Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tl môn csllbc chức năng xã hội, vai trò và nhiệm vụ của báo chí hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.86 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN
Mơn: Cơ sở lý luận báo chí
Đề tài: Chức năng xã hội, vai trò và nhiệm vụ của báo chí hiện nay


MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 3
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG CỦA BÁO CHÍ. 5
1.1. Khái niệm..................................................................................................... 5
1.2. Lý luận về chức năng xã hội của báo chí.......................................................5
CHƯƠNG 2: CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA BÁO CHÍ.................................7
2.1. Chức năng thông tin – giao tiếp.....................................................................7
2.1.1. Thông tin – tin tức..................................................................................7
2.1.2. Đặc tính của tin tức.................................................................................8
2.1.3. Phương thức đáp ứng nhu cầu thơng tin – giao tiếp của báo chí..........10
2.1.4. Một số u cầu đối với thơng tin báo chí..............................................11
2.2. Chức năng tư tưởng.....................................................................................12
2.2.1. Mục tiêu hoạt động báo chí..................................................................12
2.2.2. Yêu cầu cơ bản chức năng tư tưởng của báo chí..................................12
2.3 Chức năng khai sáng, giải trí........................................................................13
2.3.1. Khai sáng..............................................................................................13
2.3.2. Giải trí...................................................................................................14
2.4. Chức năng quản lý, giám sát và phản biện xã hội........................................15
2.4.1. Phương thức quản lý xã hội của báo chí...............................................15
2.5. Chức năng kinh tế - dịch vụ.........................................................................16
2.5.1. Dịch vụ................................................................................................. 16
2.5.2. Quảng cáo.............................................................................................17
2.5.3. Yêu cầu của chức năng kinh tế - dịch vụ..............................................18
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ VÀ NHIỆM VỤ CỦA BÁO CHÍ HIỆN NAY................20
3.1. Vai trị.......................................................................................................... 20
3.1.1. Về chính trị...........................................................................................20
3.2.2. Về kinh tế............................................................................................. 20


3.2.3. Về văn hóa............................................................................................21
3.2. Nhiệm vụ..................................................................................................... 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................25

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay mọi người càng ngày càng có xu hướng cập nhật tin tức một
cách nhanh chóng và u cầu độ chính xác, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi
mà đại dịch COVID-19 đang diễn biến vơ cùng phức tạp. Vì vậy mà báo chí
thời gian gần đây liên tục được nhắc tới trong việc cập nhật và truyền bá tin tức
tới mọi người, đây khơng chỉ là nhiệm vụ mà cịn là một trong những chức năng
quan trọng nhất của báo chí – truyền bá thơng tin.
Chức năng của báo chí nói chung gắn liền với mục đích của báo chí trong
xã hội, có thể trong từng thời kỳ khác nhau. Ví dụ như, trong thời kỳ đấu tranh
kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, báo chí khơng chỉ là phương
tiện tun truyền mà cịn chính là cơng cụ đấu tranh trên phương diện chính trị
hay nghệ thuật. Có thể nói rằng, báo chí là phương tiện vơ cùng quan trọng hiện
nay trong truyền thơng đại chúng.
Vì vậy, em lựa chọn đề tài này để tìm hiểu về các chức năng của báo chí
trong xã hội hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nhằm tìm hiểu và làm rõ các chức năng của báo chí, đồng thời
liên hệ với nhiệm vụ của báo chí.
3. Kết cấu tiểu luận
Ngồi phần mở đầu, kết thúc và tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm có 3
chương.


3


Vì nhiều vấn đề em cịn khơng hiểu hoặc trong lúc tìm kiếm tư liệu để nghiên
cứu có sai sót, nên bài làm sẽ khơng tránh khỏi thiếu sót, em rất mong nhận
được sự phản hồi và góp ý từ thầy để bài làm của em được hoàn thiện hơn. Em
xin chân thành cảm ơn thầy!
Sinh viên thực hiện
Đỗ Nguyễn Anh Thư

4


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG CỦA BÁO CHÍ
1.1. Khái niệm
Theo Từ điển Oxford của Đại học Oxford (Anh), “chức năng”, tiếng Anh
là “function”, mang nghĩa là “hoạt động hoặc mục đích đặc biệt của một người,
một vật hay một yếu tố nào đó”.
Theo Từ điển tiếng Việt, “chức năng” mang hai nghĩa, một là “hoạt động,
tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của một cơ quan, một hệ cơ quan nào đó
trong cơ thể”, hai là “tác dụng, vai trị bình thường hoặc đặc trưng của một
người nào đó, một cái gì đó”.
Có thể thấy, khái niệm “chức năng” được hiểu và phân tích trên mối quan
hệ cụ thể của yếu tố hay sự vật hiện tượng nhất định, và chức năng không phải
là sự áp đặt một cách chủ quan, mà nó tồn tại một cách khách quan trên cơ sở
của những quy luật nội tại của loại hình hoạt động.
1.2. Lý luận về chức năng xã hội của báo chí
Ở đây, khi phân tích mục đích của báo chí để suy ra chức năng, ta cần để
ý đến yếu tố quan trọng nhất, thực tế đời sống xã hội. Tùy vào thực tế xã hội

