Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.59 KB, 90 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

NGUYỄN ANH THƯ
MSSV: 1853401020258

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ
QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT VIÊN CHỨC

Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 – 2023

Người hướng dẫn: Th.S NGUYỄN VĂN TRÍ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

NGUYỄN ANH THƯ
MSSV: 1853401020258

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ
QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT VIÊN CHỨC

Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 – 2023


Người hướng dẫn: Th.S NGUYỄN VĂN TRÍ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG ........................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP VỀ QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT CỦA VIÊN CHỨC ........................... 1
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ
luật viên chức ................................................................................................................ 1
1.1.1.

Khái niệm giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức .............1

1.1.2.

Đặc điểm giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức ...............3

1.1.3.

Ý nghĩa giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức .................5

1.2

. Quan hệ giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức ................. 9

1.1.4. Chủ thể trong quan hệ giải quyết tranh chấp quyết định định kỷ luật
viên chức .........................................................................................................................9

1.1.5.

Nội dung về giải quyết tranh chấp quyết định kỷ luật viên chức .................13

1.1.6.
chức

Khách thể trong quan hệ giải quyết tranh chấp quyết định kỷ luật về viên

1.2.

Phương thức giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức ......... 15

1.2.1.

Phương thức giải quyết tranh chấp bằng khiếu nại .....................................16

1.2.2.

Phương thức giải quyết tranh chấp bằng khởi kiện .....................................25

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................... 36
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP VỀ QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT VIÊN CHỨC ....................... 37
2.1.

Thực trạng giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức ............ 37

2.1.1.


Thực trạng giải quyết tranh chấp theo thủ tục giải quyết khiếu nại ...........37

2.1.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp liên quan quyết định kỷ luật viên chức
theo thủ tục tố tụng dân sự ...........................................................................................42
2.1.3. Nguyên nhân dẫn đến bất cập, hạn chế giải quyết tranh chấp về quyết
định kỷ luật viên chức...................................................................................................49
2.2. Kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp quyết định kỷ luật viên
chức 50
2.2.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp quyết định kỷ
luật viên chức. ...............................................................................................................50
2.2.2.

Giải pháp về giải quyết tranh chấp quyết định kỷ luật viên chức ................58

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................... 74
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tơi, có sự hỗ trợ từ
giảng viên hướng dẫn là Th.S Nguyễn Văn Trí. Các nội dung nghiên cứu và kết quả
trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ cơng trình
nghiên cứu nào trước đây. Việc sử dụng các kết quả và những trích dẫn từ tài liệu
của những tác giả khác đã được tôi đảm bảo thực hiện theo đúng các quy định khi
làm bài khóa luận. Các phần nội dung trích dẫn, các tài liệu từ sách báo và thông tin
tham khảo đã được đăng tải trên các tác phẩm cũng như các trang Web được trình
bày theo danh mục tài liệu tham khảo của khóa luận.
Người cam đoan


Nguyễn Anh Thư


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TCLĐ

Tranh chấp lao động

TAND

Tòa án nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân

ĐVSN

Đơn vị sự nghiệp

TTHC

Tố tụng hành chính


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài.

Đội ngũ viên chức là nhân tố đóng vai trị quyết định trong việc nâng cao

năng suất, chất lượng cung ứng dịch vụ công, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
người dân và xã hội. Đây là lực lượng lao động nòng cốt trong đơn vị sự nghiệp
công lập và doanh nghiệp nhà nước. Trách nhiệm của mỗi viên chức là thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao và phải thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, quy chế
mà đơn vị đề ra. Bên cạnh đó, họ cịn phải là những tấm gương sáng trong rèn luyện
về phẩm chất, đạo đức, lối sống, tâm huyết với nghề nghiệp. Trên thực tế có những
viên chức với năng lực còn hạn chế, thiếu chuyên nghiệp, có những hành vi vi phạm
kỷ luật trong q trình cơng tác. Theo đó, họ phải chịu trách nhiệm pháp lý bằng các
quyết định kỷ luật do chủ thể có thẩm quyền ban hành.
Trường hợp viên chức cho rằng quyết định kỷ luật trái pháp luật, xâm phạm
đến quyền và lợi ích của mình thì họ được quyền tìm kiếm những phương thức khác
nhau để bảo vệ chính mình. Khi phát sinh tranh chấp giữa viên chức với chủ thể có
thẩm quyền đã ban hành quyết định kỷ luật thì nhu cầu giải quyết tranh chấp về
quyết định kỷ luật của viên chức cũng được xuất hiện. Theo đó, viên chức được
quyền khiếu nại đối với quyết định kỷ luật viên chức và trong trường hợp viên chức
bị kỷ luật với hình thức kỷ luật là buộc thơi việc dẫn đến bị chấm dứt hợp đồng làm
việc thì có quyền khởi kiện vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự. Song pháp luật
hiện hành về những quy định liên quan đến giải quyết tranh chấp quyết định kỷ luật
viên chức còn tồn tại nhiều bất cập, vướng mắc, khiến cho các tranh chấp chưa
được giải quyết một cách phù hợp.
Theo chiều dài phát triển của đất nước, nhiều mối quan hệ phát sinh, diễn
biến nhanh trong khi việc điều chỉnh bằng các quy định của pháp luật hiện hành thì
chưa theo kịp thực tiễn.... Khi xử lý tốt những vấn đề nêu trên, giải quyết được
“vướng mắc” của viên chức thì đây là cơ sở để củng cố và giữ vững niềm tin của họ
vào kỷ luật cơng minh, chính sách của Đảng và Nhà nước. Điều này cũng góp phần
tạo ra mơi trường làm việc kỷ cương, nối tiếp cơng cuộc thực hiện cải cách hành
chính nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước bởi chính
họ là yếu tố đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao năng suất, chất lượng cung

