Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Nhóm 3 lsđ 231 Nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Vận dụng trong xây dựng văn hoá học đường”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ
----

BÀI THẢO LUẬN
Đề tài: Nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Vận dụng trong xây dựng văn hoá học đường”
Giảng viên hướng dẫn :

Th.S Hồng Thị Thúy

Nhóm thực hiện

:

Nhóm 03

Học phần

:

Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

Mã lớp học phần

:

231-HCMI0131_04

Hà Nội, 2023


1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................... 4
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN KHẲNG ĐỊNH NỀN VĂN HÓA VIỆT
NAM LÀ NỀN TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC .................................. 5
1.1. Quan điểm của Mác – Lenin về văn hóa .............................................. 5
1.2. Văn hóa và nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc .............. 7
1.3. Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc 9
1.4. Vai trị của văn hóa đối với giáo dục .................................................. 11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CƠ SỞ LÍ LUẬN TRONG
XÂY DỰNG VĂN HĨA HỌC ĐƯỜNG CỦA VIỆT NAM ................................... 12
2.1. Thực trạng văn hóa học đường của Việt Nam................................... 12
2.2. Thực trạng vận dụng cơ sở lý luận trong xây dựng văn hóa học
đường của Việt Nam ............................................................................................... 16
2.3. Thành tựu trong quá trình vận dụng cơ sở lí luận trong xây dựng
văn hóa học đường của Việt Nam ......................................................................... 18
2.4. Những hạn chế trong q trình vận dụng cơ sở lí luận trong xây
dựng văn hóa học đường của Việt Nam ............................................................... 20
2.5. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình vận dụng cơ sở lí
luận trong xây dựng văn hóa học đường của Việt Nam ..................................... 23
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG HẠN CHẾ
TRONG ÁP DỤNG CSLL VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN
TỘC TRONG VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG VÀ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG NỀN
VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN ĐỐI VỚI CON
NGƯỜI VIỆT NAM. .................................................................................................. 26
3.1. Giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong quá trình áp dụng
CSLL về văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc sân tộc vào văn hóa học

đường.................... ................................................................................................... 26
3.2. Biện pháp nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc đối với toàn thể nhân dân Việt Nam. ......................................... 27
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 30
2


TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 31

3


LỜI MỞ ĐẦU
Văn hóa có vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của con người và xã
hội lồi người. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, định hướng cho sự phát triển
bền vững của xã hội. Văn hóa thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội và mọi
hành vi của con người, điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của con người. Trong suốt chặng
đường hơn 83 năm lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến vĩ đại
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay, Đảng
ta luôn nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trị của văn hóa và thường xuyên quan tâm lãnh
đạo, phát huy sức mạnh văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng Trung ương (khóa VIII) tháng 7 năm
1998, đã ra Nghị quyết chuyên đề về: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc", xác định được các quan điểm cơ bản, trong đó có quan điểm “nền văn hóa mà
chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.Tiên tiến là yêu
nước và tiến bộ, trong đó, cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH theo chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc
và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa
giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá

trị truyền thống tốt đẹp, bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là, lịng
u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn
kết cá nhân - gia đình - Tổ quốc; lịng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; cần
cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong cuộc sống; dũng
cảm, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm … Từ đó vận dụng
trong xây dựng nền văn hóa học đường.
Nhận thức được tầm quan trọng ấy, nhóm 3 chúng em đã thảo luận và lựa chọn đề
tài “Nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Vận dụng trong xây
dựng văn hoá học đường”.

4


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN KHẲNG ĐỊNH NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM LÀ
NỀN TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
1.1. Quan điểm của Mác – Lenin về văn hóa
C.Mác coi văn hóa là tồn bộ những thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao
động sáng tạo của con người - hoạt động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống
hiện thực của con người. Lao động là hoạt động mà con người sử dụng để tạo ra giá trị
và sản phẩm và qua đó đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Điều này đồng nghĩa với
việc lao động là nguồn gốc của các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Vì vậy,
theo Mác - Lênin, văn hóa cũng là một sản phẩm của lao động. Văn hóa khơng chỉ là
sản phẩm của các nhà văn, họa sĩ hay những nghệ sĩ khác, mà còn bao gồm cả các giá
trị, niềm tin, phong tục, tập quán và lối sống của một cộng đồng. Mác - Lênin cho rằng
văn hóa là một phần khơng thể thiếu của xã hội và nó được tạo ra, phát triển và thay đổi
thông qua quá trình lao động của con người.
Văn hóa là cái phản ánh tính đặc thù của hoạt động con người và sự tồn tại, vận
động, phát triển cùng với tính đặc thù như vậy của con người trong thế giới. Văn hóa
chỉ xuất hiện khi con người ý thức rõ ràng về đời sống xã hội của họ, về hoạt động tự

do, hoạt động lao động sáng tạo để không những cải tạo và biến đổi tự nhiên vì sự tồn
tại, phát triển của chính mình, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn của chính mình, mà
cịn để “làm cho bản thân hoạt động sinh sống của mình trở thành đối tượng của ý chí
và của ý thức của mình”. Nói cách khác, văn hóa là cái phản ánh việc con người tự ý
thức về vai trò độc lập của mình, về khả năng và năng lực sáng tạo của mình trong việc
cải tạo và biến đổi tự nhiên.
Trong quan niệm của C.Mác, chủ thể sáng tạo văn hóa là con người. Con người
sử dụng văn hóa đó để phát triển năng lực của mình trong quá trình cải tạo và biến đổi
tự nhiên, đồng thời cải tạo chính bản thân mình. Trong quá trình cải tạo tự nhiên, xã hội
và chính mình, con người ngày càng ý thức một cách rõ ràng hơn sức mạnh xã hội của
lao động và ý thức đầy đủ hơn khả năng, năng lực sáng tạo mang bản chất người của
mình - sáng tạo văn hóa, tái sản xuất ra giới tự nhiên, “xây dựng” giới tự nhiên cho chính
mình “theo các quy luật của cái đẹp”. Bằng hoạt động lao động sáng tạo đó và với chính
sự tồn tại, phát triển của mình trong thế giới hiện thực, con người đã tự xác định cho
mình cái ranh giới để phân biệt phương thức hoạt động sống của mình với phương thức
hoạt động sinh tồn của lồi vật.
Theo đó, trong quan niệm của Mác - Lênin, văn hóa là cái thể hiện sự giải phóng
và tự giải phóng con người khỏi sự ràng buộc, thống trị với một sức mạnh bí ẩn của thế
giới tự nhiên và thế giới thần thánh mà con người tưởng tượng ra do sự bất lực của mình
5


trước giới tự nhiên đầy bí ẩn. Văn hóa là cái ghi nhận lĩnh vực hiện thực được quy định
không phải bởi tính thiết yếu tự nhiên và sự tiên định của thượng đế hay một đấng sáng
thế nào đó, mà bởi hoạt động lao động sáng tạo của con người với tư cách là một thực
thể độc lập, có ý thức, có năng lực tư duy và khả năng lao động sáng tạo.
Như vậy, theo quan niệm của Mác - Lênin, thế giới văn hóa là thế giới con
người, bản chất của văn hóa phát huy năng lực bản chất của con người. Mác - Lênin
cho rằng bản chất của con người là khả năng tư duy, khả năng sáng tạo và khả năng xây
dựng. Các năng lực này là đặc trưng của loài người và được phát huy thông qua lao