từng thời điểm khác nhau mà chức năng báo chí được nhận thức và khai sáng
cũng khác nhau. Ví dụ như, thời kỳ trước Mác, nhà chính luận, phê bình người
Đức Bớcnơ Lútvích (1786 – 1837), cho rằng báo chí có hai chức năng: là
phương tiện nhận thức thực tiễn và là cơng cụ đấu tranh chính trị, ủng hộ và bảo
vệ tiến bộ xã hội; tới thời kỳ Mác – Ăngghen, hai ơng lại cho rằng báo chí có
hai chức năng là tuyên truyền và cổ vũ hành động, đồng thời đặc biệt đề cao hai
chức năng này và sử dụng một cách tích cực trong việc truyền bá hệ tư tưởng
mới và giác ngộ giai cấp công nhân, lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân; đến đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đã kế thừa hai chức năng mà Các Mác đã

5


nêu ra, đồng thời bổ sung thêm chức chức năng tổ chức, theo Lênin, báo chí
khơng chỉ tun truyền và cổ động mà cịn tổ chức tập thể, từ đó Lênin đã vận
dụng chức năng này trong việc lãnh đạo Đảng Cộng sản Nga, lãnh đạo phong
trào công nhân Nga tiến hành Cách mạng tư sản tháng hai và Cách mạng xã hội
chủ nghãi Tháng Mười Nga 1917; đến thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội (1917
– 1991), các nhà lý luận báo chí Xơ Viết đã khái qt ba nhóm chức năng cơ
bản của báo chí: nhóm chức năng tư tưởng, nhóm chức năng khai sáng – giải trí,
nhóm chức năng tổ chức – quản lý; đến 1988, trong cuốn giáo trình về cơ sở lý
luận báo chí, PGS. TS. Nguyễn Văn Dững đã bổ sung thêm chức năng kinh tế –
quảng cáo.
Như vậy, có thể hiểu rằng, thuật ngữ “chức năng báo chí” đồng nghĩa với
các thuật ngữ như “sứ mệnh”, “bổn phận vốn có của báo chí”, mặc dù chức
năng của báo chí đã có những sự thay đổi và bổ sung qua từng giai đoạn và phụ
thuộc vào thực tế xã hội của từng giai đoạn đó. Hiểu một cách đơn giản hơn thì
“tổng hợp vị trí, vai trị và tác dụng của báo chí cũng chính là chức năng xã hội
của báo chí”.


6


CHƯƠNG 2
CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA BÁO CHÍ
Theo giáo trình “Cơ sở lý luận báo chí” của PGS. TS. Nguyễn Văn Dững,
chức năng cơ bản của báo chí gồm 4 chức năng: chức năng thông tin – giao tiếp;
chức năng tư tưởng; chức năng khai sáng, giải trí; chức năng quản lý, giám sát
và phản biện xã hội.
2.1. Chức năng thông tin – giao tiếp
Xã hội càng phát triển, con người càng có nhu cầu giao tiếp, tiếp nhận
thơng tin, nhất là trong bối cảnh xã hội 4.0 hiện nay, và tin tức bắt nguồn từ
chính nhu cầu này.
2.1.1. Thông tin – tin tức
Việc đầu tiên khi bàn luận về một điều gì đó, một vấn đề nào đó, chính là
phải hiểu được điều đó, hay vấn đề đó là gì, nói cách khác chính là hiểu được
khái niệm, định nghĩa về điều hay vấn đề bàn luận tới. Nói đến khái niệm, định
nghĩa của “thơng tin”, quả thực có nhiều tranh cãi và bàn luận xung quanh vấn
đề này. “Thông tin”, hay “tin tức”, trong tiếng Anh là “news”, vì vậy mà có
người cho rằng tin tức là thông tin được cập nhật từ khắp mọi nơi, bởi chữ
“news” được ghép từ 4 chữ cái đầu của 4 hướng Đông, Bắc, Tây, Nam trong
tiếng Anh (lần lượt là North, East, West, South); nhưng cũng có người phảnbác
và cho rằng nguồn gốc của từ “news” là “new” trong tiếng Anh, nghĩa là “mới”,
với ngụ ý rằng bản chất của tin tức là luôn luôn mới mẻ. Khi nghiên cứu về vấn
đề này, các nhà nghiên cứu đã đưa ra quan niệm về tin tức trên các phương diện
như: thuyết thực tại (coi tin tức là sự vật, sự việc, hiện tượng có thật xảy ra
trong đời sống), thuyết hành động (coi tin tức như hoạt động truyền thông hoặc
tuyên truyền), thuyết chức năng (coi tin tức như là một cơng cụ, phương tiện để
thực hiện mục tiêu, mục đích).


