Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Đề tài: "Bước tiến mới trong tư duy lý luận của đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh từ đại hội VII đến đại hội IX" pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.44 KB, 15 trang )


Luận văn
Đề tài: Bước tiến mới trong tư duy lý luận của
đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh từ đại hội VII đến
đại hội I
……… , tháng … năm …….
1
MỤC LỤC
Phần thứ nhất.
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích yêu cầu 5
3. Đối tượng nghiên cứu 9
4 Phương pháp nghiên cứu 15
5. Phạm vi nghiên cứu 17
2
PHẦN THỨ NHẤT
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) đã trân trọng ghi vào
cương lĩnh và điều lệ của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”. Đây là một quyết
định có tầm lịch sử, chẳng những có ý nghĩa tuyên ngôn trong cuộc đấu tranh bảo vệ
tư tưởng Hồ Chí Minh trước sự phủ định của các thế lực thù địch và bọn cơ hội mà
còn đánh dấu bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng
ta.
Cũng như chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là những
giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động. Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí
Minh, một mặt là để nắm được nội dung cốt lõi và phương pháp luận cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh, mặt khác – quan trọng hơn – là để tìm cách vận dụng giá trị kim
chỉ nam đó vào thực tế cuộc sống hiện nay.
Để tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành kim chỉ nam cho hành động của
Đảng, toàn dân thì một mặt phải đẩy mạnh việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh


một cách cơ bản, hệ thống ngang tầm với vị trí là nền tảng tư tưởng của Đảng; phải tổ
chức việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh một cách nghiêm túc từ trên xuống dưới
nhằm vận dụng và phát triển tư tưởng đó vào thực tiễn công tác của mình; mặt khác
phải tìm cách đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống, dưới nhiều hình thức, sát
hợp với trình độ mỗi tầng lớp nhân dân, có như vậy mới làm cho tư tưởng Hồ Chí
Minh thật sự giữ địa vị chỉ đạo trong đời sống chính trị - tinh thần của xã hội ta.
Trong nhiều năm qua, kể từ Đại hội VII, vấn đề đổi mới nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng luôn là vấn đề được Đảng ta quan tâm. Và quá trình này được Đảng ta
3
tiến hành từ ngay Đại hội VII. Có thể nói rằng, từ Đại hội VII (6-1991) đến Đại hội X
(4-2001), quá trình đổi mới này đã hoàn thiện về căn bản.
2. MỤC ĐÍCH - YÊU CẦU:
Mục đích: Giúp mọi người nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Yêu cầu : Nắm vững được tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Cùng với chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho
hành động của Đảng.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Kết hợp phương pháp logic với so sánh, tổng hợp, phân tích, chứng minh…
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Thông qua nội dung các văn kiện Đại hội Đảng từ Đại hội VII (6-1991) đến
Đại hội IX (4-2001).

4
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG ĐỀ TÀI
“BƯỚC TIẾN MỚI TRONG TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TỪ ĐẠI HỘI VII ĐẾN ĐẠI HỘI IX”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng diễn ra trong tháng 6 – 1991,
có nhiệm vụ tổng kết thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, đánh giá những việc làm
được, chưa làm được và đề ra phương hướng cho sự phát triển của đất nước trong
những năm tiếp theo. Ý nghĩa trọng đại của Đại hội VII còn ở chỗ, đây là lần đầu tiên
Đại hội thông qua cương lĩnh vạch ra những quan niệm và các phương hướng cơ bản
về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thông qua chiến lược ổng định và
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Khi đề cập “Về vấn đề Đảng”, văn kiện Đại
hội VII và cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH có những
nội dung liên quan tới tư tưởng Hồ Chí Minh:
1, Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
2, Cái mới trong các văn kiện Đại hội lần này là cùng với chủ nghĩa Mác – Lê
nin, Đảng nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh.
3, Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lê nin trong điều kiện cụ thể của nước ta.
4, Trong thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý
báu của Đảng và của dân tộc.
5
5, Tư tưởng Hồ Chí Minh là phù hợp với thực tế cách mạng nước ta, phù hợp
với tình cảm và nguyện vọng của toàn đảng, toàn dân ta.
Như vậy, cùng với việc đưa ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH, Đại hội VII là một mốc son khẳng định một nấc thang quan trọng
trong nhận thức của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đây trở đi, việc nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh được đẩy mạnh cả về chiều sâu lẫn bề rộng. Về nghiên cứu
khoa học, chương trình khoa học – công nghệ cấp nhà nước mang mã số KX.02
nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh được triển khai từ năm 1991 với 13 đề tài và
đến năm 1995 thì kết thúc. Về mặt lãnh đạo của Đảng, các Nghị quyết của Đảng từ
sau Đại hội VII trở đi, ở những mức độ tiếp cận khác nhau, bằng những cách tiếp cận
khác nhau, đều giới thiệu tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong nhiệm kỳ Đại hội VII, đáng chú ý là Nghị quyết 09-Nghị quyết/TW,