ứng dịch vụ công..... Do vậy, những tồn tại, bất cập về giải quyết tranh chấp quyết


định kỷ luật viên chức cần được nhận diện và nghiên cứu thấu đáo, từ đó kiến nghị
hồn thiện chính sách, pháp luật có liên quan. Đó cũng là lý do tác giả lựa chọn đề
tài “Giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Nội dung nghiên cứu xoay quanh giải quyết tranh chấp đối với quyết định kỷ
luật của viên chức là vấn đề mang tính thời sự, nhận được sự quan tâm của giới
khoa học pháp lý và các cấp chính quyền. Thời gian qua đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu, sách báo và các bài viết liên quan đến vấn đề này dưới góc độ lý luận
và thực tiễn như:
- “Thực hiện pháp luật về viên chức trong trường Đại học ở Việt Nam” –
Nguyễn Thị Thu Hương (2016) – luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật Đại học
quốc gia Hà Nội.
- “Khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong ĐVSN cơng lập”, khóa luận tốt
nghiệp cử nhân Luật học, Đại học Luật TP HCM.
- “Chế độ hợp đồng làm việc của Viên chức”- Đào Xuân Quang, Luận văn
thạc sĩ, chuyên ngành Luật Hiến Pháp và luật Hành chính, Trường Đại học Luật
TP. Hồ Chí Minh
- “Khiếu nại và giải quyết khiếu nại của công dân – Thực trạng và giải pháp”,
Đinh Diệu Linh (2006), Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật học, Trường Đại học
Luật TP. Hồ Chí Minh.
- “Pháp luật về viên chức ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập”, Lê Thị Quỳnh
Nga (2011), luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.
- “ Khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong đơn vị sự nghiệp cơng lập”, Nguyễn
Văn Vinh (2013), khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật học, Đại học Luật TP. Hồ
Chí Minh.
Bên cạnh đó, tác giả cũng tham khảo một số bài báo khoa học liên quan đến đề

tài nghiên cứu, bao gồm:
- “Chế định hợp đồng trong Luật Viên chức”, Bùi Thị Đào (2015), Tạp chí Tổ
chức nhà nước (tháng 03/2015);


- “Hợp đồng làm việc của Viên chức theo Luật Viên chức 2010”, Nguyễn Thị
Thiện Trí (2010), Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 03/2012);
- “Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý viên chức trong các đơn vị sự nghiệp cơng
lập”, Trần Anh Tuấn (2010), Tạp chí Tổ chức nhà nước – Bộ Nội vụ (số
5/2010).
- “Bàn về hợp đồng làm việc của Viên chức”, Nguyễn Thị Thu Hương (2012),
Tạp chí Dân chủ và pháp luật (tháng 06/2012).
Hiện nay, các cơng trình nghiên cứu phần lớn nghiên cứu sâu và cụ thể với từng
vấn đề trong giải quyết tranh chấp quyết định kỷ luật viên chức mà chưa có sự khái
quát hóa, tổng thể và đồng bộ trên phương diện về lý luận cũng như thực tiễn giải
quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức. Xuất phát từ những mặt hạn chế
của những tác phẩm, khóa luận hướng đến nghiên cứu tổng thể nội dung của chế
định này từ những vấn đề chung về lý luận, phân tích các quy định pháp luật, đánh
giá thực tiễn và đưa ra đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật.
Hiện tại chưa có một cơng trình nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy đủ và
chuyên biệt trong việc giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức. Vì
vậy, đề tài nghiên cứu của tác giả sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn
thiện các quy định pháp luật Việt nam về các vấn đề liên quan đến giải quyết tranh
chấp về quyết định kỷ luật viên chức.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu vấn đề giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức
chỉ ra được những bất cập trong quá trình giải quyết của chủ thể có thẩm quyền từ
đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý cũng như hoạt động giải quyết
tranh chấp của chủ thể có thẩm quyền, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của
viên chức, phát huy hiệu quả kinh tế xã hội.

Những mục tiêu nghiên cứu cụ thể:
Thứ nhất, tìm hiểu và phân tích các khái niệm liên quan đến đề tài.
Thứ hai, tìm hiểu – hệ thống cơ sở lý luận của việc giải quyết tranh chấp quyết
định kỷ luật.


