Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Bài kiểm tra giữa kì kinh tế chính trị mac lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.43 KB, 7 trang )

Bài kiểm tra giữa kì KINH TẾ CHÍNH TRỊ MAC LÊNIN:
Vấn đề 1: Có người nói: «Chủ nghĩa tư bản có độc quyền, chủ nghĩa xã hội
cũng có độc quyền. Như vậy, bản chất của hai loại độc quyền này là như
nhau». Ý kiến của bạn thế nào?

Bài làm:
a. Chủ nghĩa tư bản độc quyền
-

Lý thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ban đầu là một luận
điểm của chủ nghĩa Mác được phổ biến sau Chiến tranh thế giới thứ
hai. Năm 1916, Lenin từng tuyên bố rằng Chiến tranh thế giới thứ nhất
đã biến chủ nghĩa tư bản tự do thành chủ nghĩa tư bản độc quyền,
nhưng ông không công bố bất kỳ lý thuyết sâu rộng nào về chủ đề này.
Thuật ngữ này đề cập đến một môi trường mà nhà nước can thiệp vào
nền kinh tế để bảo vệ doanh nghiệp độc quyền hoặc chuyên chính lớn
hơn khỏi các mối đe dọa. Như được Lênin hình thành trong cuốn sách
nhỏ cùng tên, lý thuyết này nhằm mục đích mơ tả giai đoạn lịch sử cuối
cùng của chủ nghĩa tư bản, trong đó ơng tin rằng Chủ nghĩa đế quốc
thời đó là biểu hiện cao nhất.

Về chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng như trong các lý thuyết chống nhà nước
theo chủ nghĩa tự do từ nó.
Lý thuyết tư bản độc quyền cho rằng chủ nghĩa tư bản trải qua các giai đoạn
phát triển và biến đổi khi một số thể chế thống trị của nó thay đổi đáng kể
theo thời gian. Nó cũng nói rằng những thay đổi lịch sử đối với sự tập trung
nhiều hơn của ngành công nghiệp cần phải được đưa vào nền tảng của lý
thuyết kinh tế. Sẽ không đủ nếu chỉ đơn thuần giả định mức độ cạnh tranh
cao, vì mức độ độc quyền là rất quan trọng đối với hoạt động của chủ nghĩa
tư bản theo nhiều cách.
Phần lớn cuộc tranh luận về chủ nghĩa tư bản độc quyền liên quan đến mức


độ tập trung của ngành công nghiệp; lực lượng nào kiểm sốt tập đồn lớn;
liệu có tồn tại xu hướng trì trệ do cầu hiệu quả khơng; và liệu một lượng lớn
cái gọi là chất thải có cần thiết cho chủ nghĩa tư bản để giảm thiểu các vấn
đề về cầu một cách định kỳ hay không.
“Tư bản độc quyền” là thuật ngữ thường được sử dụng trong kinh tế chính trị
mácxít và bởi một số nhà phân tích khơng theo chủ nghĩa Mác để chỉ định
hình thức tư bản mới, thể hiện trong tập đoàn khổng lồ hiện đại, bắt đầu từ
quý cuối của thế kỷ XIX, đã thay thế cho tư bản nhỏ. công ty gia đình với tư
cách là đơn vị kinh tế thống trị của hệ thống, đánh dấu sự kết thúc của giai


