếu dựa vào trồng chè và cà phê
Đặc điểm tình hình của năm học 2013 - 2014:
a. Cơ sở vật chất:
- Phịng học: 26, trong đó phịng học: 22; phịng thí nghiệm: 04
- 01 phịng thư viện
- 01 kho chứa TBDH
- 02 phịng máy vi tính
- 01 phịng Hiệu trưởng, 2 phịng phó hiệu trưởng, 1 phịng đồn thể, 1 phịng kế

tốn, 1 phịng văn thư, 1 phịng chờ giáo viên, 1 phòng hội trường.
b. Đội ngũ giáo viên – nhân viên:
Tổng số CB-GV-CNV: 61, trong đó:
- Ban giám hiệu: 03 (02 thạc sỹ)
- Giáo viên: 50, trong đó:
+ Tổ Tốn: 09
+ Tổ Lý – Cơng nghệ: 06
+ Tổ Hóa - Tin: 09
+ Tổ Sinh – Thể dục – GDQP: 07
+ Tổ Ngữ Văn: 06 (có 02 thạc sỹ)
+ Tổ Sử - Địa – GDCD: 07 (có 02 thạc sỹ)
- Nhân viên: 08
c. Học sinh:
- Khối 10: 243 học sinh/7 lớp
- Khối 11: 309 học sinh/9 lớp
14


- Khối 12: 210 học sinh/6 lớp
Tổng cộng: 762 học sinh trong đó: nữ: 334 học sinh; dân tộc: 16 học sinh, hộ đói
nghèo và cận nghèo: 111 học sinh, mồ côi: 20 học sinh.

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG VÀ GIÁI PHÁP GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT .......
I.Đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi vị thành niên.
Vị thành niên (VTN) là những người ở lứa tuổi từ 10-19. Năm 1998, trong một tuyên bổ
chung giữa Tổ chức Y tế thế giới (WHO), quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) và
Quỹ dân số (UNFPA) đã thống nhất phân loại nam nữ còn trẻ thành 3 loại như sau :
Vị thành niên (Adolascent) : 10 – 19 tuổi
Thanh niên (Youth) : 15 – 24 tuổi

Người trẻ (yong people) : 10 – 24 tuổi
Với định nghĩa nói trên, VTN chiếm 20% dân số thế giới. Trong khi khái niệm
thanh niên khác nhau theo từng nền văn hóa thì tồn thế giới ngày càng nhất trí rằng tuổi
VTN là một giai đoạn khác biệt và quan trọng trong cuộc sống con người.
Trong nghiên cứu này thì chú ý đến VTN ở lứa tuổi từ 15 – 17 tuổi (đang học
THPT). Đây là lứa tuổi đã và đang trong giai đoạn dậy thì, là giai đoạn thay đổi một cách
tồn diện về tâm lý và tình cảm của mỗi cá nhân.
1. Về thể chất :
Thời kỳ dậy thì ở tuổi VTN trong giai đoạn này diễn ra sự thay đổi mạnh mẽ về
thể chất như: sự thay đổi của cơ thể, phát triển và hoàn thiện về chiều cao, cân nặng…Ờ
15