Thứ ba, nghiên cứu và đánh giá thực trạng pháp luật với vấn đề liên quan đến
đề tài. Từ đó đưa ra kiến nghị cũng như có các giải pháp để góp phần tăng cường
hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm các quy định của pháp luật về giải
quyết tranh chấp quyết định kỷ luật của viên chức trong Luật Viên chức năm 2010,
Bộ luật Lao động năm 2019, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng
hành chính năm 2010, Nghị định số 112/2020/NĐ-CP xử lý kỷ luật cán bộ, công
chức, viên chức ... và các quy định pháp luật khác có liên quan. Bên cạnh đó, đối
tượng nghiên cứu của khóa luận cịn là thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết
tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức từ khi Luật Viên chức năm 2010 và các
văn bản pháp luật có liên quan được ban hành cho đến giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trước hết, giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài: Do tính chất phức tạp và rộng
lớn của đề tài, khóa luận giới hạn phạm vi nghiên cứu ở việc phân tích, tìm hiểu các
quy định có liên quan đến đề tài được quy định tại Luật Khiếu Nại 2011, Luật Viên
Chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật TTHC năm 2015.
Phạm vi nghiên cứu về không gian:
- Thực tiễn thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp quyết định kỷ luật
viên chức tại Việt Nam thông qua các trường hợp xảy ra trên phạm vi cả nước.
- Kinh nghiệm thực hiện giải quyết tranh chấp quyết định kỷ luật viên chức ở
một số quốc gia trên thế giới.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu khoảng thời

gian từ 2010 trở lại đây, đặc biệt khoảng thời gian từ năm 2012 bởi đây là giai đoạn
luật Viên chức 2010 có hiệu lực, viên chức trở thành đối tượng được điều chỉnh trực
tiếp trong Luật, đánh dấu tư cách pháp lý độc lập của viên chức. Nghiên cứu được
thực hiện trong bốn tháng, từ tháng 2/2023 đến tháng 06/2023.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: đề tài được trình bày dựa trên quan điểm nhận thức của
chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật. Đây là phương pháp luận khoa


học được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ đề tài. Bên cạnh đó, tác giả cịn áp
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng nhiều
phương pháp khác nhau tùy thuộc vào từng vấn đề gồm:
+ Phương pháp logic được tác giả sử dụng trong toàn bộ luận văn như là một
phương pháp nhằm đảm bảo cho việc xem xét và đánh giá vấn đề một cách toàn
diện.
+ Phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích được
tác giả chủ yêu sử dụng ở chương 1 nhằm làm rõ những vấn đề về lý luận và pháp
lý về giải quyết tranh chấp quyết định kỷ luật viên chức.
+Phương pháp tổng hợp được sử dụng nhiều ở chương 2. Các phương pháp
này giúp cho tác giả nêu bật được những bất cập trong quy định pháp luật về giải
quyết tranh chấp quyết định kỷ luật viên chức và giải pháp thực hiện.
Ngoài ra, tác giả còn vận dụng các thành tựu nghiên cứu khoa học, những
luận điểm khoa học trong các cơng trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết của
các tác giả khác để phát triển nội dung nghiên cứu trong bài viết khóa luận.
6. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận gồm: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục
Phần nội dung gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về giải quyết tranh chấp quyết định kỷ

luật viên chức.
Chương 2 : Thực trạng và kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về
quyết

định

kỷ

luật

viên

chức.


1

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP VỀ QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT CỦA VIÊN CHỨC
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ
luật viên chức
1.1.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức
Đối với Việt Nam, hiệu lực hiệu quả của bộ máy nhà nước nói riêng và của
tồn bộ hệ thống chính trị nói chung, xét đến cũng được quyết định bởi phẩm chất,
năng lực và hiệu quả công tác của đội ngũ viên chức. Theo Luật Viên chức và các
văn bản pháp luật quy định việc xử lý kỷ luật thì viên chức khi có hành vi vi phạm
pháp luật hoặc vi phạm kỷ luật thì sẽ bị xử lý kỷ luật. Việc kỷ luật viên chức phải
thực hiện theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật và
phải bằng quyết định kỷ luật. Vậy trước hết cần phải hiểu như thế nào là tranh chấp

quyết định kỷ luật viên chức.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, viên chức phải tuân theo trách
nhiệm kỷ luật. Có thể hiểu theo hướng tích cực thì đây là bổn phận mà mỗi viên
chức khi làm việc tại ĐVSN công lập phải tuân thủ nghiêm chỉnh các trách nhiệm,
nghĩa vụ của mình. Nhưng hiện nay cách hiểu phổ biến thì trách nhiệm kỷ luật này
là các biện pháp chế tài mang tính chất bất lợi được áp dụng với viên chức khi vi
phạm các quy định của ĐVSN công lập sử dụng viên chức. Việc viên chức chịu
trách nhiệm về hành vi vi phạm nào mà mình đã thực hiện thể hiện rõ nét trong loại
hình thức kỷ luật mà viên chức đó bị áp dụng. Khi áp dụng các hình thức này sẽ tùy
theo tính chất, mức độ vi phạm mà viên chức phải chịu một trong các hình thức kỷ
luật: khiển trách, cảnh cáo, cách chức (đối với viên chức quản lý) và buộc thơi việc.
Kỷ luật nghĩa là hình phạt đối với người phạm luật1. Lại có quan điểm cho
rằng: “Kỷ luật dưới góc độ chung nhất là tổng thể các quy định nhằm đảm bảo trật
tự, nề nếp hoạt động nội bộ của một cơ quan, tổ chức của Nhà nước và xã hội nói
chung cũng như sự tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định đó” 2. Tựu trung lại, kỷ luật
1

Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Trung tâm ngơn ngữ và văn hóa Việt Nam, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, tr.933
2
Nguyễn Thị Hải Yến (2017) Pháp luật về chế độ cơng vụ theo vị trí việc làm trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, tr.94


2

sẽ là những hậu quả bất lợi áp dụng đối với chủ thể khi thực hiện hành vi vi phạm
kỷ luật, vi phạm quy tắc hay nghĩa vụ trong hoạt động công vụ hoặc vi phạm pháp
luật theo quy định của pháp luật bị xử lý kỷ luật.