đoạn cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư bản và sự bắt đầu của chủ nghĩa tư
bản độc quyền.
Trong cơ cấu của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản, nhà nước đã
trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nhà nước cũng là chủ sở hữu những
doanh nghiệp, là nhà tư bản tập thể, và nhà nước ấy càng chuyển nhiều ll
sản xuất thành tài sản của mình bao nhiêu thì lại càng biến thành nhfa tư
bản tập thể thực sự bấy nhiêu
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trị kinh tế nhất định đối với xã hội mà nhà
nước đó thống trị, song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có
sự biến đổi thích hợp đối với xã hội đó. Ngày nay, vài trị của nhà nước tư sản
đã có sự biến đổi, khơng chỉ can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế,
luật pháp mà còn có vai trị tơ chức và quản lý các tổ chức thuộc khu vực
kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các đòn bẩy kinh tế vào tất cả các khâu của
quá trình tái sản xuất là sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng.
Tương tự như chủ nghĩa xã hội có độc quyền nhấn mạnh giá trị cơ bản của
bình đẳng, cơng bằng và đồn kết. Khi những kết hợp giữa tự do và quản lý,
chi phối được thực hiện. Khi có những định hướng đúng đắn, hệ thống chính
trị giúp cho những mong muốn và nhu cầu của cộng đồng có nhiều thuận lợi.
Bên cạnh sự đảm bảo cho một xã hội ổn định và nề nếp. Các trật tự được đặt

ra thông qua luật pháp là phương tiện điều phối chính. Từ đó mà những chính
sách được xem là thiết thực, phù hợp, vì lợi ích chung của dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội đề cao mối quan hệ chặt chẽ giữa những phong trào xã hội
thiết thực và phê phán xã hội lý thuyết. Tức là những giá trị cần thiết phải
được phản ánh là giá trị cho cộng đồng. Có thể là mang đến những bù đắp
cho sự cơng bằng. Cũng như lợi ích mang đến phải đảm bảo phản ánh và tận
dụng được trên thị trường. Có thể là những lợi ích vật chất hay tinh thần. Tuy
nhiên, nó khơng được xây dựng trên lý tưởng lý thuyết mà phải vận hành vào
thực tế.
Theo đuổi mục tiêu nhằm hòa hợp một trật tự xã hội và kinh tế cơng bằng xã
hội. Đó mới chính là các lý tưởng thực tế. Việc thâu tóm quyền lực khơng xảy
ra như chủ nghĩa bản thủ. Việc nhà nước với các quyền lực phải đảm bảo với
tính chất quản lý xã hội. Tức là mang đến công bằng và thay thế cho tiếng
nói chung cộng đồng. Trật tự cũng vì vậy mà được tạo ra, giúp cho các công
bằng được đảm bảo. Đây là chủ nghĩa với những lý tưởng cần thiết. Khi con
người cần được đối xử công bằng, bình đẳng. Ai sinh ra cũng xứng đáng được
hưởng các quyền lợi này. Độc quyền là hậu quả tất yếu của q trình cạnh
tranh khơng được định hướng và điều chỉnh: từ cạnh tranh lành mạnh chuyển
sang cạnh tranh không lành mạnh dẫn tới cạnh tranh mang tính độc quyền
và cuối cùng xuất hiện độc quyền. Độc quyền làm tê liệt cạnh tranh lành


mạnh, kìm hãm sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi
người tiêu dùng, tác động xấu đến cơng bằng xã hội, tạo sức ì đối với chính
bản thân các doanh nghiệp độc quyền. Cạnh tranh khơng lành mạnh và độc
quyền là những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Các nước có nền kinh
tế thị trường phát triển sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để kiểm sốt độc
quyền: chính sách thuế, quản lí giá sản phẩm, điều chỉnh độc quyền, chống
các-ten, tơ-rớt...
Sau C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã tiếp tục nghiên cứu về CNTB trong