nước ta, theo một số chương trình nghiên cứu khoa học, tuổi dậy thì của các em chậm từ
1-3 năm so với thế giới. Các em gái Việt Nam có tuổi dậy thì khoảng 12 tuổi , chậm vào
khoảng 18 tuổi. Các em gái ở đô thị thường bước vào tuổi dậy thì sớm hơn các em gái ở
nơng thơn.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay thì tuổi dậy thì của các em ngày nay đến sớm
hơn thế hệ trước. Một số liệu cụ thể sau đây cho thấy : Trước khi trẻ lên 8, trọng lượng
toàn bộ bắp thịt chiếm 27% trọng lượng toàn thân. Trước khi trẻ lên 14 tuổi, trọng lượng
toàn bộ bắp thịt chiếm 32% trọng lượng tồn thân. Đến 15- 16 tuổi thì tăng vọt về trọng
lượng vì chỉ riêng trọng lượng bắp thịt đã chiếm 43% trọng lượng tồn cơ thể.
Như vậy, có nghĩa là từ 8 đến 14 tuổi trọng lượng các bắp thịt chỉ tăng có 5%. Từ
14 – 16 tuổi trọng lượng các bắp thịt tăng lên tới 12%. Do ảnh hưởng của một số nội tiết
như tuyến giáp trạng (bao quanh bên ngồi phía trên cổ họng) và tuyến n (như một cái
mấu năm phía dưới bộ óc) tiết ra những chất kích thích làm xương phát triển nhanh.
Mặt khác, do tuyến yên hoạt động mạnh cho nên các tuyến sinh dục cũng phát
triển mạnh dần lên và tiết ra nhiều chất hoocmon có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của
các cơ quan có chức năng thực hiện quá trình sinh đẻ sau này. Vì vậy, thời kỳ này về mặt
chuyên môn người ta gọi sự biến đổi trong cơ thể các em là sự phát dục. (3)

2. Về tâm lý :
Cùng với sự phát triển về sinh lý, thể chất của tuổi dậy thì, sự biến đổi về tâm lý
cũng diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp. Xuất hiện nhiều cảm xúc về giới tính được bộc
lộ ra trước đây chỉ ở dạng tiềm năng. Xuất hiện nhiều những thắc mắc, băn khoăn lo lắng
trước sự biến đổi của cơ thể.
Trong thời kỳ này, do hệ thống tuền hoàn máu nảy sinh hiện tượng mâu thuẫn tạm
thời, cụ thể là tim của các em phát triển mạnh có nhiều khả năng hoạt động nhưng mạch
phát triển chậm hơn gây trở ngại, khiến cho tim hoạt động khơng đều. Hậu quả của tình
trạng này là máu của óc khi tăng khi giảm. Điều này ảnh hưởng đến tâm trạng của các
em, nhất là các em gái “đa cảm”, các em thường có cảm giác “căng thẳng, mệt mỏi, đơi
khi hoa mắt chóng mặt. Hệ thần kinh đối với hoạt động của hệ tim mạch chưa hoàn thiện,
do đó nhiều khi nhịp tim của các em bị kích thích nhưng thần kinh khơng kiểm sốt được,
nhịp tăng lên đột ngột dễ gây những cảm xúc tiêu cực bột phát : giận dỗi…(3)
Tính cách đặc trưng của lứa tuổi vị thành niên là tính trẻ con và tình người lớn pha
trộn – một người lớn chưa đủ chín chắn, thích bắt chước người lớn nhưng lại khơng có
trách nhiệm của người lớn, chuẩn bị trở thành người lớn nhưng lại chống đối và bỡn cợt
16


cả người lớn. Chình vì tính cách đó mà VTN ln muốn thử sức, ln muốn tự khẳng
định, thích mạo hiểm nhưng một khi gặp khó khăn, đau khổ, hay thất bại lại chưa đủ bản
lĩnh để lí giải, chống chịu và vượt qua, cho nên nhiều khi rơi vào trạng thái khủng hoảng
tâm lí, mất cân bằng, khơng làm chủ của bản thân…
Những nét cơ bản về tâm lý tuổi VTN sẽ giúp chúng ta nhận biết rõ hơn về những
thay đổi của VTN nói chung và học sinh THPT nói riêng. Đặc biệt, đối với đề tài nghiên
cứu này,việc hiểu biết một cách rõ ràng và khoa học là một điều quan trọng và cần thiết
cho việc phân tích nội dụng nghiên cứu trong đề tài.Từ đó tại trường THPT ......chúng tôi
cũng đã được ra được các giải pháp cho hoạt động giáo dục giới tính trong nhà trường,
gia đình, xã hội.