Pháp luật Việt Nam quy định rằng: “Quyết định kỷ luật là quyết định bằng
văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng một trong các hình thức
kỷ luật với công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của mình theo quy định
của pháp luật về cán bộ, cơng chức”3.
“Trong các quan hệ xã hội nói chung, quan hệ pháp luật nói riêng, sự bất
đồng ý kiến giữa các bên tham gia quan hệ có thể xảy ra về bất cứ vấn đề gì,
thường là về quyền, lợi ích có liên quan. Sự bất đồng ý kiến như vậy được gọi chung
là tranh chấp”4.
Tương tự như các quan hệ khác, giữa viên chức và ĐVSN công lập cũng có
thể phát sinh các tranh chấp. Với vai trị quan trọng của viên chức đã được bàn luận,
thì bản thân viên chức họ cũng nên là những người tiên phong trong việc tuân thủ
kỷ luật và kỷ cương. Tuy nhiên vẫn cịn tồn tại một bộ phận viên chức có dấu hiệu
suy thoái về đạo đức, thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, kém ý thức kỷ luật... chính
vì vậy pháp luật có những chế tài để xử lý những hành vi vi phạm kỷ luật chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Lúc này, người có thẩm quyền sẽ ra quyết định
kỷ luật viên chức, khi viên chức không đồng ý với quyết định kỷ luật này, bản thân
khơng đáng phải chịu “hình phạt” mà chủ thể có thẩm quyền đã ban hành, ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì sẽ phát sinh tranh chấp giữa viên
chức với người đã ra quyết định kỷ luật viên chức, hay rộng hơn là phát sinh tranh
chấp với ĐVSN cơng lập sử dụng viên chức. Từ đó, tác giả cho rằng: tranh chấp
về quyết định kỷ luật viên chức là tranh chấp giữa viên chức với chủ thể có thẩm
quyền ban hành quyết định kỷ luật viên chức do quyết định này xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Khi xảy ra mâu thuẫn này viên chức sẽ nhanh chóng tìm các phương thức
để giải quyết xung đột với hy vọng sớm khôi phục được quyền và lợi ích của mình

3

Khoản 10 Điều 2 Luật Khiếu nại 2011.
Lê Vương Long (2018), “ Quyền chủ động của người có quyền khiếu nại, khởi kiện trong quá trình giải

quyết tranh chấp hành chính”, Nghề Luật (số 2), tr. 61

4


3

hoặc ít nhất cũng hiểu một cách tường tận về nguồn gốc phát sinh, viên chức bị kỷ
luật xuất phát từ nguyên do nào và mức độ ra sao. Viên chức sẽ thơng qua các hình
thức thủ tục thích hợp nhằm loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng quan
điểm giữa viên chức với người đã có quyết định kỷ luật đối với mình. Các hình thức
này có thể đơn giản chỉ là đề nghị người ra quyết định kỷ luật xem xét lại vì có thể
có sai sót trong q trình ra quyết định, hoặc thậm chí có thể nhờ cơ quan có thẩm
quyền như tịa án để giải quyết, và khi đó là phương cách cuối cùng để bảo vệ
quyền lợi sau khi bị từ chối hoặc chưa thỏa mãn với việc giải quyết của chủ thể có
thẩm quyền giải quyết bằng thủ tục nội bộ.
Tóm lại, tác giả cho rằng giải quyết tranh chấp đối với quyết định kỷ luật
viên chức là việc chủ thể có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định
xem xét tính hợp pháp, hợp lý của quyết định kỷ luật viên chức theo yêu cầu của
viên chức.
1.1.2. Đặc điểm giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức
Thứ nhất, tranh chấp đối với quyết định kỷ luật viên chức là tranh chấp xuất
phát giữa một bên là chủ thể đã ban hành quyết định kỷ luật với viên chức, bên còn
lại là viên chức chịu tác động trực tiếp bởi quyết định kỷ luật.
Mối quan hệ giữa viên chức và ĐVSN cơng lập có thể nói đó là mối quan hệ
bình đẳng bởi giữa hai chủ thể này tồn tại hợp đồng làm việc, quy định cụ thể rõ
ràng quyền và nghĩa vụ của các bên. Viên chức được tuyển dụng phù hợp với quy
trình, đảm bảo vị trí chức danh của ĐVSN cơng lập, do đó khi viên chức làm việc
tại đây phải đảm bảo các yêu cầu đặt ra về đạo đức, kỷ luật ở đơn vị, đồng thời
ĐVSN công lập cũng phải đảm bảo những điều kiện cần thiết để viên chức thực

hiện vai trị, nhiệm vụ của mình, đảm bảo những lợi ích chính đáng của viên chức
giống như mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động vậy.
Các bên chủ thể tham gia vào quan hệ tranh chấp quyết định kỷ luật viên
chức có mối quan hệ gần gũi, một bên là ĐVSN công lập - không mang quyền lực
nhà nước và cũng khơng có chức năng quản lý nhà nước, một bên là viên chức –
lực lượng lao động chủ yếu, đảm bảo cho việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của
đơn vị. Trong quá trình thực hiện công vụ, nhiệm vụ tại ĐVSN công lập, viên chức
vi phạm pháp luật dẫn đến bị kỷ luật, là căn cứ để ra quyết định kỷ luật viên chức