7


Theo Trịnh Bảo Vệ, tin tức: là những thông tin vừa xảy ra khiến công
chúng cùng quan tâm; là hoạt động truyền thông trong xã hội nhằm quảng bá
những thông tin mới nhất mà công chúng cùng quan tâm; là sự đăng tải hay phát
sóng những bản tin mới nhất mà công chúng cùng quan tâm; là những bản tin
mới nhất mà công chúng cùng quan tâm do cơ quan thông tin đại chúng đem lại
cho công chúng. Đây là những quan điểm gần như sát nhất khi nói về tin tức
báo chí, tuy nhiên thực tế cho thấy quan điểm “tin tức là sự đăng tải hay phát
sóng những bản tin mới nhất mà công chúng cùng quan tâm”, vì khơng phải
những gì báo chí đăng tải hay phát sóng đều là tin tức báo chí, và cũng khơng
phải tất cả những tin tức được đăng tải, phát sóng đều là vấn đề mà cơng chúng
quan tâm. Vì vậy, để phân biệt tin tức với các sự vật, sự việc cùng loại, ta cần để
ý và nhận diện được đặc tính (tính chất riêng) của tin tức.
2.1.2. Đặc tính của tin tức
Đặc tính thứ nhất của tin tức chính là sự thật, nghĩa là thông tin phải gắn
liền với sự kiện có thật. Khi đăng tải hoặc phát sóng tin tức, phải đảm bảo sự
vật, sự việc hay bất kỳ phát ngơn nào trong tin tức là hồn tồn có thực, khơng
thể đưa tin sai sự thật hay thổi phồng, “thêm mắm dặm muối” dù chỉ là chi tiết
nhỏ nhất, vì điều đó sẽ làm mất đi tính chân thực của bản tin. Khi công chúng
không thể trực tiếp đến hiện trường để tiếp nhận hay kiểm chứng tin tức, thì
cơng chúng đã ủy quyền cho nhà báo để làm những việc đó. Với trách nhiệm
của một nhà báo khi hoạt động báo chí, nhất thiết phải tính chân thực vì việc
đưa tin sai sự thật sẽ gây ảnh hưởng lớn khơng chỉ với uy tín của chính nhà báo
hay cơ quan truyền thông đưa tin sai sự thật mà cịn ảnh hưởng tới nhận thưc
của cơng chúng.
Đặc tính thứ hai của tin tức, tính mới mẻ, tức là tin tức về sự kiện mới
xảy ra hoặc tin mới biết hoặc có thể là sự kiện xảy ra đã lâu nhưng mang ý
nghĩa xã hội mới. Tuy nhiên, tính mới mẻ này cịn phụ thuộc vào nhu cầu của

nhóm đối tượng mà bản tin, tin tức nhắm tới, đó có thể là nhu cầu muốn biết,
8


muốn thông báo tin tức này thêm cho nhiều người, v.v… Yếu tố “mới” này
hoàn toàn gắn liền với mục đích, nhu cầu và lợi ích mà thơng tin đem lại cho
nhóm cơng chúng mà thơng tin đó nhắm tới.
Đặc tính thứ ba của tin tức là tính kịp thời, tức là khoảng thời gian từ khi
xuất hiện sự kiện trong đời sống đến khi sự kiện đó được báo chí thơng tin đến
cơng chúng, thường là với khoảng thời gian ngắn nhất. Ở đây, đặc tính này lại
gắn liền với đặc tính thứ hai – yếu tố mới mẻ, tức là nếu tin tức về sự kiện được
thông tin nhanh tới công chúng ngay sau khi sự kiện xảy ra thì đó sẽ là tin mới,
ngược lại, sự chậm trễ trong việc thông tin tới công chúng sẽ khiến tin tức dù
mới mẻ và chân thực cũng trở thành tin cũ, mất đi giá trị tin tức đó. Điều này
phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của nhà báo như năng lực săn tin, khai thác và
xử lý đề tài, một phần phụ thuộc vào cơ quan truyền thông đại chúng trong khâu
sản xuất và chuyển tải tin tức tới cơng chúng. Nói chung, việc đăng tải tin tức
phải dùng tốc độ nhanh nhất có thể, nhanh chóng đưa tin một cách kịp thời tới
cơng chúng.
Đặc tính thứ tư là tính ích lợi, tức là sự kiện, tin tức mà báo chí thơng
báo, đưa tin phải có ý nghĩa, có ích với đối tượng tiếp nhận hoặc với chủ thể
thông tin. Khi đưa sự vật, sự việc trở thành sự kiện thơng tin của báo chí, phải
đảm bảo rằng sự vật, sự việc đó có ý nghĩa xã hội đối với cơng chúng hoặc
nhóm đối tượng mà thơng tin đó nhắm đến, nghĩa là cùng một sự kiện thơng tin,
đối với nhóm cơng chúng này có ích, cịn với nhóm cơng chúng thì khơng. Ví
dụ như cảnh báo áp thấp nhiệt đới hướng tới Bắc Bộ, thì dữ liệu này đối với
người dân miền Bắc sẽ là mưa lớn, gió giật, có thể nguy hiểm, nhưng ngược lại
với người dân Nam Bộ thì khơng có gì xảy ra.
Đặc tính thứ năm của tin tức, tính cơng khai, tức là tin tức phải được lan
truyền cho tất cả mọi người, để tất cả mọi người đều biết. Tuy nhiên, không

phải tin tức nào cũng bắt buộc công khai, như tin tình báo hay tin nội bộ, tin tức