điều kiện mới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Những phát triển cơ bản của
V.I.Lênin về học thuyết kinh tế của C.Mác bao gồm:
Thứ nhất, sáng tạo ra lý luận về CNTB độc quyền với tư cách là giai đoạn mới
trong sự phát triển của CNTB. Khác với phần lớn học giả mác xít thời đó
khơng nhận thức được thuật ngữ “chủ nghĩa đế quốc” phản ánh trình độ phát
triển mới của CNTB về chất, V.I.Lênin đã khẳng định: “Vấn đề chủ nghĩa đế
quốc không phải chỉ là một trong những vấn đề chủ yếu nhất, mà có thể nói
đó là một vấn đề chủ yếu nhất trong lĩnh vực khoa học kinh tế nghiên cứu sự
biến đổi những hình thức của chủ nghĩa tư bản trong thời đại hiện nay”. Sự
hình thành của chủ nghĩa đế quốc chứng tỏ rằng, “chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh đã lỗi thời từ lâu, chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành một hệ
thống có tính chất tồn thế giới của một nhúm nhỏ các nước “tiên tiến” đi áp
bức thuộc địa và dùng tài chính để bóp nghẹt đại đa số nhân dân thế giới”.
Theo V.I.Lênin, chủ nghĩa đế quốc chính là là sự phát triển và sự kế tục trực
tiếp của những đặc tính cơ bản của CNTB nói chung. Ơng khẳng định rằng,
CNTB chỉ trở thành chủ nghĩa đế quốc khi nó đã đạt tới một trình độ phát
triển cao, đủ mức làm cho một số những đặc tính cơ bản của CNTB bắt đầu
biến thành điều trái ngược với những đặc tính đó, khi những đặc điểm của
một thời kỳ quá độ từ CNTB sang một chế độ kinh tế - xã hội cao hơn, đã
hình thành và bộc lộ ra hoàn toàn. “Về mặt kinh tế, điểm cơ bản trong quá
trình này là sự độc quyền tư bản chủ nghĩa đã thay thế cho sự cạnh tranh tự
do tư bản chủ nghĩa”.
Phân tích quan hệ sản xuất tại các nước TBCN phát triển dưới tác động
của lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng từ cuối thế kỷ XIX,
V.I.Lênin đã phát hiện ra những xu hướng mới của CNTB: tập trung sản
xuất cao độ trong nền kinh tế TBCN tất yếu dẫn đến hình thành và
phát triển các tổ chức độc quyền với tư cách là những sức mạnh kinh tế
tư bản lớn, quyết định sự vận động tiếp theo của chủ nghĩa tư bản;
theo sự phát triển của độc quyền tư bản đã diễn ra sự dung hợp giữa tư
bản độc quyền ngân hàng với tư bản độc quyền công nghiệp, và trên

cơ sở đó hình thành “tư bản tài chính” và một bọn đầu sỏ tài chính chủ nhân thật sự của các nền kinh tế TBCN phát triển; xuất khẩu tư
bản trở thành hiện tượng phổ biến; sự phân chia thế giới về kinh tế
giữa các tổ chức độc quyền; sự phân chia lãnh thổ giữa các cường quốc
đế quốc. Những xu hướng trên cho thấy CNTB đã chuyển sang giai
đoạn CNTB độc quyền, trong đó lực lượng sản xuất đã phát triển đến


mức độ xã hội hóa cao hơn nhiều so với CNTB tự do cạnh tranh, nhưng
xét về phương diện chính trị thì CNTB đã trở nên ngày càng phản động
hơn. Nguyên nhân kinh tế chủ yếu của sự gia tăng tính phản động của
CNTB trong giai đoạn CNTB độc quyền là sự hình thành một loại tư bản
mới mà thời C.Mác chưa có, đó là tư bản tài chính. Với sức mạnh vượt
trội của mình, tư bản tài chính đã trở thành lực lượng thống trị trong
nền kinh tế của không chỉ các nước TBCN phát triển, mà ngày càng mở
rộng vượt khỏi biên giới quốc gia, ở phạm vi khu vực, toàn cầu. Với sức
mạnh kinh tế hùng mạnh, tư bản tài chính khơng những có thể sử dụng
các phương pháp làm giàu phổ biến đã có từ thời C.Mác, thơng qua
phát triển lực lượng sản xuất, mà cịn có thể sử dụng những biện pháp
mới, phản động như phá hủy lực lượng sản xuất thông qua các cuộc
khủng hoảng, chiến tranh, áp bức bóc lột thuộc địa... Sự phát triển của
CNTB độc quyền với sự gia tăng sức mạnh của tư bản tài chính đã làm
tăng tính ăn bám và thối nát của CNTB, tạo ra những điều kiện đẩy
nhanh q trình tự phủ định chính CNTB.
Lý luận về CNTB độc quyền của V.I.Lênin không chỉ cho thấy những
hình thức mới của quan hệ sản xuất TBCN, mà còn luận giải khoa học
về nguyên nhân của những thay đổi đó, do đặc điểm và trình độ phát
triển mới của lực lượng sản xuất mà thời C.Mác chưa có gây ra. Do đó,
lý luận về CNTB độc quyền của V.I.Lênin là sự bổ sung, phát triển học
thuyết kinh tế nói chung, học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác nói
riêng trong điều kiện mới, trái ngược với quan điểm cứng nhắc, bảo thủ