4

đảm bảo kỷ luật – kỷ cương trong đơn vị. Khi cho rằng quyết định của chủ thể có
thẩm quyền trong ĐVSN trực tiếp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
viên chức, viên chức sẽ đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Khi
chủ thể có thẩm quyền chấp nhận giải quyết sẽ xem xét (thụ lý) làm xuất hiện mối
quan hệ giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, tranh chấp hành chính được giải quyết theo thủ tục hành chính
hoặc thủ tục tố tụng, thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính nhà
nước hoặc cơ quan tòa án.
Với hầu hết các loại trách nhiệm pháp lý, việc cho phép “phản hồi” của
người bị áp dụng chế tài với người có thẩm quyền nói chung là điều cần thiết. Điều
này vừa đảm bảo các quyết định truy cứu trách nhiệm khi có hiệu lực nhận được sự
đồng tình của người vi phạm vừa là một cam kết về dân chủ, công bằng của các
hoạt động có nguy cơ xâm hại quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp bằng thủ tục hành chính thuộc về chính hệ
thống cơ quan hành chính mà cụ thể là người bị khiếu nại hoặc cấp trên của người
bị khiếu nại có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Chủ thể này sẽ đánh giá tính hợp
pháp của quyết định kỷ luật đối với viên chức, người có thẩm quyền giải quyết sẽ tự
mình kiểm sốt việc sử dụng quyền lực của mình, hoặc kiểm soát việc sử dụng

quyền lực của cấp dưới. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp bằng con đường tố tụng
thuộc về tịa án. Đây là cơ quan kiểm sốt ngồi, nằm ngồi hệ thống cơ quan tịa
án. Có thể nói đây là kiểm sốt nội bộ, đây khơng chỉ là cơ quan sử dụng quyền lực
nhà nước mà còn được coi là cơ quan đại diện cho công lý, bảo vệ công lý, thực thi
công lý. Hiện nay, việc giải quyết theo thủ tục hành chính là chủ yếu bởi những ưu
điểm của phương thức này góp phần giải quyết tranh chấp nhanh chóng hơn. So
sánh với chủ thể là cơng chức khi có quyết định kỷ luật mà khơng đồng ý, theo đó
cơng chức có quyền khiếu nại tương tự như viên chức và quyền khởi kiện quyết
định kỷ luật buộc thôi việc theo quy định của pháp luật bằng thủ tục TTHC.
Thứ ba, viên chức bị giới hạn quyền tự định đoạt lựa chọn phương thức giải
quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật đối với mình
Hiện nay, trong trường hợp viên chức không đồng ý với quyết định kỷ luật
đối với mình thì hoặc khiếu nại đến chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại


5

hoặc khởi kiện đối với hệ quả của quyết định kỷ luật buộc thôi việc viên chức chứ
không phải khởi kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc viên chức. Sau khi viên chức
bị ra quyết định kỷ luật buộc thơi việc thì ĐVSN cơng lập, doanh nghiệp nhà nước
– nơi viên chức làm việc sẽ ra quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc
với viên chức. Việc đơn phương này mới là đối tượng được giải quyết theo thủ tục
tố tụng dân sự. Còn các quyết định kỷ luật khác như quyết định kỷ luật khiển trách,
quyết định kỷ luật cảnh cáo ... thì khơng được khởi kiện bằng bất kỳ thủ tục nào mà
chỉ thông qua việc giải quyết khiếu nại khi viên chức không đồng tình với quyết
định kỷ luật đó.
Thứ tư, quan hệ giải quyết tranh chấp quyết định kỷ luật phát sinh tư hành
vi đơn phương của viên chức, khi viên chức yêu cầu chủ thể có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp
Đây là hoạt động mang tính chất một chiều bởi đối với viên chức, sự chủ

động thể hiện qua việc viên chức quyết định có hay khơng thực hiện u cầu giải
quyết tranh chấp đối với quyết định kỷ luật trong ĐVSN công lập. Mặc dù việc
thực hiện quyền phụ thuộc vào ý chí của chủ thể có quyền nhưng nếu vì lí do chủ
quan (khơng muốn vướng vào kiện tụng, ảnh hưởng đến mối quan hệ ....) hay lý do
khác quan (chịu sự áp lực từ cấp trên, buộc phải chấp nhận quyết định này) dẫn đến
việc họ không yêu cầu giải quyết tranh chấp, nghĩa là tồn tại sự mâu thuẫn trên thực
tế nhưng lại khơng phát sinh q trình giải quyết tranh chấp, chỉ tồn tại ở dạng tiềm
ẩn mà không thực sự bộc lộ trên thực tế. Việc giải quyết tranh chấp trong trường
hợp này không được đặt ra. Điều này cho thấy viên chức đã tự mình chấp nhận việc
quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại (nếu có), mà khơng phải do nhà nước
và pháp luật từ chối bảo vệ họ5.
1.1.3. Ý nghĩa giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức
Suốt một thời gian dài, pháp luật nước ta khơng có quy định riêng mang tính
đặc thù đối với viên chức. Tuy nhiên, cùng với yêu cầu phân công lao động ngày
càng rõ rệt do xác định lại vai trò của Nhà nước đối với xã hội, lao động của những
người trực tiếp sử dụng quyền lực nhà nước và những người không sử dụng quyền
5