9


nào cơng khai đại chúng cịn phụ thuộc vào ý nghĩa xã hội và lợi ích của cơng
chúng và chủ thể thơng tin quyết định.
Đặc tính thứ sáu, tính liên tục, nghĩa là tin tức báo chí hình thành dịng
thơng tin chứa tin tức về tình hình các sự kiện xảy ra khắp nơi, và dịng thơng
tin này cần liên tục tiếp diễn, không nên bị ngắt quãng. Tuy nhiên, đặc tính này
dù tạo điều kiện thuận lợi nhưng cũng gây khó khăn về mặt áp lực đối với các
nhà báo trong khâu xử lý thơng tin.
Đặc tính thứ bảy, tính dễ đổ vỡ và thay thế, tức là dù có được thẩm định,
thì do đặc tính mới mẻ của tin tức mà nhiều khi nguồn tin có sự thay đổi sau khi
đã đưa tin, vì vậy mà tin tức báo chí có đặc tính dễ đổ vỡ và thay thế – nói ngắn
gọi nghĩa là cần đính chính, cải chính. Điều này thể hiện tin tức dù có đặc tính
chân thực, nhưng về độ chính xác của tin tức thì là cả một q trình.
Đặc tính thứ tám chính là thuộc tính hàng hóa của báo chí, nghĩa là sản
phẩm báo chí là sản phẩm hàng hóa, nên tin tức báo chí mang thuộc tính hàng
hóa. Thuộc tính hàng hóa của tin tức dựa trên đặc điểm cơ bản của thuộc tính
hàng hóa: là sản phẩm lao động (sản phẩm báo chí là sản phẩm lao động); sản
xuất hàng hóa để trao đổi, tiêu dùng với mục đích nhất định (tin tức được sản
xuất để trao đổi với mục đích chuyển tải thơng tin); hàng hóa bao gồm giá trị và
giá trị sử dụng (sản phẩm tin tức cũng có giá trị và giá trị sử dụng); hàng hóa
trong các hình thái xã hội khác nhau thể hiện mối quan hệ sản xuất khác nhau
(sản phẩm tin tức trong xã hội khác nhau, ví dụ sản phẩm tin tức ở Mỹ và sản
phẩm tin tức ở Việt Nam, thể hiện quan hệ sản xuất khác nhau).
2.1.3. Phương thức đáp ứng nhu cầu thông tin – giao tiếp của báo chí
Phương thức đầu tiên chính là thơng tin sự kiện và vấn đề thời sự. Thơng
tin về dịng chảy sự kiện diễn ra mọi nơi mọi lúc luôn được cập nhật nhanh

chóng, kịp thời để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, muốn được biết của công chúng.

10


Thơng tin sự kiện thời sự cũng là tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng của
sản phẩm báo chí.
Phương thức thứ hai, giải thích và giải đáp những thắc mắc, những ý kiến
trái chiều về những sự kiện và vấn đề thời sự đã và đang diễn ra, nhằm tạo sự
đồng thuận trong xã hội về các vấn đề thời sự trên.
Phương thức thứ ba, bình luận. Đây là cách thức chủ yếu để báo chí bày
tỏ quan điểm , thái độ về những sự kiện và vấn đề thời sự, góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề mà công chúng quan tâm đến và đấu tranh chống lại các tư tưởng
sai trái, đối lập. Bên cạnh thông tin, đây cũng là phương thức chủ yếu mà báo
chí thực hiện chức năng xã hội của mình.
2.1.4. Một số yêu cầu đối với thơng tin báo chí
Thứ nhất, thơng tin phải nhanh chóng, kịp thời. Đây là yếu tố tạo nên và
đảm bảo giá trị của sản phẩm báo chí.
Thứ hai, thơng tin cần đảm bảo tính phong phú, đa dạng và nhiều chiều.
Nhu cầu tiếp nhận thông tin của con người không bao giờ quá đơn điệu, một
chiều mà luôn cần sự đa dạng, phong phú.
Thứ ba, thông tin phải phù hợp với các quy tắc và giá trị xã hội cũng như
các giá trị văn hóa và đạo lý dân tộc, phù hợp với phát triển và phục vụ sự phát
triển.
Thứ tư, thơng tin phải đảm bảo tính trung thực. Thơng tin, tin tức về sự
kiện phải hồn tồn có thực, khơng thể đưa tin sai sự thật hay thổi phồng “bé xé
ra to”, “thêm mắm dặm muối” dù chỉ là chi tiết nhỏ nhất, đồng thời thông tin
phải có tác động, ảnh hưởng và lợi ích tích cực tới nhóm cơng chúng trong bối
cảnh thực tế xã hội.