ngày 18 – 02 – 1995, của Bộ Chính trị “Về một số định hướng lớn trong công tác tư
tưởng hiện nay” một lần nữa khẳng định: “Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng
Việt Nam”. Nghị quyết nhấn mạnh: “chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
là học thuyết cách mạng và khoa học, là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và cả dân tộc ta”.
Lần đầu tiên, bộ chính trị khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh không những vận
dụng một cách sáng tạo mà còn “góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin trên
nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến
lên CNXH ở các nước thuộc địa và phụ thuộc”. Nghị quyết nhấn mạnh tư tưởng của
Người đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, trở
thành những giá trị bền vững của dân tộc Việt Nam và lan tỏa ra thế giới. Trên cơ sở
nhận định sự nghiệp đổi mới càng mở rộng và phát triển theo chiều sâu, những biến
6
đổi trên thế giới càng lớn, những vấn đề đặt ra ngày càng nhiều, Bộ chính trị đã nêu
ra nhiệm vụ phải làm sáng tỏ các vấn đề để tìm lời giải đáp.
Muốn đạt được những điều đó, thì việc nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết
thực tiễn càng trở nên quan trọng và cấp bách. Nghị quyết của Bộ chính trị chỉ rõ:
“Khi các thế lực thù địch ra sức tấn công nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm đẩy
chúng ta đi chệch hướng thì đấu tranh bảo vệ, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh càng là vấn đề quan trọng, trở thành
nhiệm vụ hàng đầu trong công tác chính trị, tư tưởng và lý luận của toàn Đảng, toàn
dân ta”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng diễn ra vào nửa sau thập niên
cuối của thế kỷ XX(6 - 1996) với nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh CNH – HĐH đất
nước. Tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới (1986 - 1996), Đại hội rút ra sáu bài
học chủ yếu, mà bài học hàng đầu là “Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH
trong quá trình đổi mới; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Trong định hướng phát triển giáo dục và đào tạo, Đảng ta nhấn mạnh “tăng

cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đào tạo đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc
văn hóa dân tộc; ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước”.
Nghị quyết của Đảng khẳng định lại nhiều vấn đề về tư tưởng Hồ Chí Minh đã được
nêu trong các Nghị quyết trước đây của Đảng và nhấn mạnh việc thường xuyên bồi
dưỡng cho cán bộ, đảng viên các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; cả việc học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng
viên và phải được quy định thành chế độ. Đồng thời coi trọng bồi dưỡng lý tưởng
cách mạng, chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ.
7
Như vậy, kể từ sau Đại hội VII, Đại hội VIII đã có những định hướng nghiên
cứu, bồi dưỡng, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh tương đối cụ thể. Công việc này
được tiếp tục trong một số Nghị quyết trong chương trình toàn khóa của Đại hội VIII.
Nghị quyết hội nghị lần thứ năm BCH TW Đảng khóa VIII “Về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” khẳng định: “Tiên tiến
là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH theo
chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người,
vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người…”. Hội nghị
lần thứ sáu (lần 2) BCH TW khóa VIII nêu 10 nhiệm vụ trọng tâm, trong đó nhiệm
vụ thứ ba nhấn mạnh “đổi mới công tác giáo dục trong Đảng và trong xã hội về chủ
nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước”.
Tháng 4 – 2001, Đảng ta tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Sau
10 năm kể từ Đại hội VII (1991 - 2001), chúng ta đạt được nhiều thành tựu to lớn
trong việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. 13 đề tài của CHương trình KX.02
được nghiệm thu trong hai năm (1995 - 1996). Giai đoạn 1996 – 2000, một số đề tài
được bổ sung, hoặc nghiên cứu sâu hơn làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành một
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam. Một số sách công cụ, tư liệu gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, như bộ sách Hồ
Chí Minh toàn tập, gồm 12 tập, Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử, gồm 10 tập, được

xuất bản, khẳng định độ tin cậy cho việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Cũng
trong thời gian này, một số hội thảo quốc tế tổ chức tại Việt Nam, có những chủ đề
liên quan đến việc nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là Hội
thảo Việt Nam học (lần 1), năm 1997, Việt Nam trong thế kỷ XX năm 2000, Việt
Nam học (lần 2) năm 2004. Cùng với các hội thỏa, các nhà nghiên cứu, các chính
khách, các cá nhân và các tổ chức tiến bộ trên thế giới đã cho ra mắt độc giả những
công trình công phu, nghiêm túc, đầy tâm huyết về Hồ Chí Minh. Những thành tựu
8
nêu trên là cơ sở rất quan trọng giúp Đảng ta có một bước phát triển quan trọng trong
nhận thức và tư duy lý luận.
Đại hội IX khẳng định lại tính đúng đắn của Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Đại hội VII và nhấn mạnh:
“Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xhcn
trêm nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Nếu như Đại hội
VII mới chỉ trình bày một cách đơn giản và sơ lược về tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là
“kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin vào điều kiện cụ thể của
nước ta”, thì Đại hội IX vừa làm sâu sắc thêm khái niệm, vừa chỉ rõ nguồn gốc, nội
dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghị quyết Đại hội IX chỉ rõ: “tư tưởng
Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, là sự vận dụng và phát triển sáng tạo của chủ nghĩa
Mác – Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đó là tư tưởng về
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của
nhân dân, của khối đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng
Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân; về quốc phòng toàn dân; xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư….
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành

thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
Rõ ràng, Đại hội IX đã nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vai trò, vị trí của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Hội nghị lần thứ năm của BCH TW khóa IX nêu rõ: “Từ Đại hội
lần thứ VI của Đảng đến nay, trình độ lý luận của Đảng ta có bước phát triển rõ rệt.
9
Đảng ta đã không ngừng đổi mới phương pháp tư duy lý luận, kiên định và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khắc phục bện giáo điều,
chủ quan, duy ý chí, mở ra bước tiến quan trọng trong tư duy lý luận, từng bước xây
dựng và hoàn chỉnh đường lối đổi mới toàn diện, làm cho nước ta có báo cáo phát
triển ngày càng mạnh mẽ; giải đáp có căn cứ khoa học một số vấn đề về lý luận và
thực tiễn; nhận thức đầy đủ hơn về nội dung, giá trị và tầm vóc tư tưởng Hồ Chí
Minh, khẳng định chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng của Đảng”.
Trong nhiệm kỳ Đại hội IX, BCH TW Đảng ra chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 27
– 3 – 2003, “Về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
trong giai đoạn mới”. Kể từ khi khởi xướng sự nghiệp đổi mới và Đảng ta khẳng
định lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của
Đảng (1991), đây là lần đầu tiên Ban bí thư trung ương Đảng có chỉ thị đẩy mạnh
nghiên cứu, tuyên truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh. Cuộc vận động được triển
khai trên phạm vi cả nước, học tập nghiên cứu 9 chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh
được nêu trong Đại hội IX.
Hội nghị lần thứ chín BCH TW khóa IX (1-2004) có nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng là kiểm điểm nửa nhiệm kỳ đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng,
đồng thời nêu lên những nhiệm vụ và giải pháp để thực hiện thắng lợi Nghị quyết của
Đại hội trong những năm tiếp theo. Một trong những biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác giáo dục tư tưởng chính trị, Nghị quyết nhấn mạnh việc
thực hiện tốt chỉ thị của Ban bí thư về “đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục
tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới”. Đưa việc học tập, vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh thành một trong những nội dung sinh hoạt của mỗi chi bộ, thành chương
trình rèn luyện tu dưỡng của mỗi cán bộ Đảng viên. Mỗi cán bộ, Đảng viên không chỉ