động, giao tiếp, học tập và truyền đạt kiến thức. Văn hóa được coi là một phương tiện
để phát huy các năng lực bản chất của con người. Mác - Lênin cũng cho rằng văn hóa
khơng phải là một thứ tĩnh vật, mà là một quá trình liên tục phát triển, chịu ảnh hưởng
bởi các tác động của xã hội. Vì vậy, việc phát triển và tạo ra văn hóa cũng đồng nghĩa
với việc phát triển và tạo ra các năng lực bản chất của con người. Điều này có ý nghĩa
quan trọng trong việc xây dựng một xã hội mới, với sự đề cao vai trò của con người và
tạo điều kiện để phát triển toàn diện các năng lực bản chất của họ. Chính vì vậy, Mác Lênin khuyến khích việc đưa văn hóa vào dịch vụ của tầng lớp lao động và xem đó là
một phần không thể thiếu trong việc xây dựng một xã hội công bằng, nơi mà con người
được coi trọng và được phát triển toàn diện các năng lực bản chất của mình.
Khơng chỉ thế, quan niệm của C.Mác về văn hóa cịn cho thấy, văn hóa là cái thể
hiện sức mạnh xã hội của hoạt động lao động sản xuất của con người. Hoạt động lao
động sản xuất tạo ra toàn bộ sự phong phú, đa dạng cho tồn tại của con người, hình
thành mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên xung quanh và quan hệ của con
người với con người trong cộng đồng xã hội - chính là cội nguồn của văn hóa. Song,
nội dung của văn hóa khơng chỉ thể hiện ở đó, mà còn thể hiện ở sự phát triển của bản
thân con người, ở sự phát triển và hoàn thiện của con người cả về thể xác lẫn tâm hồn,
cả về đạo đức lẫn năng lực trí tuệ và trình độ thẩm mỹ. Do vậy, trong quan niệm của
C.Mác, văn hóa với tư cách là phương thức hoạt động sống đặc thù của con người cần
được hiểu là, hoạt động đó khơng chỉ là hoạt động lao động sản xuất nhằm tạo ra những
vật phẩm thiết yếu cho cuộc sống con người, mà còn là hoạt động tinh thần, hoạt động
giáo dục và khai sáng theo nghĩa rộng nhất của từ này, để tạo nên những sản phẩm tinh
thần cho con người. Nói cách khác, văn hóa chính là cái làm nên nền tảng tinh thần của
xã hội, ghi nhận tầm cao và chiều sâu phát triển của cộng đồng xã hội, tạo ra hệ các giá
trị nhân đạo, nhân văn cho một cộng đồng xã hội và kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất
trong quan hệ giữa con người với con người, với xã hội và với tự nhiên.

6


Song song với điều đó, C.Mác cịn quan niệm: văn hóa là lĩnh vực hoạt động mà

nhờ đó, con người sản xuất và tái sản xuất ra bản thân mình với tư cách là một thực thể
xã hội. Đó là hoạt động của con người nhằm tạo ra một hệ thống giá trị mang tính định
hướng cho sự phát triển ý thức con người và cho lối ứng xử của con người trong cộng
đồng xã hội. Với hệ thống giá trị định hướng này, mỗi nền văn hóa trở thành một hệ
thống biểu tượng bao hàm trong đó các khn mẫu ứng xử xã hội của con người. Đó
cịn là hoạt động của con người nhằm tạo ra một hệ thống những thể chế mà qua đó,
những giá trị cao đẹp, mang tính định hướng được giữ gìn, lưu truyền và phổ biến trong
cộng đồng xã hội, trở thành tài sản của mỗi người, của tất cả mọi mgười trong cộng đồng
xã hội ấy và làm nên truyền thống văn hóa cho một cộng đồng xã hội.
Văn hóa cịn là một phần không thể thiếu trong việc xây dựng một xã hội mới, với
sự phát triển và tôn vinh các giá trị nhân văn. Việc phát triển và tạo ra văn hóa sáng tạo
khơng chỉ là để thỏa mãn nhu cầu giải trí, mà cịn để khẳng định vai trị của con người
trong xã hội, tạo ra những giá trị nhân văn và nâng cao chất lượng cuộc sống. Chủ nghĩa
Mác - Lênin cũng cho rằng, văn hố khơng phải là một thứ tĩnh vật, mà là một quá trình
phát triển liên tục, chịu ảnh hưởng của các tác động xã hội và lịch sử. Việc phát triển
văn hoá sáng tạo và đổi mới cũng đồng nghĩa với việc đổi mới và phát triển các giá trị
nhân văn, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Trong quá trình phát triển, văn hóa
khơng chỉ giúp con người hiểu biết thế giới xung quanh mình, mà cịn giúp con người
định hình và khẳng định bản thân, tạo ra các giá trị nhân văn như tự do, cơng bằng và
đạo đức.
Tóm lại, theo quan điểm của Mác - Lênin, văn hóa là sự sáng tạo và phát triển liên
tục của con người, có mục đích tạo ra các giá trị nhân văn và đáp ứng nhu cầu phát triển
của xã hội. Văn hóa khơng chỉ là sản phẩm của q trình lao động, mà cịn là kết quả
của q trình tư duy và sáng tạo của con người.
1.2. Văn hóa và nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc
Văn hố là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra
bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình. Văn hố là biểu
hiện của trình độ phát triển xã hội trong từngthời kỳ lịch sử nhất định.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng

nước và giữ nước. Đó là lịng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân–gia đình –làng xã-Tổ quốc; đó là lịng nhân ái,
khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh
7


tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…Bản sắc dân tộc cịn đậm nét cả trong các
hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc độc đáo.
Có thể nói bản sắc của một dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh
hướng cơ bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo giúp cho dân tộc đó giữ vững
được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất qn so với bản thân mình trong quá trình
phát triển. Sức mạnh và sức sáng tạo này có mối liên hệ gốc rễ, lâu dài và bền vững với
môi trường xã hội- tự nhiên và với quá trình lịch sử mà dân tộc ta đã tồn tại. Nói chung,
bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân tộc thường xuyên tự
ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết cạnh tranh và hợp tác để tồn
tại và phát triển.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư duy,
cách sống, cách dựng nước, giữ nước, cách sáng tạo trong văn hóa, khoa học, văn học
nghệ thuật…., nhưng được thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt
lõi của nền văn hóa. Hệ giá trị là những gì nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân
cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khi được chuyển thành các chuẩn mực xã hội,
nó định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó
là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự vững vàng của chế độ.
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã hội và
thể chế chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình hội nhập kinh tế thế
giới, quá trình giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp nhận tích cực văn hóa,
văn minh nhân loại. Vì vậy, chúng ta chủ trương xây dựng và hoàn thiện các giá nhân
cách con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm trong

mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ,
giáo dục và đào tạo…,sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta có cách tư duy độc
lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường,
mở rộng giao lưu quốc tế, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải tiếp thu những
tinh hoa nhân loại, song phải luôn luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc
dân tộc.
Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta chủ trương
vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Bảo vệ bản sắc dân tộc, gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những
cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại.
Chủ động tham gia hội nhập và giao lưu văn hóa với các quốc gia để xây dựng những
8


giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại. Xây dựng Việt Nam thành một địa chỉ giao
lưu văn hóa khu vực và quốc tế.
Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống những cái lạc hậu, lỗi thời trong
phong tục, tập quán và lề thói cũ.
1.3. Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào đổi mới
nền kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đường lối xây
dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc quan điểm này đánh dấu sự phát
triển tư duy lý luận của Đảng, đồng thời cũng là kết quả tổng kết thực tiễn xây dựng và
phát triển văn hóa Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
thông qua tại đại hội lần thứ VII (6/1991) đã xác định nền văn hóa tiên tiến và đậm đà
bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Như vậy nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu,

vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 7-1998) đã
ban hành nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc”, cho thấy chuyển biến hết sức mạnh mẽ trong nhận thức của Đảng về tầm quan
trọng của văn hóa bên cạnh vấn đề phát triển kinh tế và xây dựng Đảng. Nghị quyết
khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây
dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người
Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng mơi trường văn
hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội”.
Đại hội IX của Đảngtiếp tục khẳng định, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng,
lịng nhân ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hịa
trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Bước phát triển trong quan điểm của Đảng về văn
hóa thời kỳ này là nhấn mạnh mục tiêu hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa. Đại hội xác định nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng con người
9