II– Thực trạng nhận thức về giáo dục giới tính của học sinh THPT ......
Trong những năm gần đây nhiều nhà khoa học, nhiều cơng trình nghiên cứu đã
chứng minh thanh thiếu niên ngày nay dậy thì sớm hơn trước. Cuộc điều tra quốc gia về
vị thành niên và thanh niên (SAVY) năm 2003 cho thấy rằng, tuổi trung bình có kinh lần
đầu ở nữ là 14.5 tuổi và mộng tinh (xuất tinh) ở nam là 15.6 tuổi . Cũng theo điều tra của
(SAVY), phần lớn thanh niên ở độ tuổi này chưa có quan hệ tình dục nhưng chịu tác
động, ảnh hưởng sâu sắc của xã hội đến tâm lý do các thay đổi trong cơ thể. Nếu không
trang bị những kiến thức về giáo dục giới tính một cách đầy đủ và chuẩn bị sẵn sàng tinh
thần sẽ trở thành một trở ngại lớn đối với họ. Chính vì vậy, việc cung cấp thơng tin về
giáo dục giới tính cho thanh thiếu niên là việc làm cấp thiết hiện nay.
Trong thời gian gần đây, giáo dục giới tính đã được nhiều cấp ngành quan tâm và
đã được Bộ Giáo dục& Đào tạo đưa vào chương trình giảng dạy, tại hầu hết các trường
THP vấn đề giáo dục giới tính đã bắt đầu được chú trọng hơn. Tại trường THPT ......của
chúng tôi đã và đang thực hiện vấn đề giáo dục giới tính cho học sinh dưới nhiều hình
thức như là sinh hoạt ngoại khóa với chủ đề “Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản vị
thành niên” qua hình thức sân khấu hóa câu hỏi đố vui, viết bài về chủ đề này.
Ngoài ra giáo dục giới tính cịn được lồng ghép trong một số mơn học, trong các
tiết ngồi giờ lên lớp, hướng nghiệp hay thông qua câu lạc bộ kỹ năng sống, phòng tư vấn
tâm lý học đường,...

17


Theo phiếu khảo sát ý kiến giáo viên về vấn đề này, một giáo viên đã nhận xét:
“Một trong những vấn đề xã hội ngày nay là việc trẻ vị thành niên quan hệ tình dục khi
chưa có những hiểu biết đầy đủ về chăm sóc sức khỏe sinh sản, đặc biệt là bệnh lây qua
đường tình dục. Điều đó gây ra những hậu quả tai hại cho xã hội và ảnh hưởng đến chính
tương lai của các em.”
Với những ý kiến giáo viên đưa ra, chúng tôi đã tiến hành khảo sát về thực trạng
nhận thức của học sinh trường THPT ......về giáo dục giới tính. Sau khi khảo sát 280/700

học sinh trường THPT ......chúng tôi nhận được kết quả là khoảng 85.7% học sinh đều
nhận thức được những vấn đề liên quan đến giáo dục giới tính. Đây là điều có thể lý giải
được vì học sinh đã được học hỏi, tìm tịi qua sách báo, phương tiện thông tin đại chúng
và đặc biệt lồng ghép giáo dục giới tính tại nhà trường. Cũng chính vì vậy, cụm từ “giáo
dục giới tính” khơng cịn xa lạ đối với học sinh trường THPT .......

Cụ thể chúng tôi khảo sát nhận thức của học sinh về một số vấn đề sau:
1.