học tập, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn phải vận dụng nhuần nhuyễn vào
10
thực tiễn công tác, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân,
đấu tranh chống suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, chống tham nhũng,
quan liêu, lãng phí. Đặc biệt, phải coi trọng việc nghiên cứu vận dụng một cách toàn
diện và hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân để phát huy sức
mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.
Đại hội X của Đảng (4-2006) không có gì phát triển thêm về tư tưởng Hồ Chí
Minh, tiếp tục khẳng định việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng. Trong 4 bài học lớn mà Đại
hội X rút ra, thì bài học hàng đầu là “trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh”. Đại hội nhấn mạnh, đổi mới không phải xa rời, mà là nhận thức đúng, vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Trong công tác đổi mới, chỉnh đốn
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Đảng ta khẳng định
“kiên định chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc
và CNXH. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong hoạt động của Đảng”.
Sau Đại hội X, ngày 7-11-2006, thay mặt Bộ chính trị, đồng chí Tổng bí thư
Nông Đức Mạnh đã ký ban hành chỉ thị số 06CT/TW về tổ chức cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Chỉ thị nêu rõ: “Tư tưởng và đạo
đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh của những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh
hoa văn hóa nhân loại, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta; là tấm
gương sáng để mọi người Việt Nam học tập và noi theo”. Cuộc vận động này đã bắt
đầu được triển khai từ ngày 3-2-2007 và kéo dài đến hết nhiệm kỳ Đại hội X (4-
2011).
11
Hằng năm, vào dịp ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh, có tổ chức sơ kết. Sau 3