Việt Nam phát triển toàn diện. Để đạt được mục tiêu đề ra, các chương trình hành động
phải được triển khai đồng bộ, chú trọng việc mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nếp sống văn minh
và gia đình văn hóa”, phong trào “Người tốt, việc tốt”, làm cho văn hóa thấm sâu vào
từng khu dân cư, từng gia đình, từng người…
Đến Đại hội X của Đảng, với quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
những yêu cầu về tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển
kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và việc

xây dựng, hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế,…
được khẳng định lại, tiếp nối quan điểm về văn hóa từ kỳ đại hội trước. Đại hội lần này
cũng đề ra yêu cầu đa dạng hóa các hình thức hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn
hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hóa, bảo tàng, nhà truyền
thống…
Đại hội XI khẳng định phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu
sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu
vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh
quan trọng của phát triển, coi “con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng
thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người
với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”(2). Đại hội
đề ra mục tiêu cho giai đoạn tiếp theo là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, con người phát triển tồn diện về trí tuệ,
đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã khẳng định mục tiêu: xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
cơng bằng, văn minh. Văn hóa tiếp tục là vấn đề quan trọng, có tính thời sự và dành
được sự quan tâm sâu sắc.

10


Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp

tục khẳng định đường lối nhất quán xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và mục tiêu “Văn hóa
thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan
trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”. Việc thực hiện
nhiệm vụ xây dựng con người có bước chuyển biến quan trọng: Gắn nhiệm vụ xây dựng
văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước; gắn xây dựng môi
trường văn hóa với xây dựng con người; bước đầu hình thành những giá trị mới về con
người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động,
sáng tạo, khát vọng vươn lên. Mục tiêu được đề ra là: Xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần
dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học, trong đó, “xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện”phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển.
Như vậy các nhiệm vụ được Đảng đề cập tới qua các Đại hội và hội nghị để xây
dựng thành cơng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là:
1. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới
2. Xây dựng mơi trường văn hóa
3. Phát triển sự nghiệp văn học và nghệ thuật
4. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
5. Phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo, khoa học - công nghệ
6. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng
7. Bảo tồn và phát huy, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
8. Chính sách văn hóa đối với tôn giáo
9. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa
10. Củng cố, xây dựng và hồn thiện thể chế văn hóa
1.4. Vai trị của văn hóa đối với giáo dục
Văn hóa có một vai trị quan trọng, có sức ảnh hưởng lớn đối với giáo dục. Văn
hóa là nền tảng của giáo dục, tạo nên những giá trị tốt đẹp trong giáo dục và là chìa khóa
để phát triển giáo dục và phát huy vai trò của giáo dục.
 Văn hóa là nền tảng của giáo dục:


11


Theo định nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Giáo dục đã sử dụng toàn
bộ những sáng tạo và phát minh của lồi người như ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày
về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Giáo dục dựa vào văn hóa để giảng dạy, đào
tạo hay nghiên cứu những kiến thức, kỹ năng và truyền nó từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Giáo dục phát triển trước hết phải có văn hóa.
 Văn hóa tạo nên những giá trị tốt đẹp trong giáo dục:
Văn hóa chứa đựng những giá trị to lớn, đúng đắn từ ngàn xưa cho đến mai sau
của lồi người. Văn hóa hướng giáo dục tới những gì tốt đẹp nhất từ đó sẽ tác động đến
con người. Giáo dục là để hướng con người tới chân - thiện - mỹ, tới những gì tốt đẹp
nhất của cuộc sống, giáo dục con người cả về tài và đức. Khi con người học được văn
hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp,... cũng chính là lúc văn hóa phát huy giá trị của nó trong
giáo dục. Con người ta được giáo dục hiểu được ý nghĩa của văn hóa thì mới tạo nên cái
gốc làm người.
 Văn hóa là chìa khóa để phát triển giáo dục và phát huy vai trị của giáo dục:
Văn hóa đa dạng tạo môi trường cho giáo dục phát triển, tạo ra giá trị giáo dục
mới, thúc đẩy môi trường giáo dục sáng tạo, tư duy năng động. Từ đó, tạo điều kiện tốt
nhất để con người có thể phát triển tồn diện.
Giáo dục dù có tốt tới đâu mà khơng có yếu tố văn hóa thì cũng khơng phát huy
được vai trị của nó, giáo dục giúp con người phát triển tồn diện về đạo đức, kiến thức,
kỹ năng, khả năng thích nghi… để thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của
sự sinh tồn.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CƠ SỞ LÍ LUẬN TRONG XÂY
DỰNG VĂN HĨA HỌC ĐƯỜNG CỦA VIỆT NAM

2.1. Thực trạng văn hóa học đường của Việt Nam
Văn hóa học đường có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống văn hóa
xã hội, trong hoạt động giáo dục nhà trường bởi vì nó tham gia trực tiếp vào q trình
hồn thiện nhân cách cho học sinh sinh viên, là nhân tố quan trọng góp phần thực hiện
sứ mạng, mục tiêu đào tạo và làm nên thương hiệu của các trường đại học.
 Mặt tích cực:

12


Ngày nay, học sinh sinh viên đang ngày càng nâng cao nhận thức đối với vấn đề
văn hóa học đường.
Học sinh, sinh viên tích cực tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục
thể thao, giáo dục đạo đức, lối sống. Các hoạt động này giúp các em phát triển năng
khiếu, sở thích, rèn luyện thể chất và tinh thần, đồng thời bồi dưỡng nhân cách, đạo đức.
Bên cạnh đó, học sinh sinh viên ngày càng nâng cao ý thức giữ gìn và bảo vệ mơi
trường. Các em tích cực tham gia các hoạt động trồng cây, bảo vệ cây xanh, vệ sinh
trường lớp,... Ngoài những hoạt động trên, học sinh sinh viên cịn tích cực chia sẻ những
bài viết, thơng điệp về giữ gìn và bảo vệ mơi trường trên mạng xã hội, có rất nhiều sự
kiện, chương trình nhằm lan tỏa thơng điệp bảo vệ mơi trường được sinh viên tổ chức.
Một ví dụ điển hình về vấn đề này, nhân dịp chào đón khóa sinh viên mới vào
trường, vào tháng 9/2023, HSV khoa Kinh tế của Trường Đại học Thương mại đã tổ
chức chương trình “WE SHARE”. Đây là chương trình tặng sách được tổ chức nhằm
lan tỏa thông điệp về tái sử dụng sách vở, tài liệu cũ để bảo vệ môi trường cũng như để
chia sẻ, giúp đỡ những bạn học sinh có hồn cảnh khó khăn.
Học sinh, sinh viên có ý thức giúp đỡ bạn bè, người thân. Các em thường xuyên
giúp đỡ bạn bè trong học tập, tham gia các hoạt động thiện nguyện,... Đã có rất nhiều
những hoạt động, chương trình thiện nguyện được tổ chức bởi sinh viên thơng qua các
cá nhân, tổ chức, câu lạc bộ.
Một trường hợp có thể kể đến đó chính là sự kết hợp hằng nằm của Đoàn Trường

