Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

giáo dục giới tính và cách ứng xử trong giao tiếp với bạn khác giới cho học sinh THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.02 KB, 20 trang )

Chuyên đề ngoại khóa Giáo dục giới tính cho học sinh THCS
A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
1. Khách quan
Hiện nay, việc giảng dạy giáo dục giới tính cho học sinh chưa được thực hiện
rộng rãi và phổ biến ở các trường trung học cơ sở (THCS) mà chỉ trên cơ sở lồng ghép
vào một số môn học như giáo dục công dân, sinh học,… với thời lượng vô cùng ít ỏi (1-
2 tiết).
Trong khi đó, ở lứa tuổi này, tâm - sinh lí các em đã có sự thay đổi lớn: cơ quan
sinh sản của các em đã phát triển, bản năng sinh dục xuất hiện một cách vô ý thức, song
song đó thì bộ não của các em cũng đã phát triển khá hoàn thiện, nảy sinh tình cảm với
bạn khác giới. Các em thích tìm tòi, học hỏi những gì liên quan tới sự thay đổi của cơ
thể mình. Nhưng kiến thức thì vô hạn, thông tin thì đa dạng, hàng ngày các em phải tiếp
xúc với nhiều môi trường, làm nhiều công việc khác nhau, trong đó sẽ có cả điều tốt xen
lẫn với điều xấu, điều cần có ở các em là những kiến thức và sự nhận thức đúng đắn để
các em bước vào đời vững vàng, không đi vào con đường lạc lối để ảnh hưởng tới tương
lai, vì thế tôi nhận thấy rằng việc giáo dục giới tính cho học sinh THCS là rất cần thiết
đối với các em.
2. Chủ quan
Bản thân tôi là một giáo viên trẻ, thời gian công tác tại trường chưa lâu. Tuy nhiên
trong năm học vừa qua, tôi đã chứng kiến một học sinh phải bỏ học vì có thai và một học
sinh khác phải nghỉ học vì gia đình ép lấy chồng. Có lẽ, nếu các em được giáo dục về
giới tính thì những chuyện đáng tiếc trên đã không xảy ra. Mặt khác, ở vai trò một giáo
viên dạy môn sinh học kiêm công tác chủ nhiệm, tôi đã nhận được nhiều câu hỏi rất
ngây ngô của học sinh như: “Có phải em bé được sinh ra từ lỗ hậu môn của mẹ không?”,
“Tại sao lại sinh ra pê-đê?” Hoặc: “Em yêu bạn ấy, lúc nào cũng nghĩ đến bạn ấy, em
không thể học được. Vậy em phải làm sao?... Điều đó cho thấy một thực trạng là: Kiến
thức về giới tính của học sinh còn quá nghèo nàn, ít ỏi. Do vậy, việc giáo dục giới tính
và cách ứng xử trong giao tiếp với bạn khác giới cho học sinh THCS là một việc cần
thiết và cấp bách.
1


Chuyên đề ngoại khóa Giáo dục giới tính cho học sinh THCS
II. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Thuận lợi :
- Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và đặc biệt là công nghệ thông tin..
- Kho tư liệu phục vụ cho việc viết và báo cáo đề tài đa dạng.
- Các em học sinh sắp sửa và đang ở độ tuổi trưởng thành (từ 11 đến 16 tuổi) nên
nhận thức và giáo dục về vấn đề giới tính dễ dàng hơn.
- Đa số các em có điều kiện tiếp xúc, tìm hiếu những kiến thức về giới tính khá dễ
dàng từ nhiều nguồn khác nhau.
2. Khó khăn :
- Giáo viên và học sinh còn khá e dè, xấu hổ khi đề đập đến nội dung giới tính.
- Chương trình giáo dục giới tính chưa được thực hiện phổ biến ở trường học nhất
là bậc học THCS.
- Chương trình học ngày càng nặng về kiến thức nên đòi hỏi cả giáo viên và học
sinh luôn phải tập trung vào chương trình học ở trường nên không có nhiều thời gian
dành cho việc tìm hiểu kiến thức về giới tính.
- Nhiều bậc cha mẹ vẫn còn cho rằng: Giáo dục giới tính là chuyện tế nhị, không
nên đưa vào trường học hay phổ biến rộng rãi, đó là hành động “vẽ đường cho hươu
chạy”, đến lúc rồi các em sẽ tự biết.
B. NỘI DUNG
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận
a. Khái niệm giáo dục giới tính (GDGT)?
Theo định nghĩa của ngành y tế, giáo dục giới tính là một thuật ngữ rộng miêu tả
việc giáo dục về giải phẫu sinh dục, sinh sản, quan hệ tình dục, sức khoẻ sinh sản, các
quan hệ tình cảm, quyền sinh sản và các trách nhiệm, tránh thai, và các khía cạnh khác
của thái độ tình dục loài người. Những cách giáo dục giới tính thông thường là thông
qua cha mẹ, người chăm sóc, các chương trình trường học và các chiến dịch sức khoẻ
cộng đồng.
Giáo dục giới tính giúp trẻ vị thành niên có một quan điểm tích cực về tình dục,