của lãnh tụ Quốc tế II - C.Cauxky cũng như của các học giả xã hội dân
chủ như Ácxenrốt, Xpếchtato, Máctốp, Lêghin, Đavít, Plêkhanốp,
Tsơkhênkêli, Pêơrêốp và thậm chí cả Tơrốtxki....
C.Cauxky chỉ coi chủ nghĩa đế quốc là một chính sách của tư bản tài
chính, một xu hướng của các nước phát triển nhằm thơn tính các nước
kém phát triển. V.I.Lênin cho rằng, quan điểm đó là hồn tồn sai về
mặt lý luận, do đã “tách rời chính trị của chủ nghĩa đế quốc với kinh tế
của nó́”, từ đó đã “che lấp những mâu thuẫn sâu sắc nhất của chủ
nghĩa đế quốc”. V.I.Lênin khẳng định: “Sự phân tích về lý luận, cũng
như sự phê phán trên phương diện kinh tế và chính trị của Cauxky về
chủ nghĩa đế quốc, đều hoàn toàn tiêm nhiễm cái tinh thần tuyệt đối
khơng thể dung hịa được với chủ nghĩa Mác”, và “chẳng có gì là giống
chủ nghĩa Mác cả̉”. Chính việc không thừa nhận lý luận khoa học của
V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản độc quyền của lãnh tụ và những người
ủng hộ Quốc tế II đã tạo ra sự phân liệt trong phong trào cộng sản
châu Âu và quốc tế, gây khó khăn lớn cho cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa tư bản của giai cấp công nhân ở từng quốc gia cũng như trên
tồn thế giới.
Thứ hai, sự hình thành CNTB độc quyền nhà nước với tư cách là hình
thức phát triển cao của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nghiên cứu về sự
chuyển hóa của CNTB từ tự do cạnh tranh sang độc quyền, V.I.Lênin đã
phát hiện ra xu hướng vận động mới của quan hệ sản xuất TBCN thông


qua sự hình thành, phát triển của CNTB độc quyền nhà nước. Sự phát
triển của CNTB độc quyền đã làm cho “Cuộc sống đã vượt q khn
khổ đó; nó đặt ra vấn đề trước mắt là phải điều tiết sản xuất và phân
phối trên phạm vi tồn quốc”(11), do đó nhà nước tư sản không chỉ đơn
thuần là kẻ gác đêm cho CNTB như trước đây, mà phải gia tăng vai trò
trong đời sống kinh tế của xã hội tư bản, trở thành chủ thể kinh tế