Kinh tế Quốc Dân với Cộng đồng Bộ tộc Mixigaming với chương trình “Góp gạch xây
Trường”. Đây là một dự án thiện nguyện có sự tham gia của rất nhiều bạn trẻ với mong
muốn đem đến cơ sở vật chất học tập tốt hơn cho những học sinh cịn khó khăn.
Khơng chỉ như vậy, các em học sinh, sinh viên có ý thức chấp hành nội quy, quy
định của nhà trường. Các em không vi phạm đạo đức, lối sống, bạo lực học đường,... và
tích cực tham gia vào các hoạt động văn hóa của nhà trường.
Một số ví dụ thực tiễn có thể kể đến như, các trường học tổ chức hoạt động "Tuần
lễ văn hóa" với nhiều hoạt động phong phú, đa dạng như: Lễ hội văn hóa dân gian, Hội
thi văn nghệ, Hội thi thể thao, Hội thi viết thư UPU... Các hoạt động này đã góp phần
giáo dục học sinh, sinh viên về văn hóa truyền thống của dân tộc, phát triển năng khiếu
văn hóa, nghệ thuật, thể thao của học sinh, sinh viên. nhóm học sinh, sinh viên tự nguyện
thành lập câu lạc bộ "Học tập và sáng tạo". Câu lạc bộ này thường xuyên tổ chức các
buổi sinh hoạt, thảo luận về các vấn đề học tập, nghiên cứu khoa học. Các hoạt động của
câu lạc bộ đã góp phần giúp học sinh, sinh viên nâng cao tinh thần ham học hỏi, sáng
13


tạo. Một nhóm học sinh, sinh viên tình nguyện tham gia các hoạt động giúp đỡ bạn bè,
người có hồn cảnh khó khăn. Các hoạt động này đã góp phần giáo dục học sinh, sinh
viên về tinh thần nhân ái, sẻ chia.
 Mặt tiêu cực:
Hiện nay, văn hóa học đường đang là vấn đề thời sự, nhiều sự việc nổi cộm về
ứng xử văn hóa ở học đường khiến gia đình và xã hội lo lắng. Hành vi lệch chuẩn của
học sinh sinh viên có xu hướng ngày càng tăng: giao tiếp thiếu lịch sự, thi hộ, quay cóp
bài, nghỉ học không lý do, ăn quà trên lớp, vi phạm quy định về giao thông … Thực
trạng này được thể hiện ở rất nhiều mặt cụ thể như:
Áp lực học tập: Văn hoá học đường thường đi kèm với áp lực học tập cao từ phía
gia đình, xã hội và chính bản thân học sinh. Điều này có thể dẫn đến căng thẳng, stress
và cạnh tranh gay gắt trong học sinh.
Thiên vị và bạo lực: Một số trường hợp văn hoá học đường phản ánh sự thiên vị

và bạo lực. Học sinh có thể bị bắt nạt, kỳ thị dựa trên giới tính, tơn giáo, dân tộc, học
vấn hoặc ngoại hình. Điều này có thể gây ảnh hưởng xấu đến tâm lý và sự phát triển của
học sinh.
Thiếu sự tôn trọng và tình đồng nghiệp: Một số học sinh sinh viên khơng có vài
trị tương tác xã hội tích cực. Họ có thể thiếu sự tơn trọng và tương tác hòa đồng với
giáo viên và các bạn cùng lớp, làm giảm sự hợp tác và tương tác trong quá trình học tập.
Thiếu ý thức về giá trị văn hoá: Một số học sinh có thể thiếu ý thức về giá trị của
văn hoá, quy tắc xã hội và quy định học đường. Điều này có thể dẫn đến hành vi không
tôn trọng, phạm tội trong trường học và ảnh hưởng xấu đến không gian học đường
chung.
Ảnh hưởng của sự phát triển cơng nghệ: Văn hố học đường cũng bị ảnh hưởng
bởi sự phát triển công nghệ. Sự phụ thuộc nhiều vào cơng nghệ và thiết bị điện tử có thể
làm mất đi sự tương tác trực tiếp giữa giáo viên và học sinh, góp phần vào sự cơ lập và
mất cân bằng trong văn hố học đường.
Văn hóa học đường biểu hiện khơng chỉ ở phía học sinh mà cịn ở phía giáo viên,
cụ thể như sau:
Đối với HS, biểu hiện nói xấu người khác, dối trá, nói tục, chửi thề, cãi vã, đánh
nhau giữa HS với HS diễn ra ở nhiều trường học trong cả nước nói chung và trên địa
bàn tỉnh nói riêng. Thực tế cho thấy, những năm gần đây, trên cả nước diễn ra khơng ít
vụ HS đánh nhau ở cả trong và ngoài trường học. HS đánh nhau không chỉ dùng chân
14


tay hay cặp sách nữa mà còn cầm dao, kiếm và cả súng tự chế để “xử nhau” chỉ vì những
lý do rất trẻ con như “nhìn đểu”, khơng cho chép bài, nói xấu, ghen tng hoặc đơn giản
là đánh cho bõ ghét... Hẳn chúng ta còn nhớ trường hợp 2 HS Trường THCS Ba Đình
(thị xã Bỉm Sơn) dùng dao đâm chết bạn cùng trường vì mâu thuẫn cá nhân cách đây ít
năm. Tại Trường THPT Cẩm Thủy 3 (Cẩm Thủy), năm 2016, cũng diễn ra sự việc 2 HS
đánh bạn cùng trường ngất xỉu. Ngay sau khi sự việc xảy ra, ban giám hiệu nhà trường
đã họp và đưa ra hình thức kỷ luật đình chỉ 1 năm học đối với 2 HS đánh bạn. Không

chỉ đánh nhau, nói tục, chửi thề, cãi vã, hiện tượng học trị vô lễ, không tôn trọng thầy
cô, gọi thầy cô bằng những từ ngữ vơ văn hóa, xé bài kiểm tra trước mặt thầy, cãi thầy
khi bị la mắng... diễn ra khá phổ biến, trở thành những tiêu cực trong môi trường học
đường. Đơn cử như cuối năm 2018, 8 HS Trường THPT Nguyễn Trãi (TP Thanh Hóa)
nhắn tin trên facebook xúc phạm đến danh dự, uy tín của thầy, cơ giáo và nhà trường...
Sự việc xảy ra khiến dư luận xã hội bất bình và lo lắng về ý thức, thái độ thiếu tôn trọng
thầy, cô giáo của một bộ phận học trị hiện nay.
Giáo viên thì bạo lực với HS, sàm sỡ, gạ tình HS, gây nên sự xuống cấp nghiêm
trọng của văn hóa học đường. Chúng ta đã từng chứng kiến sự việc một giáo viên của
Trường Tiểu học An Đồng, An Dương (Hải Phòng) bắt HS uống nước giặt giẻ lau bảng,
khi phát hiện HS nói chuyện riêng trong giờ. Sự việc xảy ra hồi tháng 4-2018. Hành
động này đã “dậy sóng” trong dư luận xã hội. Cũng vì nói chuyện riêng trong giờ học,
một cơ giáo của Trường THCS Thọ Xuân, Đan Phượng (Hà Nội) yêu cầu 2 em HS đứng
trên bục giảng và tát vào mặt nhau cho đến khi bạn khóc thì dừng. Khơng chỉ vậy, cơ
giáo này cịn qt mắng 2 HS với những từ ngữ không đúng mực. Sự việc xảy ra hồi
tháng 10-2018. Hay như trường hợp cô giáo Trường THCS Duy Ninh (tỉnh Quảng Bình)
bắt cả lớp tát bạn đến mức nhập viện... Tại tỉnh ta, năm 2016, cũng đã xảy ra sự việc
một thầy giáo ở Trường THCS Định Hịa (n Định) có hành vi bạo lực với HS khiến
HS phải nhập viện. Những sự việc trên đã gây bức xúc trong dư luận xã hội và làm
phương hại đến văn hóa học đường, đến hình ảnh người giáo viên nhân dân. Trong khi
một số giáo viên có những biểu hiện vượt q chuẩn mực sư phạm, thì khơng ít phụ
huynh lại “cậy quyền”, “cậy tiền” có những hành động thiếu nhân văn, xem thường thầy,
cô giáo như, trường hợp nhóm phụ huynh HS của Trường Tiểu học Bình Chánh, huyện
Bến Lức, tỉnh Long An bắt một cô giáo của trường này quỳ xuống xin lỗi phụ huynh,
sự việc diễn ra vào tháng 3-2018. Rồi trường hợp phụ huynh HS Trường Tiểu học Yên
Tĩnh 2 (tỉnh Nghệ An) “trả đũa” một thầy giáo bằng hành động đánh thầy phải nhập
viện. Ở Thanh Hóa, hồi tháng 5-2019, một giáo viên của Trường THCS Quý Lộc (Yên
Định) cũng bị phụ huynh HS đến tận trường đánh phải nhập viện điều trị. Những cái tát
hay hành động bắt giáo viên quỳ gối... khơng chỉ làm đau một người mà cịn làm đau
15