đồng thời cung cấp các thông tin và kỹ năng để trẻ vị thành niên có được thái độ và hành
2
Chuyên đề ngoại khóa Giáo dục giới tính cho học sinh THCS
vi đúng, hiểu biết và có trách nhiệm về những quyết định của mình. Các chương trình
giáo dục giới tính cần sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Một số quan điểm lo ngại rằng nếu cung cấp cho trẻ vị thành niên những thông tin
và giúp chúng phòng ngừa việc có thai và các bệnh lây truyền qua đường tình dục sẽ vô
tình thúc đẩy trẻ có hoạt động tình dục sớm và bừa bãi. Tuy nhiên, thực tế thực hiện giáo
dục giới tính ở nhiều nước cho thấy hoàn toàn ngược lại. Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
đã khảo sát 19 chương trình giáo dục giới tính trường học ở nhiều nước, tất cả đều cho
thấy trẻ vị thành niên có hoạt động tình dục trễ hơn, giảm hoạt động tình dục, biết cách
sử dụng các biện pháp ngừa thai một cách hiệu quả, và hoàn toàn không thúc đẩy trẻ có
hoạt động tình dục sớm và nhiều hơn. Giáo dục giới tính hiệu quả nhất khi thực hiện
trước khi trẻ bước vào tuổi hoạt động tình dục. Các bước tích cực này sẽ giúp khuyến
khích trẻ không hoạt động tình dục sớm và biết cách sinh hoạt tình dục một cách an toàn,
giảm thiểu thai ngoài ý muốn ở các em.
Cuộc sống hoàn toàn không dễ dàng đối với trẻ vị thành niên, nhất là trong hoàn
cảnh kinh tế xã hội hiện nay, đặc biệt đối với những trẻ không được chuẩn bị đầy đủ để
đối mặt với các vấn đề đặc thù của lứa tuổi. Thực trạng hiện nay đã và đang cho thấy
điều đó. Nếu chúng ta mong đợi trẻ vị thành niên những quyết định đúng đắn, có trách
nhiệm trước những cạm bẫy và thách thức của xã hội, chúng ta phải đảm bảo trẻ vị thành
niên được cung cấp đầy đủ thông tin, kỹ năng và phương tiện để quyết định và các giá
trị chúng cần tôn trọng và thực hiện. Chúng ta cần nhận thức rằng đã đến lúc để đặt kế
hoạch cho tương lai và chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện được điều đó.
b.Giáo dục giới tính có sự khác biệt nào với giáo dục tình dục?
Mục tiêu của GDGT là chuẩn bị cho tuổi mới lớn về tâm lý trước phát triển sinh lý,
về nhận thức để định hình nhân cách, tạo sức mạnh nội tâm đề kháng trước những bùng
nổ giới tính của bản năng có thể gây hại cho bản thân, xung quanh.
Giáo dục những hiểu biết về tâm lý, sinh lý, vệ sinh tuổi dậy thì, những biến đổi và
khác biệt về tính cách em trai em gái do các hocmon từ các tuyến sinh dục gây ra; giáo