quan trọng để phục vụ cho CNTB. Theo V.I.Lênin, trong CNTB độc
quyền nhà nước, “Sự áp bức khủng khiếp của nhà nước đối với quần
chúng lao động ngày càng trở nên tàn khốc hơn, vì nhà nước ngày
càng chặt chẽ hồ làm một với các tập đồn tư bản có quyền lực vơ
hạn. Các nước tiên tiến - chúng tơi muốn nói “hậu phương” của các
nước đó - biến thành nhà tù khổ sai - quân sự đối với công nhân”, “sự
phát triển chưa từng thấy bộ máy quan lại và quân sự của nó, đi liền
với sự đàn áp giai cấp vơ sản ngày càng gay gắt”.
Với sự hợp nhất tổ chức nhà nước tư sản với các tổ chức kinh tế độc
quyền, việc dùng nhà nước làm công cụ để điều chỉnh sản xuất đã dần
được thực hiện trong chủ nghĩa tư bản. Theo V.I.Lênin, sự điều tiết kinh
tế của nhà nước tư sản vào đầu thế kỷ XX được tiến hành dưới hai hình
thức quan trọng: thứ nhất, bằng cách thực hiện chế độ độc quyền nhà
nước trong lĩnh vực sản xuất; thứ hai, bằng một hệ thống đặc biệt gọi
là “các xí nghiệp hỗn hợp” trong đó người sở hữu chung là nhà nước và
các tổ chức kinh tế của các nhà kinh doanh. Trong những điều kiện
nhất định, để củng cố chủ nghĩa tư bản và tăng cường lợi ích của độc
quyền, sự điều tiết của nhà nước tư bản độc quyền có thể vươn khỏi
phạm vi từng quốc gia thông qua những thỏa hiệp tạm thời giữa các
cường quốc.
Sự điều tiết đời sống kinh tế của nhà nước tạo thuận lợi cho giai cấp tư
sản, đặc biệt là tư bản tài chính làm giàu nhanh hơn, bảo đảm cho họ
những lợi nhuận cao hơn lợi nhuận trước chiến tranh, “nhà nước đã
kiểm soát và điều tiết sản xuất - nhằm mưu lợi cho bọn tài phiệt, cho
bọn nhà giàu”, làm cho công việc kinh doanh “được tổ chức về mặt kỹ
thuật và về mặt xã hội trên phạm vi tồn quốc và đã được hàng trăm
hàng nghìn nhân viên, kỹ sư, v.v. điều khiển”. Do đó, “chủ nghĩa xã hội
khơng phải là cái gì khác hơn là một bước tiến tiếp liền sau chế độ độc
quyền tư bản chủ nghĩa của nhà nước. Hoặc nữa: chủ nghĩa xã hội
khơng phải là cái gì khác hơn là chế độ độc quyền tư bản chủ nghĩa của

nhà nước được áp dụng để phục vụ toàn thể nhân dân và, do đó, khơng
cịn là chế độ độc quyền tư bản chủ nghĩa nữa”.
Thứ ba, điều kiện mới về kinh tế cho cách mạng vơ sản. Từ phân tích
bản chất và những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước, V.I.Lênin đã luận giải khoa học về sự phát triển mới của lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất TBCN khác so với thời C.Mác và từ đó đã
xác định xu hướng lịch sử của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước “là
sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi
vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà giữa nó (nấc thang đó)


với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì khơng có một nấc nào ở
giữa cả”.
Đồng thời V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng, sự phát triển của hình thức mới
của quan hệ sản xuất TBCNdưới hình thái chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước vừa đẩy nhanh sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nói chung,
lại vừa làm cho sự phát triển ấy ngày càng trở nên ngày càng khơng
đều trên phạm vi tồn thế giới, do đó đã tạo ra điều kiện mới cho cách
mạng vô sản.
Trong khi đó, dựa vào nhận định của Ph.Ăng-ghen trong thời chủ nghĩa
tư bản tự do cạnh tranh về tác động của phát triển của đại công nghiệp
tới sự gắn kết các dân tộc với nhau và san bằng sự phát triển trước hết
ở các nước văn minh, làm cho “cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa
khơng những sẽ có tính chất dân tộc mà sẽ đồng thời xảy ra ở trong tất
cả các nước văn minh, tức là ít nhất ở Anh, Mỹ và Đức”, các lãnh tụ
Quốc tế II đã phản bác gay gắt quyết định của V.I.Lênin và Đảng
Bolsevich về thực hiện Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga.
Từ đó đã gây chia rẽ trong phong trào cộng sản ở châu Âu, gây nhiều
khó khăn, cản trở cho q trình thực hiện cuộc cách mạng đó.
V.I.Lênin khẳng định: “Sự phát triển không đồng đều về kinh tế và