11


2.2. Chức năng tư tưởng
2.2.1. Mục tiêu hoạt động báo chí
Cơng tác tư tưởng, lý luận, báo chí phải góp phần tích cực thực hiện
chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, các tổ chức Đảng ngày càng trong sạch, vững
mạnh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, khắc phục tình trạng suy thối
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên.
Công tác, tư tưởng, lý luận phải vượt qua tình trạng lạc hậu, yếu kém,
cơng tác báo chí phải khắc phục được những khuyết điểm, yếu kém; đổi mới,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, góp phần củng cố tư tưởng, phát triển
trình độ lý luận chính trị, tri thức của tồn Đảng và hệ thống chính trị, khẳng
định vai trị tiên phong của Đảng.
2.2.2. Yêu cầu cơ bản chức năng tư tưởng của báo chí
Yêu cầu thứ nhất, báo chí phải là lực lượng tiên phong và góp phần quan
trọng vào việc tuyên truyền, giáo dục lý tưởng xã hội, làm cho lý tưởng xã hội
và mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước trở thành quyết tâm, niềm tin và sức
mạnh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Yêu cầu thứ hai, báo chí tiên phong và góp phần tích cực vào việc tuyên
truyền hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm cho hệ tư tưởng này
chiếm ưu thế tuyệt đối trong tư tưởng của nhân dân, trở thành hệ tư tưởng chính
trong nhân dân. Đó là q trình truyền bá, giáo dục và cổ vũ quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước tới toàn thể nhân dân,
chống lại các tư tưởng âm mưu, thù địch, chống phá Đảng và Nhà nước.
Yêu cầu thứ ba, với các đặc trưng thế mạnh của mình và sự gắn bó chặt
chẽ với dư luận xã hội, báo chí cần thường xuyên và kịp thời phát hiện nhân tố
mới tích cực, kích thích năng lực sáng tạo cá nhân nói riêng và của cả cộng

12


đồng nói chung: phát hiện và biểu dương người tốt việc tốt; phát hiện, đấu tranh
và bảo vệ những nhân tố mới trong cộng đồng; v.v… nhằm bảo vệ sự phát triển
bền vững của cộng đồng.
Yêu cầu thứ tư, báo chí là lực lượng tiên phong trong cơng cuộc đấu tranh
chống tiêu cực, góp phần làm lành hóa các mối quan hệ xã hội, bảo vệ hệ tư
tưởng và củng cố niềm tin của nhân dân vào hệ thống chính trị.
2.3 Chức năng khai sáng, giải trí
“Khai sáng” là hoạt động truyền bá những tri thức toàn diện để mở mang
hiểu biết, nâng cao dân trí, nâng cao trình độ văn hóa, hiểu biết cho cơng chúng.
“Giải trí” là hoạt động sử dụng hữu ích thời gian nhàn rỗi làm cho đầu óc thảnh
thơi, tái tạo sức lao động một cách hiệu quả.
Chức năng này có mối liên hệ mật thiết với các chức năng tư tưởng và
chức năng quản lý giám sát của báo chí. Trong hoạt động thơng tin hàng ngày,
ngoài phổ biến kiến thức mới, truyền bá những tri thức văn hóa tồn diện nhằm
mở mang, nâng cao trình độ hiểu biết, văn hóa của cơng chúng, báo chí cịn
giúp cơng chúng sử dụng thời gian nhàn rỗi một cách hữu ích và dễ chịu, tạo
điều kiện nghỉ ngơi, tái tạo sức lao động.
2.3.1. Khai sáng
Hàng ngày, lượng thơng tin mà báo chí chuyển tải tới cơng chúng chứa
đựng khối lượng tri thức to lớn về các vấn đề, các lĩnh vực hoạt động của con
người trong đời sống xã hội có liên quan đến con người và được con người quan
tâm. Một trong những nội dung báo chí quan tâm hàng đầu là những giá trị văn
hóa như các tác phẩm văn học nghệ thuật, các lễ hội, v.v… hay các hoạt động
sinh hoạt văn hóa như các liên hoan phim, ảnh, âm nhạc, các cuộc thi đấu thể
thao, các cơng trình kiến trúc nổi tiếng, các chương trình du lịch, giáo dục, phổ
biến kiến thức về văn hóa , v.v…