dục kỹ năng giao tiếp ứng xử trong quan hệ giữa bạn trai, bạn gái ở tuổi vị thành niên
với cha mẹ, anh em trong gia đình; hiểu biết sâu sắc các giá trị của tình bạn, tình yêu,
hiểu biết những thất bại tâm lý và các nguy hại lâu dài phải gánh chịu nếu vượt qua trái
3
Chuyên đề ngoại khóa Giáo dục giới tính cho học sinh THCS
cấm; giáo dục bạn trai biết tự trọng, tôn trọng bảo vệ bạn gái, có bản lĩnh biết tự kiềm
chế để chứng minh cho một tình yêu lành mạnh nếu nó chớm nở; giáo dục kỹ năng
phòng vệ trước các áp lực nội tại đến từ hai phía, đặc biệt giáo dục kỹ năng phòng vệ
cho các em gái, và rất nhiều nội dung khác xoay quanh tâm lý giới tính tuổi mới lớn giúp
các em tự tin, tự chủ, tự hoàn thiện nhân cách, tự nhận thức để thay đổi hành vi, vững
vàng nói “không” trước cám dỗ của bản năng ở độ tuổi phát dục.
Như vậy GDGT và giáo dục tình dục tiếp cận giới trẻ ở hai độ tuổi khác nhau nên
nội dung khác biệt rất lớn, khiến không thể thay thế hay lồng ghép vào nhau được.
c. Tại sao phải giáo dục giới tính cho học sinh Trung học cơ sở?
Các nhà nghiên cứu từ nhiều năm nay đều cho rằng, học sinh ngày càng năng động,
thông minh hơn do điều kiện dinh dưỡng tốt, nhiều điều kiện thiết bị bổ trợ dẫn đến nhu
cầu nhận thức về mọi mặt vượt khung chương trình giảng dạy trong nhà trường, đặc biệt
là về lĩnh vực giới tính.
Tuổi dậy thì của các em đến sớm hơn so với trước đây. Ở nữ, tuổi dậy thì bắt đầu
từ 9-14, ở nam từ 12-15, nghĩa là giai đoạn các em đang ở bậc học Trung học cơ sở. Vì
vậy khi một học sinh lớp 6 đã hỏi về vấn đề tình dục, một số em nữ học lớp 5 đã có kinh
nguyệt, thì mãi đến lớp 8 các em mới được giới thiệu về những vấn đề này là quá muộn.
Ở giai đoạn dậy thì, các em phải trải qua những biến đổi to lớn về cơ thể cũng như
về tâm lí. Thậm chí có thể khiến các em bị khủng hoảng nếu không có sự chuẩn bị về
tâm lí, sự chỉ bảo của người lớn. Khi đó các em sẽ tự tìm hiểu, tự thể nghiệm theo những
thông tin trên sách báo, tivi, internet, …Tuy nhiên, các nguồn thông tin này không được
kiểm soát và thường chứa nhiều điểm đen, lệch lạc. Điều này đã gây ra nhiều hậu quả
đáng buồn như quan hệ tình dục quá sớm, có thai khi còn ngồi trên ghế nhà trường, phá
thai, bỏ học,…
Trẻ mới lớn cần chỉ dẫn về giới tính và các mối quan hệ. Nhưng ai sẽ là người các

em tìm tới khi gặp vấn đề về giới tính? Rất nhiều trẻ ngại nói chuyện với bố mẹ về tình
yêu, tình dục vì sợ bố mẹ có thể không chấp nhận quan điểm của mình. Nhiều trẻ quay
sang hỏi bạn bè và điều này có thể tạo nguy cơ cho trẻ vì những thông tin trẻ nhận được
không phải bao giờ cũng đúng. Người duy nhất có thể cung cấp nhiều thông tin nhất cho
4
Chuyên đề ngoại khóa Giáo dục giới tính cho học sinh THCS
trẻ là thầy cô giáo vì giáo viên (GV) là những người kề cận nhất với học sinh (HS) tại
trường học và hiểu HS nhất trong vấn đề giới tính.
Trong khi đó vấn đề giáo dục giới tính trong các nhà trường hiện còn khá sơ sài,
mang nặng tính hình thức khiến các em càng tò mò.
Thực tế này đặt ra vấn đề: Làm thế nào cung cấp cho thanh thiếu niên những kiến
thức, hiểu biết đúng đắn về tình bạn, tình yêu và sức khỏe sinh sản? Đáng tiếc là đến
thời điểm hiện tại, những chương trình tuyên truyền, địa chỉ tư vấn về vấn đề này còn dè
dặt và thiếu định hướng...
2. Cơ sở thực tiễn
a. Giáo dục giới tính trên thế giới
Ở các nước Âu Mỹ, giáo dục giới tính đã được đưa vào chương trình giáo dục từ
rất sớm và được xem như những bài học bắt buộc đối với học sinh.
Tại Pháp, giáo dục giới tính đã là một phần của chương trình học trong trường từ
năm 1973.
Tại Đức, giáo dục giới tính đã là một phần của chương trình học từ năm 1970. Từ
năm 1992 giáo dục giới tính được luật pháp quy định là trách nhiệm của chính phủ.
Hầu hết học sinh Hoa Kỳ đều nhận được một hình thức giáo dục giới tính ít nhất
một lần trong khoảng từ lớp 7 đến lớp 12; nhiều trường bắt đầu đề cập tới một số chủ đề
ngay từ lớp 5 hay lớp 6. Một cuộc điều tra về tình dục của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) liên quan tới thói quen của thanh niên châu Âu năm 2006 cho thấy, tuy có lối
sống khá thoáng nhưng tỉ lệ sinh trong độ tuổi vị thành niên và tỉ lệ nạo phá thai ở các
nước này rất thấp.
Sự xuất hiện và lan rộng khủng khiếp của căn bệnh thế kỷ AIDS đã mang lại một ý
nghĩa khẩn cấp mới cho chủ đề giáo dục giới tính. Tại nhiều nơi ở Châu Phi, nơi AIDS