Nguyễn Nhật Khanh, Trường Đại học Luật TP.HCM, “ Bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại của Viên chức
trong các đơn vụ sự nghiệp công lập”.
(Truy cập ngày 12/03/2023)


6

lực nhà nước (nhưng ít nhiều thay mặt nhà nước cung cấp những dịch vụ thiết yếu
cho nhân dân – dịch vụ cơng) ngày càng có sự khác biệt6.
Thứ nhất, đối với viên chức:
Trong hoạt động quản lý, theo quy định của pháp luật các cơ quan, đơn vị sử
dụng viên chức có quyền chủ động thực hiện quyết định kỷ luật khi cho rằng viên

chức thuộc trường hợp bị kỷ luật. Và trong các quyết định đó có thể có những quyết
định đưa ra khơng đúng với thực tế của viên chức, thậm chí tác động tiêu cực đến cá
nhân viên chức, do đó giải quyết tranh chấp giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của viên chức.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, viên chức sẽ đưa ra những thông tin
tài liệu, chứng cứ chứng minh quyết định kỷ luật là khơng chính xác, khơng khách
quan, khơng phù hợp với quy định của pháp luật. Khi viên chức trong trạng thái có
những mâu thuẫn cần được giải quyết, họ sẽ cố gắng nỗ lực để tìm kiếm những
phương tiện cũng như các quy định của pháp luật, quy định trong nội quy của đơn
vị sử dụng viên chức để làm căn cứ cho những “phản đối” của mình đối với quyết
định bất lợi mà chủ thể có thẩm quyền đã đưa ra. Việc làm này đồng nghĩa với việc
chứng minh các tác động tiêu cực bởi quyết định kỷ luật của chủ thể có thẩm quyền
tới họ là vi phạm. Do đó có thể nói việc giải quyết tranh chấp quyết định kỷ luật
viên chức có ý nghĩa rất thiết thực để người viên chức bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, q trình này giúp khơi phục quyền và lợi ích bị xâm hại vì khi viên
chức quyết định tham gia vào quá trình này, họ mong sẽ nhận được câu trả lời chính
đáng rằng đối tượng bị tranh chấp là quyết định kỷ luật đã ban hành bởi người có
thẩm quyền có thực sự là phù hợp hay không. Khi giải quyết được “khúc mắc” đó,
viên chức sẽ có được niềm tin nhiều hơn đối với cơ quan nhà nước nói chung và tịa
án nói riêng. Từ đó, khi các quyền và lợi ích hợp pháp của viên chức được bảo đảm
và quyền khiếu nại của viên chức được pháp luật tôn trọng và bảo vệ thì viên chức
mới có thể n tâm công tác và cống hiến.
Thứ hai, đối với đơn vị sử dụng, quản lý viên chức

6

Bùi Thị Đào (2015), Chế định hợp đồng trong Luật Viên chức, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 02 (282) tr.
15



7

Quá trình giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức tạo ra một
khả năng pháp lý để chủ thể đã ra quyết định kỷ luật viên chức tự suy xét lại quyết
định đã được ban hành của mình có phù hợp hay khơng? Nếu quyết định ấy là bất
hợp pháp gây ảnh hưởng đến lợi ích của viên chức thì chủ thể này phải có trách
nhiệm sửa chữa. Từ đó có được cho chính họ những kinh nghiệm trong việc đưa ra
quyết định kỷ luật với bất kì một viên chức nào trong ĐVSN cơng. Nếu việc giải
quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật của viên chức thành công nghĩa là tranh chấp
này sẽ kết thúc. Nâng cao niềm tin của những viên chức khác đối với tổ chức, đơn
vị sử dụng viên chức vì đã đưa ra những phán quyết hoàn toàn căn cứ trên những
quy định của pháp luật hiện hành chứ khơng có sự “chèn ép” đối với viên chức.
Ngược lại trong trường hợp những quyết định kỷ luật ấy có “sai sót”, ảnh hưởng lớn
đến đời sống của viên chức thì đây cũng được xem như một cơ hội để cấp trên xem
xét và kiểm điểm, từ đó rút ra được những kinh nghiệm trong công tác giải quyết kỷ
luật đối với viên chức do mình quản lý. Sự chủ động khi xem xét lại quyết định kỷ
luật là điểm vô cùng. Việc giải quyết tranh chấp giúp cho hoạt động quản lý, điều
hành của các cơ quan, đơn vị sử dụng viên chức có hiệu quả, các quyết định xử lý
kỷ luật trái pháp luật sẽ được bãi bỏ kịp thời.
Thứ ba, đối với nhà nước và xã hội
Một là, thông qua việc giải quyết tranh chấp quyết định kỷ luật viên chức, cơ
quan nhà nước có những thơng tin cần thiết về những khiếm khuyết, bất cập trong
hoạt động quản lý đối với cơ quan đơn vị sử dụng viên chức, từ đó có cơ sở để xem
xét, sửa đổi bổ sung kịp thời làm đổi mới các hoạt động, làm cho hoạt động quản lý
nhà nước, quản lý xã hội phát triển lành mạnh theo đúng chính sách của Đảng và
pháp luật của nhà nước. Như vậy, bằng việc giải quyết tranh chấp đề nghị chủ thể
có thẩm quyền giải quyết tức là viên chức đã tham gia một cách trực tiếp và thiết
thực vào các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Viên chức nói riêng và
nhân dân nói chung khi tham gia vào cơng việc quản lý nhà nước càng nhiều, nghĩa
là dân chủ xã hội chủ nghĩa càng được củng cố và phát triển7. Điều này cũng mang