13


Thơng qua giáo dục truyền thống, báo chí tham gia bảo tồn hệ thống các
giá trị văn hóa. Hệ thống các giá trị văn hóa cần được chọn lọc, phân loại để xác
định nội dung và phương thức giáo dục cho người Việt, và vì việc giáo dục
được phân cấp theo các cấp học phổ thông và đại học mà báo chí khi tuyên
truyền và giáo dục cần bám sát chương trình giáo dục theo đúng cấp học để có
phương thức chuyển tải phù hợp với từng nhóm đối tượng cơng chúng.
Báo chí cần cổ vũ, khích lệ năng lực sáng tạo giá trị mới, đồng thời
truyền bá nhân tố mới, động viên tính tích cực của xã hội. Giá trị mới, nhân tố
mới khi ra đời thường bị chỉ trích, chèn ép hoặc thậm chí bị tiêu diệt, xóa bỏ, vì
vậy cần có báo chí thơng qua dư luận xã hội để bảo vệ và tạo sự ủng hộ đối với
giá trị mới đó, đồng thời nhân rộng vì lợi ích cộng đồng vì mục tiêu phát triển
cộng đồng bền vững.
Ngoài truyền bá, khai sáng về những giá trị mới, giá trị tích cực, báo chí
cịn phê phán, lên án và đấu tranh các hành vi, hành động, hiện tượng tiêu cực,
v.v… nhằm phát triển văn hóa, giáo dục.
Bên cạnh đó, báo chí cịn góp phần trong giao lưu tiếp biến văn hóa với
các dân tộc, các cộng đồng trên thế giới.
2.3.2. Giải trí
Bên cạnh khai sáng, báo chí cịn tạo cơ hội và điều kiện cho cơng chúng
tham gia giải trí, tổ chức và hướng dẫn cơng chúng sử dụng thời gian nghỉ ngơi,
rảnh rỗi để cân bằng trạng thái tâm lý, tái sản xuất sức lao động. Các chương
trình, trị chơi giải trí khơng chỉ đem lại sự giải trí đơn thuần qua tiếng cười hay
sự thư giãn thoải mái mà còn lồng ghép các kiến thức, mở rộng tầm hiểu biết,
rèn luyện khả năng thể chất hoặc khả năng tư duy, v.v… nhằm đáp ứng và thỏa
mãn nhu cầu của công chúng.

14



2.4. Chức năng quản lý, giám sát và phản biện xã hội
Báo chí thực hiện chức năng quản lý xã hội bằng việc cung cấp và duy trì
dịng thơng tin tuần hoàn trong xã hội theo cả 2 chiều. Chiều thứ nhất, báo chí
truyền bá các chủ trương, chính sách và quyết định của quản lý – lãnh đạo, làm
cho các quyết tâm chính trị của lãnh đạo và nhà quản lý trở thành quyết tâm của
toàn dân; chiều thứ hai, là thơng tin đúng đắn, khách quan nhất có thể về những
gì đang diễn ra trước và sau chủ trương lãnh đạo, quyết định quản lý được ban
hành. Với khả năng nhanh chóng, kịp thời, chính xác và trải rộng khắp, báo chí
là những phương tiện có ưu thế tuyệt đối trong việc chuyển đến khách thể quản
lý những thông tin dưới dạng các quyết định quản lý; đồng thời, báo chí cũng
phản ánh thực trạng tình hình khơng chỉ của đối tượng quản lý một cách đa
dạng, phong phú, chính xác và kịp thời tới xã hội, tới chủ thể quản lý, giúp cho
chủ thể quản lý có thêm những nguồn thông tin để đưa ra và tổ chức thực hiện
các quyết định quản lý.
2.4.1. Phương thức quản lý xã hội của báo chí
Thứ nhất, đăng tải, phổ biến các quyết định quản lý và hướng dẫn tổ chức
thực hiện các quyết định quản lý, dưới các hình thức như: đăng tải nguyên văn
các quyết định quản lý; giải thích, phân tích, bình luận cả về ý nghĩa, vai trị,
mục đích của các quyết định quản lý, giúp cho công chúng hiểu đúng và quán
triệt những quyết định quản lý để đưa chúng vào cuộc sống; phổ biến thơng tin
dưới dạng các mơ hình thực tiễn tổ chức thực hiện các quyết định quản lý; v.v…
Thứ hai, phản ánh, phân tích tình hình thực tiễn. Phản ánh, phân tích hiện
trạng tình hình thực tế đời sống, sinh hoạt của các tầng lớp quần chúng nhân dân
cùng với những nhận xét và đánh giá cụ thể. Những phản ánh và nhận xét, đánh
giá có thể tới từ nhà báo, tới từ các chuyên gia hoặc các lực lượng công chúng
xã hội với tư cách là cộng tác viên cung cấp, cũng có thể tới từ chính người dân
phản ánh qua hịm thư, đường dây nóng, đơn khiếu nại, v.v… qua đó tái hiện
bức tranh tồn cảnh về tình hình thực tiễn một cách chân thực nhất, giúp cho