lớp lớp nhà giáo, ảnh hưởng tới danh dự của ngành giáo dục và truyền thống cao quý
“tôn sư trọng đạo”.
2.2. Thực trạng vận dụng cơ sở lý luận trong xây dựng văn hóa học đường
của Việt Nam
Văn hóa học đường là hệ giá trị chuẩn mực văn hóa điều chỉnh nhận thức, thái
độ, hành vi, tác phong, cử chỉ lời nói của người quản lý giáo dục, của thầy cô giáo, của
học sinh, sinh viên trong giao tiếp với các thành viên trong nhà trường và với xã hội.
Văn hóa học đường là mơi trường văn hóa đặc biệt quan trọng để rèn luyện nhân cách
và giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam thành những con người phát triển tồn diện đức-trí-thểmỹ, có lịng u nước, tinh thần tự hào tự tơn dân tộc, có ý thức và trách nhiệm với đất
nước, cộng đồng, gia đình và bản thân.


Về phía nhà nước:

Những năm gần đây, Nhà nước đưa mục tiêu xây dựng văn hóa học đường Việt
Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, quán triệt sâu sắc quan điểm phát triển
văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn
hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách,
lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, kỷ
cương, đồn kết, cần cù, sáng tạo, để xây dựng hệ giá trị chuẩn văn hóa học đường Việt
Nam đến 2030, tầm nhìn đến 2045. Kết thúc năm 2022, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối
hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ quan liên quan cần chủ động hồn
thành cơng trình rất quan trọng này. Trong đó, trên nền tảng của Hệ giá trị chuẩn mực
văn hóa học đường xây dựng, bổ sung, hoàn thiện Bộ quy tắc ứng xử trong nhà trường
Việt Nam xác định chuẩn mực ứng xử văn hóa lãnh đạo quản lý giáo dục trong dạy và
học, trong học tập, tự học tập, rèn luyện của học sinh, sinh viên, trong hoạt động ngoại
khóa, trong các hoạt động chính trị xã hội của các tổ chức chính trị xã hội trong nhà
trường, trong quan hệ ứng xử giữa các trường học với xã hội.



Về phía nhà trường:

Hiện nay, các trường học đều đã có những hành động cụ thể trong cơng cuộc áp
dụng những cở sở lý luận về văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc vào thực tiễn
quá trình xây dựng văn hóa học đường ở Việt Nam.
Đầu tiên, hầu hết các trường học đều đã những hoạt động nhằm giữ gìn, bảo vệ,
xây dựng cơ sở vật chất nhà trường. Vì mơi trường học tập, cơ sở vật chất của nhà trường
đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong việc xây dựng văn hóa học đường của tất cả các
bạn học sinh sinh viên. Đa số các trường học đều đảm bảo đảm bảo đầy đủ cơ sở vật
chất phục vụ cho việc dạy và học. Từ phòng học và các thiết bị sử dụng cho học tập, tới
phịng thư viện, sân thể thao, phịng thí nghiệm… đều được bảo quản và sử dụng hiệu
quả phục vụ cho việc dạy và học tại trường.
Bên cạnh đó, các trường học nhà cũng chú trọng xây dựng cảnh quan môi trường
nhằm tạo môi trường giáo dục lành mạnh và giáo dục học sinh ý thức bảo vệ môi trường
xung quanh, luôn đưa mục tiêu “Xanh – Sạch – Đẹp” đặt lên hàng đầu.

16


Thứ hai là xây dựng môi trường giáo dục, tạo ra nhà trường thân thiện, học sinh
tích cực, xây dựng mơi trường giáo dục an tồn, thân thiện, hiệu quả...
Phong trào thi đua Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực được phát
động nhằm "thiết lập lại mơi trường sư phạm với 6 đặc trưng là trật tự kỷ cương, trung
thực, khách quan, cơng bằng, tình thương và khuyến khích sáng tạo, hiệu quả". Đây là
nội dung rất cơ bản của văn hóa học đường. Tác dụng tích cực của văn hóa học đường
là xây dựng nhân cách cho học sinh, chống lại lối sống tiêu cực. Chính vì thế, bên cạnh
chú trọng việc học tập, nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện cho các em học sinh có
một sân chơi thật sự bổ ích sau giờ học căng thẳng. Cụ thể, các em học sinh tích cực

tham gia vào các hoạt động vui tươi, lành mạnh, phát huy giá trị văn hóa cổ truyền, xây
dựng nếp sống văn minh và rèn luyện những kĩ năng sống cần thiết. Cụ thể:
Nhà trường đã tích cực đưa ra các trò chơi dân gian vào các hoạt động tập thể,
vui chơi giải trí để học sinh có cơ hội tiếp cận với những nét văn hóa dân gian của dân
tộc:
- Tổ chức các hội thể thao cấp trường nhằm nâng cao việc rèn luyện sức khỏe và
giải trí sau những ngày học tập căng thẳng. Các môn được tổ chức như: kéo co, nhảy
bao bố, đua xe đạp chậm, cầu lơng, bóng đá mini, đẩy gậy, vật tay, nhảy xa….Thu hút
được sự quan tâm đông đảo của hoc sinh toàn trường.
- Hàng năm trường tổ chức thi văn nghệ, đưa các loại hình văn nghệ vào nhà
trường như: Kể chuyện, kịch, múa, hát Karaoke, hội trại mừng Đảng mừng xuân.
- Phối hợp với các cơ quan chức năng tuyên truyền giao thông, pháp luật, tác hại
của ma túy và cách phịng chống, tình hình an ninh trật tự cho học sinh trong nhà trường.
- Tổ chức các buổi nói chuyện sinh hoạt nhằm giáo dục giới tính, kịp thời uốn
nắn các em hiểu đúng và làm đúng.
- Tổ chức các buổi tọa đàm "Nghe học sinh nói, nói học sinh nghe" nhằm giúp
các em giải bày tâm sự chia sẻ kinh nghiệm sống với nhau. Lồng ghép những nội dung
nâng cao kỹ năng giao tiếp ứng xử bạn bè trong tiết giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Thứ ba, nhà trường ln chú trọng xây dựng mơi trường văn hóa ứng xử, văn hóa
giao tiếp văn minh trong nhà trường trên tinh thần tôn sư trọng đạo, tiên học lễ, hậu học
văn làm cho học sinh ngoan ngoãn, lễ phép, nề nếp, kính trên, nhường dưới…
Thực ra, giáo dục văn hóa học đường là tạo ra những nét đẹp trong hành vi của
học sinh đối với các mối quan hệ thầy trị, bạn bè và mơi trường xung quanh. Ví dụ: thầy
giáo thì phải mơ phạm, đức độ, mẫu mực trong hành vi, đối với đồng nghiệp phải khiêm
tốn, đoàn kết, nhân ái…, đối với học trò phải hết lòng thương yêu, chỉ bảo, đối với người
khác phải giản dị, mẫu mực, đối với cơng việc phải tận tụy, có kỷ luật, sáng tạo…, phải
giữ gìn sự trong sạch của cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Học sinh thì
khơng được kiêu căng, tự cao, tự đại mà phải trung thực, cầu tiến, giản dị, khiêm tốn…,
đối với thầy cơ giáo phải kính trọng, biết ơn…, đối với bạn cùng trường, cùng lớp phải
đoàn kết, thân ái, phải biết kính trên, nhường dưới.