đã trở thành bệnh dịch, giáo dục giới tính được coi là một chiến lược sống còn để bảo vệ
sức khoẻ cộng đồng.
Khảo sát các chương trình giáo dục giới tính ở Châu Á cũng đang có những mức
độ phát triển rất khác nhau. Indonesia, Mông Cổ, Hàn Quốc có khung chính sách hệ
thống về việc giảng dạy giới tính trong các trường học. Malaysia, Philippines và Thái
Lan đánh giá các nhu cầu sức khoẻ sinh sản thanh niên. Ấn Độ có các chương trình với
5
Chuyên đề ngoại khóa Giáo dục giới tính cho học sinh THCS
mục tiêu hướng tới trẻ em từ chín tới mười sáu tuổi. Tại Nhật Bản, giáo dục giới tính là
bắt buộc từ 10 hay 11 tuổi, chủ yếu đề cập tới các chủ đề sinh học như kinh nguyệt và
xuất tinh. Tại Trung Quốc và Sri Lanka, giáo dục giới tính truyền thống gồm đọc về
đoạn sinh sản trong các cuốn sách giáo khoa sinh học.
b.Thực trạng giáo dục giới tính ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề đưa chương trình giáo dục giới tính (GDGT) cho học sinh vào
chính khóa đã được nhắc đi nhắc lại trong nhiều năm qua, nhưng ngành giáo dục vẫn
chưa có những "động thái" cần thiết để thực hiện yêu cầu trên. Những giờ học về giới
tính ở các trường học còn rất hiếm hoi. Trong gia đình, ít bậc cha mẹ nào giảng giải cho
con cái mình những kiến thức về giới tính, tình dục. Chính vì thế mà giới trẻ phải tìm
hiểu những điều đó từ sách báo, mạng Internet, phim ảnh và cả những kênh không chính
thống…và tất nhiên bằng những hình thức đó các em sẽ tiếp cận luôn cả những vấn đề
không phù hợp lứa tuổi. Điều này đã dẫn đến những hậu quả hết sức đau lòng.
Trẻ vị thành niên (từ 10-17 tuổi) ở nước ta có khoảng 23,8 triệu người, chiếm 31%
dân số. Theo thống kê của Hội Kế hoạch hóa gia đình thì Việt Nam là một trong ba nước
có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới (1,2-1,6 triệu ca mỗi năm), trong đó 20% thuộc lứa
tuổi vị thành niên, thậm chí có em mới... 12 tuổi. Thống kê của bệnh viện Phụ sản Từ Dũ
TP.HCM cho thấy, trong năm 2002 có 224 trường hợp nạo phá thai ở độ tuổi từ 11 đến
16, tăng hai, ba lần so với năm 2001. Bên cạnh đó, mỗi năm bệnh viện còn tiếp nhận hơn
10 sản phụ tuổi từ 12 đến 14. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam
cho thấy, 7.6% trong độ tuổi này có quan hệ tình dục trước hôn nhân.
Bên cạnh đó, tỉ lệ thanh thiếu niên phạm pháp về các tội hiếp dâm, giết người vì