15


công chúng xã hội, các cơ quan chức năng, cơ quan quản lý, v.v… kịp thời điều
chỉnh, bổ sung hoặc đề ra những biện pháp quản lý mới phù hợp.
Thứ ba, kiểm tra việc thực hiện các quyết định quản lý. Thông qua việc
phát hiện các sai lầm, ách tắc trong việc thực hiện các quyết định quản lý; phát
hiện ra các thiếu sót ngay trong các quyết định quản lý, báo chí kịp thời thơng
tin tới chủ thể quản lý, giúp cho chủ thể quản lý và các cơ quan chức năng điều
chỉnh những quyết định và biện pháp quản lý cho phù hợp.
2.5. Chức năng kinh tế - dịch vụ
Kinh tế – dịch vụ là chức năng vốn có của báo chí khi chuyển từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Mang tính chất của sản
phẩm hàng hóa nhưng sản phẩm báo chí là sản phẩm hàng hóa đặc biệt bởi tính
chất của quy trình sản xuất, tổ chức và sản xuất lao động, định giá thành – giá
bán, v.v…
Cũng như nhiều hoạt động kinh doanh sản phẩm hàng hóa khác, để hoạt
động kinh tế – dịch vụ báo chí đạt hiệu quả cần tăng nguồn thu (quảng cáo, các
loại hình dịch vụ, v.v…) đồng thời với giảm chi (cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ
thuật; chi phí trong quá trình sản xuất sản phẩm báo chí; v.v…) trong tồn bộ
hoạt động báo chí, trong từng bước của hoạt động báo chí. Tuy nhiên khơng nên
q chú trọng vào tăng thu mà giảm chi quá nhiều, tốt nhất nên cân đo đong
đếm sao cho cân bằng.
2.5.1. Dịch vụ
Xã hội càng phát triển, các dịch vụ xã hội xuất hiện trên báo chí càng đa
dạng, phong phú, có thể kể đến như: tư vấn sức khỏe, tư vấn việc làm, hướng
dẫn kỹ năng sống, v.v… Đối với loại hình báo điện tử (như báo truyền hình, báo
mạng, báo phát thanh) thì dịch vụ gia tăng cũng là một trong những hướng phát
triển có hiệu quả bên cạnh quảng cáo.


16


2.5.2. Quảng cáo
Bàn đến chức năng quảng cáo của báo chí, tới nay vẫn cịn tranh cãi và đa
số chia làm hai quan niệm:
Quan niệm thứ nhất cho rằng, quảng cáo khơng phải là chức năng xã hội
của báo chí, mà chỉ là việc làm thêm, làm kinh tế thông qua hợp đồng. Quan
niệm này coi việc đăng tải thông tin quảng cáo chỉ là phụ, là nguồn thu phụ cho
hoạt động báo chí, là hoạt động thuần túy mang tính chất kinh tế, thương mại,
v.v…
Quan niệm thứ hai lại cho rằng, đăng tải các thông điệp quảng cáo cũng
là chức năng xã hội của báo chí, bởi một số lý do: quảng cáo là nhu cầu sống
còn, nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường khi mà sự cạnh tranh giữa các
nhà sản xuất, các nhà phân phối là vô cùng lớn với mong muốn mở rộng thị
trường và đẩy nhanh số lượng sản phẩm tiêu thụ cũng như tốc độ tiêu thụ hàng
hóa; các cơ quan báo chí cần chính những nguồn thu từ quảng cáo để trang trải
thu – chi cho cơ quan, xuất phát từ chính nhu cầu muốn gia tăng lợi nhuận của
cơ quan báo chí và để tồn tại cũng như phát triển; nhận thức quảng cáo để tự
giác thực hiện nó một cách có ngun tắc và mang tính chun nghiệp.
Hiện nay, nhiều người cho rằng nguồn thu từ quảng cáo khơng cịn là phụ
thu mà đã trở thành nguồn thu chính, cơ bản và lâu dài. Nguồn thu này giúp cơ
quan báo chí cải thiện, đổi mới cơng nghệ làm báo, tăng lương, tăng nhuận bút
cho những người làm lao động báo chí, tổ chức các hoạt động xã hội như gây
quỹ từ thiện, v.v… và cả nộp thuế cho Nhà nước. Quảng cáo cũng là một
phương án tối ưu nhằm tăng chỉ số phát hành (đối với báo in) và diện phủ sóng
(đối với báo truyền hình), mở rộng diện quan tâm của công chúng và quan hệ
công chúng.
Dù quảng cáo có vẻ là cần thiết cho hoạt động kinh doanh báo chí, thì
việc chú ý tới nội dung hay thông điệp quảng cáo là vô cùng quan trọng. Mỗi