17


2.3. Thành tựu trong quá trình vận dụng cơ sở lí luận trong xây dựng văn
hóa học đường của Việt Nam
Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 25 năm đổi mới, lĩnh vực văn hóa đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng. Tư tưởng, đạo đức và lối sống của sinh viên,
thanh nhiên đã có những chuyển biến tích cực. Nhiều giá trị mới về văn hóa, chuẩn mực
đạo đức được khẳng định và nhân rộng trong mơi trường học tập. Phong trào "Tồn dân
đồn kết xây dựng đời sống văn hóa" và Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh", các phong trào thi đua yêu nước ngày càng được mở rộng và
từng bước đi vào thực chất trong đời sống xã hội. Công cuộc bảo tồn và phát huy các di
sản văn hoá của dân tộc đã đạt được nhiều tiến bộ. Nhiều di sản văn hoá vật thể, phi vật
thể được bảo vệ và phát huy giá trị cơng tác xã hội hố đã thu hút được đơng đảo các tổ
chức học sinh sinh viên và cá nhân tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hố,
góp phần tích cực gìn giữ bản sắc văn hóa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp
trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc, dần loại bỏ những sự lỗi thời, lạc hậu.
Sinh viên biết coi trọng hơn các giá trị văn hóa, nhất là các giá trị di sản văn hóa
truyền thống. Dân chủ trên các lĩnh vực đời sống xã hội được mở rộng; dân trí được
nâng lên, quyền con người được tơn trọng. Con người Việt Nam năng động, tích cực,
sáng tạo hơn. Người dân có nhiều cơ hội tiếp cận thơng tin và hưởng thụ các giá trị văn
hóa. Tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, tính chủ động, tính tích cực xã hội của sinh
viên về các chủ thể văn hóa được phát huy. Đại đồn kết dân tộc được mở rộng, tạo sức
mạnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mơi trường văn hóa được cải thiện và có một
số mặt tiến bộ; chú trọng xây dựng mơi trường học tập văn minh, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc, từng bước tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Vai trị của sinh viên và giới
trẻ được nâng lên trong đời sống xã hội.
Thông qua các hoạt động thực tiễn phong phú, niềm tin của thanh niên, sinh viên
vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường xã hội chủ nghĩa và sự phát triển đi lên của

đất nước được củng cố. Thái độ, tinh thần trách nhiệm của sinh viên thanh niên, được
nâng lên, quan tâm và có trách nhiệm hơn đến những vấn đề của đất nước, của Đảng,
của Đồn, của Hội. Văn hóa “kính thầy yêu bạn” được nâng cao, hiện tượng sinh viên
thanh niên đánh nhau đã giảm thiểu. Ý thức tự lập, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm trong thanh niên ngày càng mạnh mẽ, hiện tượng bảo sao làm vậy, hoặc tự biến
mình thành người thừa hành bị động ngày càng ít đi. Tính thực tế trong tư duy trong học
tập cũng như các hoạt động xã hội của thanh niên ngày càng phát triển. Ngày nay, thanh
niên sinh viên suy nghĩ nhiều hơn tới vấn đề làm sao học tập, làm việc cho có hiệu quả.

18


Sinh viên thanh niên được tiếp thu văn hóa tiến tiến của các quốc gia khác nhau.
Được tạo điều kiện để đến gần hơn với văn hóa các nước khác, tổ chức các buổi giao
lưu các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa gần gũi, chia sẻ văn hóa đất nước của mình ra khác
thế giới.
Có nhiều tấm gương tiêu biểu cho việc xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc trong mơi trường bậc đại học: Ngay từ khi cịn là học
sinh phổ thông, Đào Thiên Tài luôn phấn đấu trong học tập, nhiệt tình tham gia các hoạt
động của trường lớp. Với cương vị là lớp trưởng trong suốt những năm học phổ thông
Tài luôn được thầy cô, bạn bè yêu mến và đã đạt được những thành tích cao trong học
tập, văn hóa thể thao của trường.
Bộ mơn “Nói và viết Tiếng Việt” là một minh chứng sinh động của chuỗi nỗ lực
và hướng đi đầy sáng tạo mà tập thể Đại học Duy Tân đã duy trì từ những ngày đầu tiên
thành lập trường. Nhận thấy nhiệm vụ cao cả của những người làm giáo dục trong thời
đại mới, trường Đại học Duy Tân đã tiên phong trong việc tạo ra bản sắc văn hố của
chính trường Đại học mình, một bản sắc rất riêng mang tên “Văn hoá Đại học Duy Tân”.
“Văn hoá Đại học Duy Tân” hướng đến một nền giáo dục nhân văn trên tư tưởng hiện
đại, là sự gắn kết của phương pháp giáo dục tiên tiến trên thế giới với truyền thống nhân
văn của người Việt Nam. Điều này thể hiện rất rõ trong phương châm của nhà trường

“Bản lĩnh Việt Nam - Đổi mới, Sáng tạo, Vươn tới những tầm cao!”. Bản lĩnh Việt Nam
mà Đại học Duy Tân mong muốn trau dồi và vun đắp cho các thế hệ sinh viên chính là
sự khát khao vươn lên trên nền tảng truyền thống gìn và giữ nước của dân tộc Việt. Để
làm được điều đó, trường đã tập trung ở điều căn bản nhất “Nói và viết Tiếng Việt” để
trong bất cứ mơi trường, hồn cảnh, nhiệm vụ nào, sinh viên của trường hôm nay và mai
sau sẽ trở thành những “phát ngơn viên”, những “minh chứng” có thể nói đúng, viết rõ
những giá trị, tinh hoa của văn hoá dân tộc và làm đậm thêm sự giàu và đẹp của Tiếng
Việt.Không chỉ dừng ở đó, trường Đại học Duy Tân trong năm 2013 đã đặt nhiệm vụ
phát triển công tác nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn làm trọng tâm với dự án xây
dựng một Trung tâm nghiên cứu xã hội tại trường. Bởi lẽ, tinh thần văn hoá dân tộc, nền
tảng nhân văn luôn là điều mà tập thể cán bộ, giảng viên Đại học Duy Tân tâm niệm để
đào tạo những lớp người hiện đại, chuyên nghiệp nhưng khơng bị “số hố”, “cá nhân
hố”. Cơng tác dạy “Nói và viết Tiếng Việt”, sự phát triển của các bộ môn Khoa học Xã
hội và Nhân văn tại một ngơi trường có định hướng phát triển đa ngành, đa nghề, đa cấp
như Duy Tân sẽ là một thành tựu rất đáng khích lệ và tự hào trong thời đại toàn cầu ngày
nay khi mà nhu cầu việc làm, ngành nghề đào tạo có xu hướng thay đổi liên tục và
thương mại hoá.
19