năm thực hiện chỉ thị số 23-CT/TW của Ban bí thư Trung ương Đảng, cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là một chủ trương lớn của
Đảng, vừa mang tính cấp bách trong tình hình hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục đích của cuộc vận động là làm cho toàn
Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư
tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về
ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng
trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, đoàn viên thanh niên,
học sinh,… Nội dung cơ bản của cuộc vận động là thực hiện 4 xây, 4 chống. 4 xây
gồm: Cần, kiệm, liêm ,chính, chí công vô tư; ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức trách
nhiệm; ý thức phục vụ nhân dân; và 4 chống gồm: chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham
nhũng, lãng phí.
Ngày 23-1-2008, Ban chỉ đạo Trung ương cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tổ chức hội nghị sơ kết một năm thực hiện
cuộc vận động, nhằm kiểm điểm, đánh giá kết quả bước đầu, rút ra những bài học
kinh nghiệm để tiếp tục chỉ đạo thực hiện trong thời gian tới; thảo luận, quán triệt
mục tiêu, chủ trương, phương hướng và các giải pháp chủ yếu đẩy mạnh thực hiện
cuộc vận động trong năm này. Định hướng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với việc thực hiện
chỉ thị số 19-CT/TW của Ban bí thư trung ương về kỷ niệm 60 năm ngày Chủ tịch Hồ
Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc (11-6-1948 – 11-6-2008) trong năm 2008,
Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nhấn mạnh: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh, trước hết là học tập tư tưởng trung với nước, hiếu với dân, hết lòng, hết
sức phục vụ nhân dân, với tinh thần “bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền
lợi đều của dân” của Bác, coi đó là chiếc gương soi để hoàn thành các nhiệm vụ
chính trị của ngành, của địa phương, cơ quan, đơn vị”. Tổng bí thư yêu cầu cần quán
12
triệt một số điểm cơ bản sau đây: “Một là, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, giáo
dục, tạo sự thống nhất cao về nhận thức ở tất cả các ngành, các cấp, trước hết là cán
bộ chủ chốt, về ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong giai đoạn hiện nay. Hai là, để thực hiện được
định hướng trên, cần gắn các nội dung và hình thức tiến hành cuộc vận động với các
nhiệm vụ chính trị và phong trào thi đua, lồng ghép nội dung cuộc vận động vào mọi
hoạt động của mỗi ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị. Ba là, phải tổ chức, động
viên, lôi cuốn được tất cả đảng viên, cán bộ công chức, tầng lớp nhân dân tự giác
tham gia cuộc vận động, coi đó là nhân tố quyết định thành công. Bốn là, quán triệt
nguyên tắc nêu gương trong thực hiện đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm là,
phải huy động được toàn bộ hệ thống chính trị ở tất cả các cấp, các ngành tham gia
cuộc vận động. Sáu là, coi trọng sự tham gia giúp đỡ của nhân dân đối với đội ngũ
công nhân, đảng viên, công chức. Bảy là, thực hiện chương trình toàn khóa, năm
2008, cần tạo nên bước chuyển mạnh mẽ, đưa cuộc vận động đi vào chiều sâu, có
những nội dung cụ thể, thiết thực. Tám là, để tạo điều kiện cho các ngành, địa
phương triển khai đồng bộ, thống nhất và hiệu quả cuộc vận động, Ban chỉ đạo các
cấp cần rà soát các văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện cuộc vận động để bổ sung,
sửa chữa, điều chỉnh, theo hướng trên cơ sở định hướng chung, phát huy vai trò chủ
động, sáng tạo của ngành, địa phương”.
13
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
Nhìn chung , qua hơn hai mươi năm đổi mới, từ chỗ bước đầu Đảng ta đề cập
tư tưởng và lý luận cách mạng của Hồ Chí Minh, rồi trình bày một cách còn sơ lược
khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh ở Đại hội VII (6-1991), đến Đại hội IX (4-2001) đã
có bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy lý luận về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 -
2006), khi trình bày về nền tảng tư tưởng của Đảng, khẳng định: “Từ Đại hội VII,
một bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng là nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc
hơn vai trò, vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định chủ nghĩa Mác – Lê nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho hoạt động
cách mạng”. Từ gia tài lý luận của Hồ Chí Minh, chúng ta có thể khẳng định có một
triết lý phát triển Hồ Chí Minh làm nền tảng cho triết lý phát triển Việt Nam trong thế
kỷ XXI.

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của toàn Đảng, toàn
dân ta, là sự khái quát sâu sắc những quy luật phát triển và thắng lợi của cách mạng
Việt Nam hơn 75 năm qua. Nghiên cứu, làm sáng tỏ hệ thống và nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh, đặc biệt là những luận điểm sáng tạo của Người là một trong những
nhiệm vụ cơ bản, có tầm quan trọng hàng đầu cửa công tác tổng kết quy luật và bài
học lý luận nhằm đưa cách mạng Việt Nam vượt qua thách thức, nắm lấy vận hội để
nhanh chóng vượt lên trong thế kỷ mới. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải
được tiếp tục đẩy mạnh với quy mô toàn diện, hệ thống và sâu sắc hơn nữa, tương
xứng với vị trí là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
14

Phần thứ hai: Nội dung đề tài.
“BƯỚC TIẾN MỚI TRONG TƯ
DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TỪ ĐẠI HỘI
VII ĐẾN ĐẠI HỘI IX”.
3-12
Phần thứ ba: Kết luận.
15

×