Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tuyến Trùng Hại Khoai Mỡ doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.35 KB, 4 trang )

Tuyến Trùng Hại Khoai Mỡ
Khoai mỡ (Dioscorea alata Linn.) là một
trong 600 loài của giống Dioscorea được
trồng làm cây lương thực rất lâu đời. Một
số loài khác của Dioscorea cũng được con
người trồng, hoặc khai thác từ cây dại để
sử dụng như một loại lương thực như: D.
esculenta Burk. (khoai từ), D.
hispida Dennt. (củ nần), D. pierrel Prain. (củ từ nước), D. bulbifera Linn.
(khoai dái)… Trên thế giới, cây khoai mỡ được trồng ở 3 vùng chính: Tây
Phi, khu vực biển Thái Bình Dương (kể cả Nhật Bản) và các nước trong
vùng biển Caribê. Tại Việt Nam, khoai mỡ cũng được trồng làm cây lương
thực ở khá nhiều nơi trong đó có tỉnh Long An là một trong những nơi có
diện tích khoai mỡ lớn và tập trung nhất.
Khoai mỡ được trồng bằng củ và có thể trồng theo kiểu độc canh. Tuy nhiên
để hạn chế các loại bệnh hại nên trồng khoai mỡ luân canh với một số cây
trồng khác. Điều kiện môi trường tốt cho sinh trưởng của khoai mỡ là : mùa
mưa kéo dài và lượng mưa đạt tối thiểu là 1500 mm, nhiệt độ trung bình
khoảng 30
o
C, đất tơi xốp và tầng canh tác dày.
Các loại tuyến trùng gây hại khoai mỡ
Người ta đã tìm thấy nhiều giống tuyến trùng luôn có mặt trong đất trồng
khoai mỡ, trong số này các giống nội ký sinh (endoparassite) được đánh giá
là gây hại nhiều nhất. Có 3 giống được xem là gây hại nhiều cho khoai mỡ
là: Scutellonem bradys, Pratylenchus coffeae và Meloidogyne spp.
1. Scutellonema bradys
Đây là tuyến trùng gây ra bệnh “thối khô” trên khoai mỡ. Tuyến trùng này
được tìm thấy ở tất cả các vùng trồng khoai mỡ trên thới giới.
Bệnh xảy ra ở lớp vỏ ngoài và có thể lan sâu vào bên trong từ 1.5- 2 cm.Ở
lớp này thường có rất nhiều tuyến trùng sinh sống trong đó. Giai đoạn đầu


chỗ vết thối của phần vỏ ngoài xuất hiện một chất nhầy như kem, có màu
vàng sáng. Sau đó bệnh tiếp tục lan đến những nơi khác và thường chỉ lan
sâu vào bên trong khoảng 2 cm. Cuối giai đoạn của bệnh, các mô bệnh
chuyển sang màu vàng sẫm , nâu. Rồi cuối cùng là màu đen. Bệnh thường
xảy ra trên các củ ở giai đoạn tăng trưởng mạnh, giai đoạn gần thu hoạch và
đặc biệt là trong thời gian tồn trữ, giai đoạn này thường có sự phối hợp giữa
tuyến trùng và các vi sinh gây bệnh khác làm cho bệnh trầm trọng thêm.
Hoàn toàn không có triệu chứng nào của bệnh thể hiện trên lá, do đó chỉ
quan sát phần cây (dây leo) trên mặt đất sẽ không thể phát hiện được bệnh.
S. bradys là một loại tuyến trùng di trú nội ký sinh có trong đất, trong rễ, và
trong củ. Điều đáng nói là những tuyến trùng khi đã vào trong củ rồi sẽ tiếp
tục sinh sản rất nhanh và bệnh sẽ trầm trọng thêm nhất là giai đoạn sau thu
hoạch đưa vào tồn trữ. Trong thời gian tồn trữ từ 4 – 6 tháng số lượng tuyến
trùng có trong củ sẽ tăng lên từ 5 – 8 lần so với số lượng ban đầu (nhiệt độ
môi trường tồn trữ khoảng 25 – 32
o
C).
Tuyến trùng S. bradys có khả năng thích nghi với điều kiện môi trường rất
tốt, khi trong đất không có ký chủ thích hợp tuyến trùng vẫn có khả năng tồn
tại và phát triển. Do những điều vừa nói ở trên chúng ta cũng thấy rằng củ
giống nếu không chọn lọc kỹ, không loại bỏ những củ đã nhiễm tuyến trùng
thì chính củ giống là nguồn phát tán tuyến trùng rất đáng kể. Phòng trừ
tuyến trùng hữu hiệu phải bắt đầu từ khâu chọn giống .
2. Pratylenchus coffeae
Tuyến trùng Pratylenchus coffeae cũng là một loại di tú nội ký sinh giống
như tuyến trùng S. bradys
- Tuyến trùng P. coffeae có thể xâm nhập và gây thối vào sâu trong củ so với
tuyến trùng S. bradys, thường từ 5 cm hay sâu hơn.Trên các cây bị nhiễm
Pratylenchus coffeae thì phần thân (dây leo) ở bên trên cũng thường có dấu
hiệu cây bị nhiễm tuyến trùng như: lá vàng sớm, dây còi cọc kém phát triển

so với các dây không bị nhiễm. Do đó có thể quan sát phần dây deo để chẩn
đoán tình trạng nhiễm bệnh.
- Tuyến trùng P. coffeae rất nhạy cảm với điều kiện nhiệt độ môi trường.
Tuyến trùng sẽ ngừng sinh sản nếu nhiệt độ môi trường bảo quản giảm
xuống ở khoảng 12 – 13
o
C.
3. Meloidogyne spp.
Meloidogyne spp. còn gọi là tuyến trùng gây sưng rễ do các khối u như mụn
cóc mà chúng tạo ra cho củ trong suốt quá trình ký sinh. Đây là giống tuyến
trùng có phổ ký chủ khá rộng, ngoài cây khoai mỡ chúng còn có khả năng
gây hại trên rất nhiều giống cây trồng khác. Meloidogyne có 5 loài khá phổ
biến trên thế giới cũng như tại Việt Nam, M. javanica được đánh giá là nguy
hiểm nhất do những thiệt hại về mặt kinh tế mà chúng gây ra.
Dấu hiệu điển hình rất dễ dàng nhân ra đối với giống tuyến trùng này là
những bướu trên bề mặt của củ. Trong quá trình ký sinh, tuyến trùng này tiết
ra những kích thích tố làm các tế bào tăng trưởng không bình thường về mặt
thể tích. Sau thời kỳ phình to về thể tích của từng tế bào là giai đoạn hình
thành các đại tế bào do sự sát nhập của nhiều tế bào lại với nhau làm cho ô
nhiễm bệnh phình to bất thường tạo ra những khối u đặc trưng như đã nói ở
trên. Bên trong các khối u này là thân của những tuyến trùng cái biến dạng
từ hình sợi chỉ sang hình như quả lê chứa đầy trứng. Cuối cùng các trứng
này sẽ được phóng thích ra ngoài đất dưới dạng các túi nhày vào thời điểm
các mô của vỏ củ bị hoại hoàn toàn. Những củ bị nhiễm Meloidogyne spp
thường giảm khả năng mọc mầm rất nhanh.
Các biểu hiện bên trên (phần dây leo và lá) cũng có thể quan sát dễ dàng.
Các cây bị nhiễm thường có bộ lá vàng úa, rụng sớm, ngọn không phát triển.

×