Ngày nay, yêu cầu về chất lượng đối với người thầy cũng rất cao. Đồng thời với
dạy chữ, người thầy cịn phải dạy người. Dạy chữ khơng chỉ đơn thuần là truyền đạt kiến
thức, mà quan trọng hơn là phải tạo cho người học khả năng sáng tạo, khả năng tự thích
nghi với mọi hồn cảnh. Muốn vậy người học phải nắm được những điều bản chất nhất
những cái cơ bản nhất. Người thầy cịn phải là một điển hình tốt về tinh thần tự học,
vươn lên, một tấm gương sáng ngời về đạo đức, về nhân cách đối với học sinh. Như vậy,
chất lượng đòi hỏi ở người thầy là rất cao, rất toàn diện. Trong mấy chục năm qua các
trường đại học của ta đã có những bước tiến vượt bậc. Giáo dục đại học đã có những
đóng góp đáng kể trong cơng tác đào tạo cán bộ cho sự nghiệp xây dựng đất nước và
bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ giảng viên đại học đã trưởng thành nhanh chóng, trong đó có

một số cán bộ xuất sắc, đạt trình độ quốc tế. Vấn đề giáo dục đạo đức, lí tưởng sống cho
thanh niên phải được đặt lên hàng đầu.
Trước đây nhở thanh niên và nhân dân ta thấm nhuần tư tưởng: “Khơng có gì q
hơn độc lập, tự do", chúng ta đã giành lại được độc lập tự do cho Tổ quốc. Ngày nay
cần làm cho mọi người hiểu nỗi nhục của một nước nghèo và lạc hậu, có ý chí quyết
tâm khơng chịu để rơi vào cảnh phụ thuộc, làm nô lệ mới về kinh tế cho các nước giàu.
Do vậy, trong nền giáo dục quảng đại cho đông đảo thanh niên, chúng ta cần đặc biệt
quan tâm đến việc bồi dưỡng, đào tạo người tài. Cần phải thực hiện một chính sách đặc
biệt đối với họ; tạo cho họ những điều kiện tốt nhất để học tập, rèn luyện, cung cấp
những giáo viên giỏi, chương trình học tập đặc biệt, điều kiện sinh hoạt, vật chất đầy đủ
và khi ra trường được bố trí vào làm việc ở những nơi có điều kiện tốt nhất để phát huy
tài năng.
2.4. Những hạn chế trong quá trình vận dụng cơ sở lí luận trong xây dựng
văn hóa học đường của Việt Nam
Thứ nhất, cơ sở lý luận về văn hóa học đường chưa được nghiên cứu một cách
tồn diện, hệ thống. Các quan niệm về văn hóa học đường cịn có sự khác biệt, chưa
thống nhất, dẫn đến khó khăn trong việc vận dụng vào thực tiễn.
Văn hóa học đường là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần được hình thành
và phát triển trong mơi trường nhà trường, tác động đến q trình giáo dục và đào tạo
thế hệ trẻ. Văn hóa học đường có vai trị quan trọng trong việc hình thành và phát triển
nhân cách, phẩm chất của học sinh, góp phần xây dựng xã hội văn minh, hiện đại.
Tuy nhiên, cơ sở lý luận về văn hóa học đường vẫn cịn nhiều hạn chế, cụ thể như:


Các quan niệm về văn hóa học đường cịn có sự khác biệt, chưa thống nhất. Hiện
nay, có rất nhiều quan niệm về văn hóa học đường, trong đó có những quan niệm
20


khác biệt, chưa thống nhất về nội hàm, phạm vi, đặc điểm, vai trị của văn hóa

học đường. Ví dụ, một số quan niệm cho rằng văn hóa học đường chỉ là những
quy định, nội quy của nhà trường, trong khi một số quan niệm khác cho rằng văn
hóa học đường là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần được hình thành và
phát triển trong mơi trường nhà trường. Sự khác biệt về quan niệm này dẫn đến
khó khăn trong việc thống nhất các tiêu chí, chuẩn mực để đánh giá văn hóa học
đường.


Các nghiên cứu về văn hóa học đường chưa được thực hiện một cách tồn diện,
hệ thống. Các nghiên cứu về văn hóa học đường chủ yếu tập trung vào một số
khía cạnh, lĩnh vực cụ thể, như: văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp, văn hóa học
tập, văn hóa sinh hoạt,... Chưa có các nghiên cứu tổng thể, hệ thống về văn hóa
học đường, bao gồm các khía cạnh, lĩnh vực cụ thể và mối quan hệ giữa các khía
cạnh, lĩnh vực này. Điều này dẫn đến sự thiếu đầy đủ, toàn diện về cơ sở lý luận
cho việc xây dựng văn hóa học đường.

→ Những hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc vận dụng các quan niệm,
lý luận về văn hóa học đường vào thực tiễn. Cơ sở lý luận về văn hóa học đường là nền
tảng quan trọng cho việc xây dựng văn hóa học đường. Việc nghiên cứu, hồn thiện cơ
sở lý luận về văn hóa học đường là một yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả xây
dựng văn hóa học đường trong thời gian tới.
Thứ hai, công tác tuyên truyền, giáo dục về văn hóa học đường chưa được thực
hiện hiệu quả. Nhận thức của một bộ phận cán bộ, giáo viên, học sinh về văn hóa học
đường cịn chưa đầy đủ, chưa sâu sắc
Cơng tác tun truyền, giáo dục về văn hóa học đường là một trong những nhiệm
vụ quan trọng nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, giáo viên, học sinh về văn hóa học
đường. Tuy nhiên, cơng tác này vẫn cịn nhiều hạn chế, cụ thể như:


Tần suất, hình thức tuyên truyền, giáo dục còn hạn chế. Nội dung giáo dục về

văn hóa học đường chưa được đưa vào chương trình giáo dục chính khóa và ngoại
khóa một cách thường xuyên, liên tục. Một số hoạt động giáo dục về văn hóa học
đường cịn mang tính hình thức, thiếu hiệu quả. Ví dụ, nhiều trường học chỉ tổ
chức tuyên truyền, giáo dục về văn hóa học đường vào dịp đầu năm học hoặc vào
các dịp lễ, Tết. Các hoạt động giáo dục về văn hóa học đường cũng cịn mang
tính hình thức, chưa thực sự tạo được sự hứng thú cho học sinh.



Nội dung giáo dục chưa phù hợp với thực tiễn. Một số nội dung giáo dục về văn
hóa học đường cịn nặng về lý thuyết, chưa gắn với thực tiễn cuộc sống của học
21


sinh. Ví dụ, một số bài giảng về văn hóa học đường cịn mang tính hàn lâm, khó
hiểu đối với học sinh. Các hoạt động giáo dục về văn hóa học đường cũng chưa
gắn với thực tiễn, chưa giúp học sinh hình thành và phát triển các kỹ năng, phẩm
chất cần thiết trong học tập và cuộc sống.


Phương pháp giáo dục chưa phù hợp. Một số phương pháp giáo dục về văn hóa
học đường chưa phù hợp với lứa tuổi, tâm lý của học sinh. Ví dụ, một số hoạt
động giáo dục về văn hóa học đường cịn q cứng nhắc, khô khan, chưa thu hút
được sự tham gia của học sinh.
→ Những hạn chế này dẫn đến nhận thức của một bộ phận cán bộ, giáo viên, học

sinh về văn hóa học đường cịn chưa đầy đủ, chưa sâu sắc. Một số học sinh chưa nhận
thức được vai trò, tầm quan trọng của văn hóa học đường, chưa có ý thức giữ gìn, phát
huy văn hóa học đường. Cơng tác tuyên truyền, giáo dục về văn hóa học đường cần
được đổi mới, nâng cao hiệu quả nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, giáo viên, học

sinh về văn hóa học đường. Cần tăng cường tần suất, đa dạng hóa hình thức tun truyền,
giáo dục; đổi mới nội dung giáo dục, gắn với thực tiễn; đổi mới phương pháp giáo dục,
phù hợp với lứa tuổi, tâm lý của học sinh.
Thứ ba, cơ chế, chính sách, pháp luật về văn hóa học đường cịn chưa đồng bộ,
thiếu hiệu quả. Việc triển khai các hoạt động xây dựng văn hóa học đường chưa được
quan tâm đúng mức, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành
- Cơ chế, chính sách, pháp luật về văn hóa học đường là hành lang pháp lý cho
việc triển khai các hoạt động xây dựng văn hóa học đường. Tuy nhiên, cơ chế, chính
sách, pháp luật về văn hóa học đường hiện nay vẫn cịn nhiều hạn chế, cụ thể như:


Chưa có hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật về văn hóa học đường đồng bộ,
thống nhất. Các quy định, quy chế về văn hóa học đường hiện nay cịn phân tán,
thiếu tính hệ thống, dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng. Ví dụ, hiện nay, có rất
nhiều văn bản pháp luật quy định về văn hóa học đường, bao gồm: Luật Giáo
dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Điều lệ trường trung học
phổ thông, Điều lệ trường đại học, Điều lệ trường cao đẳng,... Tuy nhiên, các văn
bản này cịn chưa được hệ thống hóa một cách khoa học, dẫn đến khó khăn trong
việc triển khai thực hiện.