ý nghĩa là một trong những hình thức cơ bản thể hiện quyền làm chủ của viên chức

7

Trần Quốc Huy, Quyền khiếu nại của công dân – Lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật,
Tr.8


8

trong việc xây dựng nhà nước. Quá trình giải quyết tranh chấp giúp duy trì sự ổn
định chính trị, trật tự an tồn xã hội; đồng thời góp phần bảo vệ sự nghiêm minh của
pháp luật. Xóa bỏ định kiến “hành là chính” đối với viên chức nói chung và người
dân Việt Nam nói riêng. Từ đó sự cống hiến hết mình của viên chức sẽ mang lại lợi
ích cho quốc gia, dân tộc; góp phần củng cố niềm tin xã hội, nhân dân đối với Đảng,
nhà nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi mục tiêu.
Hai là, giải quyết tranh chấp là phương thức tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa bởi để giải quyết phải sử dụng một trong các phương thức như khiếu nại, khởi
kiện ... nhằm đảm bảo các quyết định kỷ luật viên chức phải được ban hành đúng
quy định của pháp luật, khơng xâm hại tới các quyền, lợi ích hợp pháp của viên
chức. Có thể quyết định kỷ luật viên chức đó là phù hợp, khơng trái với pháp luật
nhưng chỉ cần viên chức cho rằng quyết định đó trái pháp luật, xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của họ là có quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng các
phương thức để đề nghị chủ thể có thẩm quyền xem xét lại tính hợp pháp của quyết
định kỷ luật đó.
Ba là, việc viên chức yêu cầu giải quyết tranh chấp các quyết định kỷ luật là
sự cảnh báo về khả năng mắc sai lầm trong hoạt động quản lý của đơn vị, cơ quan
sử dụng viên chức. Đây là quá trình đánh giá lại hoạt động của chính những chủ thể
có thẩm quyền đưa ra quyết định kỷ luật đối với viên chức, từ đó phát hiện, thừa
nhận và sửa chữa những sai lầm đã mắc phải trước đó. Qua đó, nhà nước nâng cao

chất lượng hoạt động của mình, bảo vệ hữu hiệu quyền và lợi ích hợp pháp của viên
chức nói riêng của nhân dân nói chung, làm cho khoảng cách giữa các bên xích lại
gần hơn8. Thực tế hiện nay cho thấy, có sự chuyển dịch mạnh mẽ lao động từ khu
vực công sang khu vực tư9. Theo sở Nội Vụ TP HCM, tính từ ngày 1/1/2020 30/6/2022, số lượng cán bộ, công chức, viên chức của thành phố nghỉ việc, chuyển
việc lên tới hơn 6.100 người. Xu hướng này là tất yếu bởi nền kinh tế ngày càng
phát triển, điều này còn diễn ra mạnh mẽ, tạo thành “làn sóng” sau đại dịch Covid

8

Bùi Thị Đào, Văn hóa pháp luật trong giải quyết khiếu nại, Tạp chí Nghề luật, tháng 5/2016, tr.28
/>3%202016.pdf. Truy cập ngày 12/03
9
Hiến kế ngăn chặn “làn sóng” cơng chức, viên chức nghỉ việc, thôi việc?
Truy cập ngày 10/04/202023


9

19, nhất là sáu tháng đầu năm 2022, gây ra sự đột biến dẫn đến thiếu hụt lực lượng
lao động ở khu vực cơng, nhất là lao động có năng lực, kinh nghiệm làm việc. Do
đó việc giải quyết tốt, làm thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của viên chức cũng
là nhân tố góp phần làm giảm tình trạng nói trên. Thơng qua việc giải quyết tranh
chấp kỷ luật viên chức, nhà nước có điều kiện rà sốt lại hệ thống pháp luật hiện
hành và các văn bản không cịn phù hợp với thực tiễn xã hội. Từ đó ban hành những
quy phạm pháp luật mới phù hợp hơn, hệ thống pháp luật sẽ được hoàn thiện dần.
1.2 . Quan hệ giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức
1.1.4. Chủ thể trong quan hệ giải quyết tranh chấp quyết định định kỷ luật viên
chức
Thứ nhất, viên chức.
Tại điều 8 Hiến pháp năm 1992 nước ta sử dụng khái niệm “cán bộ, viên

chức” trong khi pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 lại sử dụng “cán bộ”, “công
chức”. Khái niệm viên chức bắt đầu xuất hiện trở lại ở Pháp lệnh cán bộ, công chức
năm 2003, giới hạn phạm vi áp dụng trong các ĐVSN của nhà nước. Tuy vậy tại
Nghị định số 116/2003/ NĐ-CP ngày 10/10/2003 về việc tuyển dụng, sử dụng và
quản lý cán bộ, công chức trong các ĐVSN của Nhà nước lại định nghĩa “Viên
chức là cán bộ, công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự
nghiệp theo quy định của pháp luật”. Như vậy có sự không thống nhất giữa tên gọi
của nghị định với nội dung của nó, và khái niệm viên chức đã bao hàm cả “cán bộ,
công chức”10.
Khái niệm “Viên chức” ở nhiều nước có nền hành chính phát triển cho rằng
đây là đội ngũ nhân viên nhà nước làm việc tại các tổ chức dịch vụ công hay đội
ngũ nhân viên làm việc ở các cơ quan thực thi chính sách tách biệt với đội ngũ công
chức – Những người hoạch định chính sách11. Ở nước ta, chỉ đến khi Luật viên
chức 2010 ra đời thì văn bản này mới có được cơ sở pháp lý dành riêng cho đối
tượng là viên chức. Theo đó, viên chức là chủ thể làm việc tại các đơn vị sự nghiệp
10