17


quảng cáo đều có ý nghĩa hay thơng điệp riêng và nhắm vào một nhóm đối
tượng, nhóm cơng chúng cụ thể; và với báo in, không nên quá chú trọng vào
quảng cáo mà bỏ qua phần nội dung trên báo, làm giảm chất lượng của thông
tin, tin tức trên báo chí và có thể gây khó chịu cho người đọc.
2.5.3. Yêu cầu của chức năng kinh tế - dịch vụ
Do đặc thù của chính quảng cáo mà thơng điệp và ý nghĩa của quảng cáo
có thể tác động và ảnh hưởng tới suy nghĩ, nhận thức, tư tưởng, thị hiếu, lối
sống, v.v… của con người, nhất là thế hệ trẻ. Vì vậy, cần phải có u cầu riêng
cho quảng cáo và quảng cáo bắt buộc phải tuân thủ những yêu cầu đó, bao gồm:
Đầu tiên chính là u cầu về tính xác thực của thơng điệp hay ý nghĩa của
quảng cáo bảo đảm lợi ích của cả doanh nghiệp và khách hàng – cơng chúng
truyền thơng. Vì đối tượng chủ yếu của báo chí là cơng chúng, nên báo chí cần
bảo vệ lợi ích của cơng chúng, khơng nên đăng thông điệp quảng cáo bằng mọi
giá.
Thứ hai là thông điệp, ý nghĩa quảng cáo phải phù hợp với quy tắc xã hội,
đạo lý của dân tộc và đạo đức cộng đồng, giá trị văn hóa và quan niệm giá trị
của dân tộc.
Cuối cùng, thông điệp quảng cáo phải phù hợp với quan điểm, chủ
trương, chính sách và luật pháp của Đảng và Nhà nước cũng như phải tuân thủ
Luật Quảng cáo và ngun tắc hoạt động báo chí.

Những nhóm chức năng trên của báo chí có mối liên hệ chặt chẽ, chi phối
và tác động lẫn nhau, là tiền đề và điều kiện của nhau để tạo thành hệ thống
hoàn chỉnh, thống nhất trong việc tác động tới công chúng xã hội. Dù nằm trong
mối quan hệ chặt chẽ, nhưng trên thực tế mỗi chức năng xã hội của báo chí lại
được thể hiện dưới những hình thức và phương thức khác nhau. Vì vậy, vai trị


18


thực tế của báo chí trong xã hội được thể hiện đầy đủ chỉ khi hoạt động báo chí
được xem xét trong việc thực hiện tổng thể những chức năng xã hội nói trên đối
với từng cơ quan báo chí, từng loại hình báo chí hay cả hệ thống báo chí nói
chung. Việc phân loại thành từng chức năng để phân tích bản chất, đặc điểm và
phương thức hay cách thức thực hiện, về mặt lý luận chỉ có ý nghĩa khi ta hiểu
đầy đủ mối liên hệ thống nhất giữa những chức năng trên, từ đó vận dụng một
cách sáng tạo, có hiệu quả những hiểu biết ấy vào thực tiễn hoạt động báo chí.

19


CHƯƠNG 3
VAI TRỊ VÀ NHIỆM VỤ CỦA BÁO CHÍ HIỆN NAY
3.1. Vai trị
3.1.1. Về chính trị
Báo chí đã góp phần không nhỏ trong việc giúp Đảng tuyên truyền chủ
trương, đường lối, chính sách để khắc phục những yếu kém và sai phạm và đưa
kinh tế đất nước phát triển, giúp nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính
sách. Hơn nữa báo chí cịn là diễn đàn của nhân dân khi từ những kiến nghị,
phản ánh của nhân dân, báo chí đã đăng tải thơng tin nêu lên những vụ việc gây
bức xúc trong nhân dân để các cơ quan quản lý biết và sửa chữa sai phạm.
Hiện nay, việc báo chí truyền bá và định hướng nhân dân có tư tưởng
chính trị vững vàng thơng qua nội dung của một số hội thảo để nhân dân hiểu và
ủng hộ đang ngày càng thực hiện tốt.
Với vai trị là cơng cụ hữu hiệu để giám sát, quản lý nhằm cải cách và
điều hành xã hội, báo chí chính là những phương tiện chuyển tải đến khách thể
quản lý những thông tin dưới dạng các quyết định quản lý; đồng thời, báo chí

cũng phản ánh thực trạng tình hình của đối tượng quản lý tới xã hội, tới chủ thể
quản lý, giúp cho chủ thể quản lý, ở đây là các cơ quan chức năng, cơ quan có
thẩm quyền trong việc quản lý, có thêm những nguồn thơng tin để đưa ra các
quyết định quản lý và tổ chức thực hiện các quyết định đó.
3.2.2. Về kinh tế
Báo chí cịn có khả năng quảng cáo sản phẩm, tạo điều kiện cho các nhà
sản xuất quảng bá các sản phẩm của mình tới người tiêu dùng để sản phẩm có
sức tiêu thụ lớn hơn, thúc đẩy sản xuất để đem lại lợi nhuận lớn hơn.
Hiện nay, báo chí chí cịn đưa ra giá cả thị trường để ổn định thị trường
trong nước và thế giới, đồng thời cập nhật liên tục từng giờ nhằm đem đến
thơng tin chính xác nhất.
20



×