chính trị là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Do đó, chúng ta
thấy rằng chủ nghĩa xã hội có thể thắng trước hết là trong một số ít
nước tư bản chủ nghĩa hoặc thậm chí chỉ trong một nước tư bản chủ
nghĩa, tách riêng ra mà nói. Giai cấp vơ sản chiến thắng của nước đó,
sau khi đã tước đoạt bọn tư bản và đã tổ chức nền sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong nước mình, sẽ đứng lên chống lại cái phần thế giới tư bản
chủ nghĩa cịn lại, lơi cuốn những giai cấp bị áp bức ở các nước khác
theo mình, thúc đẩy họ nổi dậy chống bọn tư bản, sử dụng khi cần,
ngay cả lực lượng quân sự, để chống lại các giai cấp bóc lột và nhà
nước của chúng”.
Như vậy, với những phát triển mới về học thuyết kinh tế của chủ nghĩa
Mác nói chung và học thuyết giá trị thặng dư nói riêng trong lý luận về
CNTB độc quyền và CNTB độc quyền nhà nước, V.I.Lênin không những
đã bổ sung, luận giải những điều kiện và tính quy luật mới của lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thông qua sản xuất và phân phối giá
trị thặng dư trong giai đoạn mới của chủ nghĩa tư bản, mà còn tạo ra
cơ sở khoa học cho hình thành nhận thức mới về điều kiện và thời cơ
thực hiện cách mạng lật đổ sự thống trị của tư bản. Do đó, ý kiến cho
rằng V.I.Lênin hoàn toàn mâu thuẫn với C.Mác trong quan điểm về điều
kiện chín muồi về kinh tế của cách mạng vô sản là thiếu căn cứ, không
dựa trên nghiên cứu nghiêm túc lý luận kinh tế của V.I.Lênin.
Thành công của Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga, thắng lợi của chính
quyền xơ viết trong nội chiến và những thành tựu của chính sách kinh
tế mới ở nước Nga trước đây cũng như những thắng lợi mà Việt Nam
giành được trong đấu tranh giành độc lập và phát triển kinh tế - xã hội


thời kỳ Đổi mới là minh chứng rõ ràng về sự kế tục, bổ sung, phát triển
khoa học và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác của V.I.Lênin, đồng thời
khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta

lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Sự phát triển và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác nói chung và học thuyết kinh tế nói riêng
mà V.I.Lênin đã thực hiện là tấm gương, hình mẫu đối với Đảng Cộng
sản Việt Nam trong bảo vệ, củng cố, bổ sung phát triển nền tảng tư
tưởng của Đảng trong bối cảnh mới và đấu tranh chống các quan điểm
sai trái, thù địch.
 Như vậy ở bất cứ quốc gia nào cũng thừa nhận sự tồn tại của rào cản
thị trường do pháp luật tạo ra, bởi lẽ đây là một trong các điều kiện để
đảm bảo lợi ích xã hội và lợi ích quốc gia. Tuy thế, cũng có những rào
cản mà sự tồn tại của nó là bất hợp lý và cần phải được loại bỏ. Ở nước
ta đã có những rào cản bất hợp lý như vậy tồn tại. Nhờ vào sức mạnh
tài chính và kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường, doanh nghiệp
giảm giá tới mức làm cho các doanh nghiệp mới tham gia thị trường
cũng như các doanh nghiệp khác là đối thủ đang kinh doanh trên thị
trường không đủ sức cạnh tranh và phải rút lui khỏi thị trường đó. Kết
quả là doanh nghiệp sẽ giành phần thắng trong cuộc đua về giá. Từ ý
kiến “Chủ nghĩa tư bản có độc quyền, chủ nghĩa xã hội cũng có độc
quyền. Như vậy, bản chất của hai loại độc quyền này là như nhau” là
chưa hoàn toàn đúng. Mỗi một thể chế chính trị đều có những cách đáp
ứng hồn hảo hai tiêu chuẩn của độc quyền



×