Chưa có các chính sách, pháp luật cụ thể, thiết thực nhằm khuyến khích, hỗ trợ
các hoạt động xây dựng văn hóa học đường. Hiện nay, chưa có các chính sách,
pháp luật cụ thể, thiết thực nhằm khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động xây dựng
văn hóa học đường. Ví dụ, chưa có các chính sách hỗ trợ kinh phí cho các hoạt
22


động xây dựng văn hóa học đường, chưa có các quy định về khen thưởng, kỷ luật

đối với các cá nhân, tổ chức có thành tích trong xây dựng văn hóa học đường,...


Việc triển khai các hoạt động xây dựng văn hóa học đường chưa được quan tâm
đúng mức. Một số cấp, ngành chưa nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa
học đường, dẫn đến việc đầu tư, triển khai các hoạt động xây dựng văn hóa học
đường cịn hạn chế. Ví dụ, một số trường học chưa quan tâm đúng mức đến cơng
tác xây dựng văn hóa học đường, chưa có các hoạt động cụ thể nhằm xây dựng
văn hóa học đường,...



Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành trong xây dựng văn hóa
học đường. Việc xây dựng văn hóa học đường cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa
nhà trường, gia đình và xã hội. Tuy nhiên, hiện nay, sự phối hợp này cịn chưa
được chặt chẽ, hiệu quả. Ví dụ, giữa nhà trường và gia đình chưa có sự phối hợp
chặt chẽ trong việc giáo dục, rèn luyện học sinh,...

→ Việc xây dựng cơ chế, chính sách, pháp luật về văn hóa học đường đồng bộ,
thống nhất, quan tâm đúng mức đến việc triển khai các hoạt động xây dựng văn hóa học
đường và tăng cường phối hợp giữa các cấp, các ngành là những yêu cầu quan trọng
nhằm xây dựng văn hóa học đường.
2.5. Nguyên nhân của những hạn chế trong q trình vận dụng cơ sở lí
luận trong xây dựng văn hóa học đường của Việt Nam
Việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong cơng cuộc xây dựng văn hóa học đường
là một nhiệm vụ quan trọng để bảo tồn và phát triển di sản văn hóa của mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, trong quá trình này vẫn tồn tại nhiều hạn chế, có thể kể đến một số nguyên
nhân dẫn đến hạn chế đó là :
Thứ nhất, thiếu nhận thức và quan tâm: Một số người khơng có đủ nhận thức về
giá trị và ý nghĩa của văn hóa dân tộc, hoặc khơng quan tâm đến việc giữ gìn bản sắc

văn hóa dân tộc trong giáo dục. Điều này có thể dẫn đến việc lãng quên và bỏ qua các
yếu tố văn hóa đặc trưng của dân tộc
Thứ hai, sự tiến bộ cơng nghệ và tồn cầu hóa:
- Sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông đã làm cho thế giới trở nên
liên kết hơn bao giờ hết. Điều này có thể dẫn đến sự lan truyền của văn hóa đại chúng
tồn cầu, ảnh hưởng đến văn hóa dân tộc cụ thể.
- Sự thụ động của văn hóa tồn cầu: Văn hóa tồn cầu thường được định rõ bởi các
yếu tố từ phương Tây và các văn hóa phương Tây, như tiêu chuẩn vẻ đẹp, thời trang, và
23


giải trí. Điều này có thể làm cho văn hóa dân tộc trở nên lạc hậu hoặc không phù hợp
trong mắt các thế hệ trẻ
Thứ ba, sự đa dạng trong xã hội: Xã hội ngày càng đa dạng hóa, với sự xuất hiện
của nhiều tôn giáo, sắc tộc và ngôn ngữ khác nhau. Điều này có thể dẫn đến sự mất mát
của sự tập trung vào văn hóa dân tộc và thúc đẩy sự hiện diện của văn hóa tồn cầu.
Thứ tư, hạn chế trong công tác giáo dục
 Chương trình giáo dục khơng đảm bảo việc bảo tồn văn hóa dân tộc:


Ưu tiên kiến thức học thuật: Nhiều hệ thống giáo dục tập trung chủ yếu vào việc
truyền đạt kiến thức học thuật và kỹ năng chung mà ít quan tâm đến văn hóa dân
tộc cụ thể. Điều này có thể làm cho học sinh khơng được học về lịch sử, truyền
thống và giá trị của dân tộc của họ.



Sử dụng giáo trình tiêu chuẩn: Giáo trình và sách giáo khoa thường được soạn
thảo dựa trên chuẩn mực quốc gia hoặc quốc tế, có thể bỏ qua hoặc ít bàn đến
văn hóa dân tộc. Điều này dẫn đến sự thiếu hụt thơng tin về bản sắc văn hóa trong

chương trình học và có thể ảnh hưởng đến sự hiểu biết và nhận thức của học sinh
về văn hóa dân tộc.

 Ngôn ngữ và việc giảng dạy:


Sự mất mát ngôn ngữ dân tộc: Mất mát ngơn ngữ dân tộc có thể dẫn đến sự mất
mát to lớn của văn hóa dân tộc, vì ngơn ngữ thường là một phần quan trọng của
bản sắc văn hóa. Trong một số trường hợp, giáo dục được tiến hành bằng ngôn
ngữ không phải của dân tộc, làm cho thế hệ trẻ không thể tiếp tục truyền bá ngơn
ngữ và thực hành truyền thống.



Khó khăn trong việc giảng dạy văn hóa dân tộc: Giảng viên và giáo viên có thể
gặp khó khăn trong việc giảng dạy về văn hóa dân tộc nếu họ khơng được đào
tạo hoặc khơng hiểu rõ về nó. Điều này có thể dẫn đến việc truyền đạt không hiệu
quả hoặc thiếu hiểu biết về giá trị của văn hóa dân tộc.

 Áp lực học tập và chương trình giảng dạy: Áp lực học tập và chương trình giảng
dạy q tải có thể làm giảm thời gian và không gian để tập trung vào việc giữ gìn
và phát triển văn hóa dân tộc. Việc tập trung quá nhiều vào kiến thức chung và
kỹ năng thi cử có thể làm mất đi sự đa dạng và đặc trưng của văn hóa dân tộc.
Tóm lại, giáo dục và học hành có thể gây ra nguy cơ mất mát văn hóa dân tộc khi
chương trình giáo dục khơng đảm bảo việc bảo tồn văn hóa, khi ngôn ngữ và việc giảng
dạy không được tôn trọng, và khi thực tế xã hội và kinh tế tạo ra áp lực để thay đổi các
24


thực hành truyền thống và giá trị. Để giải quyết vấn đề này, cần sự cân nhắc và đầu tư

vào giáo dục về văn hóa dân tộc, bảo tồn ngơn ngữ và thực hành truyền thống, và tích
hợp yếu tố văn hóa vào chương trình giáo dục.

25


×