ghen tuông,… ngày càng tăng. Số lượng trẻ em bị xâm hại tình dục do thiếu hiểu biết về
giới tính tăng đến mức báo động. Từ năm 2008 đến nay, trung bình mỗi năm có trên
1.000 trẻ em Việt Nam bị xâm hại tình dục. (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội công
bố tại Tại hội thảo quốc gia “Phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em” năm 2010).
6
Chuyên đề ngoại khóa Giáo dục giới tính cho học sinh THCS
Nguyễn Bảo Tùng- Học sinh lớp 9 Trường
THCS Hương Khê - Hà Tĩnh
Thủ phạm hiếp dâm một bé gái 8 tuổi
Hậu quả của việc xem phim đồi trụy.
Hai học sinh lớp 9- THCS Tràng Định –Lạng
Sơn
Thủ phạm hãm hiếp và giết người. Chỉ vì mê
muội những trang web đen
Học sinh THCS đâm chết bạn vì ghen
tuông
Những "yêu râu xanh" tuổi vị thành niên.
Học sinh THCS hãm hiếp tập thể trẻ 14 tuổi
vì xem phim đồi trụy.
Những con số trên và tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS đang ngày càng gia tăng đã đặt ra
một nhiệm vụ cấp bách đó là cần tiến hành giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho học
sinh ngay từ cấp THCS.
Giáo dục giới tính cho học sinh không phải là việc của riêng một cá nhân, tập thể
mà là việc của toàn gia đình, nhà trường và xã hội. Tuy nhiên, thực tế địa phương cho
thấy đa số các bậc phụ huynh có trình độ dân trí chưa cao, còn bảo thủ về vấn đề giáo
dục giới tính. Vì vậy, nhà trường phải nắm vai trò chủ đạo trong việc này.
Từ những cơ sở trên, tôi khẳng định: “Trong thời đại phát triển như hiện nay, việc
đưa nội dung giáo dục giới tính vào giảng dạy cho học sinh ngay từ bậc học THCS là
vấn đề rất cần thiết và cấp bách”.
7

Chuyên đề ngoại khóa Giáo dục giới tính cho học sinh THCS
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối với đề tài này, tôi đã tiến hành nghiên cứu theo các phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Đối tượng giáo dục giới tính
Học sinh THCS, từ 11- 16 tuổi.
2. Mục đích của chuyên đề Giáo dục giới tính cho học sinh THCS
Mục đích của chuyên đề này là cung cấp cho học sinh THCS hệ thống kiến thức
cơ bản, chính xác, hữu ích về giới tính. Từ đó, giúp các em hình thành nhận thức đúng
đắn về vấn đề này, có trách nhiệm trong các mối quan hệ, tránh được những hậu quả
đáng tiếc có thể xảy ra. Như vậy, các em sẽ bước vào đời vững vàng hơn, tránh những
con đường sai lầm ảnh hưởng đến tương lai.
Vấn đề không dừng lại ở việc giáo dục để các em hiểu sự phát triển tự nhiên của
bản thân mình và người khác giới, những điều có thể xảy ra trong quan hệ tình dục hay
hậu quả tai hại của việc mang thai sớm mà còn phải giáo dục để các em nhận thức sâu
sắc giá trị cao đẹp của tình bạn, tình yêu, giáo dục những khía cạnh đạo đức về giới tính
và hình thành những phẩm chất đặc trưng cho phái tính ở các em.
3. Nội dung giáo dục giới tính
Theo Thạc sĩ tâm lý Đinh Đoàn, Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa học về
giới tính - gia đình - phụ nữ và vị thành niên (CSAGA) lập luận: “10, 11 tuổi là thời kỳ
tiền dậy thì, nên cung cấp những kiến thức như các em học sinh nữ thời gian tới sẽ phải
đón nhận hiện tượng kinh nguyệt như thế nào, để khoảng lớp 6, 7 khi có kinh thì các em
đã biết. Đối với học sinh nam 12, 13 tuổi thì khi phát triển hệ lông hoặc tinh trùng thì các
em không phải lo lắng. Các em nên ăn mặc thế nào, ứng xử với các bạn khác giới ra
sao... Còn quá trình thụ thai, trứng và tinh trùng đã kết hợp với nhau như thế nào? Phụ
nữ có thai nên và không nên làm gì? nên dành cho học sinh tuổi 14, 15.”
Như vậy, căn cứ vào đặc điểm phát triển của lứa tuổi, giáo dục giới tính cần phải
được tiến hành từ lớp 6 đến lớp 9 với nội dung tương ứng như sau:

a. Học sinh khối lớp 6, 7 (Độ tuổi 11 – 14)
8

×