Nhận thức của học sinh về những kiến thức giáo dục giới tính

Nhận thức của học sinh về những kiến thức GDGT

18


Qua biểu đồ cho thấy, tỷ lệ học sinh biết về những kiến thức giáo dục giới tính là
khá cao, nhưng có sự chênh lệch giữa các nội dung. Theo đó, 85.71% học sinh biết được
nội dung liên quan đến giáo dục giới tính, bao gồm: tâm lý tuổi dậy thì, tình bạn, tình
yêu, tình dục, cơ quan sinh dục nam nữ, các biện pháp tránh thai, các bệnh lây qua đường
tình dục. Bên cạnh đó, vẫn có những học sinh chỉ biết đến một trong số các nội dung liên
quan đến giáo dục giới tính. Có sự chênh lệch này một phần là do những nội dung giảng
dạy trong nhà trường chưa trang bị được đầy đủ các kiến thức về giáo dục giới tính; mặt
khác do sự hiếu kỳ, tị mị học sinh tự tìm hiểu những vấn đề mà chúng thắc mắc; hơn
nữa vấn đề liên quan đến tình dục được coi là vấn đề nhạy cảm nên ở gia đình và nhà
trường khá e dè, ngại ngùng khi đề cập đến vấn đề này. Nhiều người quan niệm, giáo dục
giới tính là vẽ đường cho hươu chạy, mà họ qn rằng dù khơng vẽ đường thì hươu vẫn
chạy. Do đó dẫn đến những hậu quả như: yêu sớm, yêu vội, quan hệ tình dục ở tuổi vị
thành niên, tình dục khơng an tồn, mang thai sớm,....
Vì vậy, việc cung cấp thơng tin thỏa mãn tính hiếu kỳ cho học sinh bằng cách trang bị

cho các em những kiến thức về giáo dục giới tính một cách chính thống là việc làm cần
thiết, cấp bách. Từ đó, giúp các em tự giải đáp được những băn khoăn, thắc mắc và các
em sẽ ý thức được, sống có trách nhiệm hơn.
2.Nhận thức của học sinh về tình bạn, tình yêu
Tình bạn là tình cảm trong sáng nhất của mỗi con người, đó là nhu cầu tinh thần tất
yếu. Tình bạn tồn tại suốt đời và mang những màu sắc khác nhau.
Nhận thức của học sinh về tình bạn, tình u

Khơng
Ý kiến khác

46.65%
23.35%
30%

Qua điều tra tại trường THPT ......, có 46.65% học sinh quan tâm về vấn đề tình bạn.
Điều này đang trở thành một vấn đề đáng lo ngại trong nhà trường, có phải chăng đây là
một phần ảnh hưởng của sự vô cảm của giới trẻ hiện nay.
Tình bạn ở lứa tuổi vị thành niên bị thử thách mạnh mẽ bởi giai đoạn dậy thì, bởi giai
đoạn này các bạn có sự thay đổi về tâm lý, sự chuyển từ nhóm bạn cùng giới sang cả hai
giới, sự hình thành những đơi bạn thân khác giới hay sự ngộ nhận giữa tình yêu và tình
bạn.

19


Bạn có người yêu chưa?

Và cũng theo khảo sát, trong nhóm bạn chơi cả nam và nữ thì hầu hết khơng có sự
khác biệt giới. Điều nay cho thấy, xu hướng kết bạn khác giới ngày càng gia tăng. Tuy

nhiên theo một kết quả điều tra khác, một phần học sinh trả lời có những tình cảm vượt
q giới hạn tình bạn, trong đó khoảng 31.07% học sinh trả lời đã có người yêu và
khoảng 54.28% học sinh có sự hiểu biết về tình bạn và tình yêu. Nhưng ranh giới này rất
mong manh.

Lứa tuổi học sinh có nên yêu hay khơng?
Quan điểm của học sinh về việc có nên yêu khi đang đi học cũng rất khác nhau. Phần
lớn học sinh cho rằng nên yêu khi học phổ thông (123/280 – 43,92%) lí do các bạn đưa
ra đơn giản “lúc này mình đã lớn và khơng thể có tình bạn khác giới được”, cũng có ý
kiến cho rằng “khi yêu sẽ có người để tạo động lực cho học tập”
Đáng chú ý có 29,28% các bạn cho rằng khơng nên u khi đang cịn đi học .Với lí do
các bạn đưa ra là “chưa đủ chín chắn, ảnh hưởng tới việc học, bản thân chưa giải quyết
được các vấn đề gặp phải trong đời sống mà còn phải xin ý kiến thầy cô hay cha mẹ.

20



×