Huỳnh Thị Thanh Vân (2014), Cần phân biệt rõ “cán bộ”, “công chức”, “viên chức” Nghiên cứu Lập
pháp (số 6), tr.56
11
Báo cáo tổng luận và so sánh pháp luật một số nước về viên chức (Truy cập ngày 14/03)


10

cơng lập, doanh nghiệp nhà nước thơng qua hình thức tuyển dụng vào vị trí việc
làm, lúc này chế độ hợp đồng làm việc sẽ được áp dụng. Sự kiện này tạo cơ sở pháp
lý quan trọng trong việc xây dựng, quản lý đội ngũ viên chức, đáp ứng được yêu
cầu ngày càng cao trong quá trình phục vụ nhân dân; đồng thời thể chế hóa chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với việc phát triển đội ngũ viên chức

trong hiện đại 12.
Trong quan hệ giải quyết tranh chấp đối với quyết định kỷ luật, viên chức là
chủ thể có quyền và lợi ích bị ảnh hưởng trực tiếp từ chính quyết định kỷ luật này.
Khi viên chức cho rằng quyết định kỷ luật này là trái pháp luật thì họ sẽ có những
“động thái” để bảo vệ quyền của mình, đây là thời điểm phát sinh tranh chấp với
chủ thể có thẩm quyền đã ra quyết định kỷ luật viên chức. Viên chức là chủ thể bắt
buộc cơ bản không thể thiếu trong quan hệ pháp luật giải quyết tranh chấp. Viên
chức là chủ thể làm phát sinh quá trình giải quyết tranh chấp, nội dung giải quyết
tranh chấp phụ thuộc vào nội dung yêu cầu chủ thể có thẩm quyền giải quyết của
viên chức. Trường hợp viên chức lựa chọn hình thức giải quyết bằng khiếu nại thì
viên chức trở thành đương sự trong giải quyết tranh chấp bằng hình thức khiếu nại,
viên chức là chủ thể có yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nói
trên. Khi viên chức chọn giải quyết tranh chấp bằng con đường khởi kiện, viên chức
tham gia tố tụng với tư cách người khởi kiện, là nguyên đơn trong vụ việc cần được
phán xử vì cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Quan hệ giải
quyết tranh chấp chỉ chấm dứt trong trường hợp viên chức từ bỏ yêu cầu giải quyết
của mình với chủ thể có thẩm quyền giải quyết. Khi viên chức rút yêu cầu khiếu nại
tại bất cứ thời điểm nào trong quá trình khiếu nại hoặc giải quyết khiếu nại thì sẽ
được đình chỉ giải quyết khiếu nại, chấm dứt hoạt động giải quyết tranh chấp bằng
khiếu nại đã được thụ lý. Tương tự, trường hợp viên chức rút tồn bộ đơn khởi kiện
thì q trình giải quyết bằng thủ tục tố tụng cũng được chấm dứt. Nếu trong quá
trình giải quyết tranh chấp mà người khởi kiện chết, quyền và nghĩa vụ của họ
không được thừa kế thì đây là căn cứ để chủ thể có thẩm quyền ra quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án.
12

Cao Vũ Minh, Nguyễn Thiện Trí, “Một số vấn đề trách nhiệm kỷ luật của viên chức”, Tạp chí Khoa học
Pháp lý, Tr15



11

Thứ hai, chủ thể có thẩm quyền đã kỷ luật viên chức.
Từ điển Từ và ngữ giải thích: “Thẩm quyền” là “quyền chính thức được
quyết định về một vấn đề”, hay “thẩm quyền là quyền chính thức được xem xét để
kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề”. Từ đó tác giả đưa ra nhận định về
chủ thể có thẩm quyền đã kỷ luật viên chức: Họ là những chủ thể được trao quyền
để tổ chức thực hiện và giải quyết những vấn đề phát sinh trong hoạt động quản lý
của mình đối với viên chức mà mình quản lý. Pháp luật trao cho họ các quyền và
nghĩa vụ để chịu trách nhiệm điều hành, thực hiện các cơng việc trong ĐVSN cơng,
khi viên chức có những hành vi, hoạt động không chuẩn mực, trái với quy định của
pháp luật, nội quy của ĐVSN cơng thì họ phải xem xét mức độ sai phạm, bởi viên
chức là những người tiên phong trong cơng tác phịng chống tham nhũng và các
hành vi vi phạm pháp luật. Người quản lý này sẽ đưa ra các quyết định, với hành vi
đó thì áp dụng hình thức kỷ luật nào là phù hợp, đúng thẩm quyền và đảm bảo
không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của những viên chức này.
Viên chức có hành vi vi phạm kỷ luật liên quan đến việc thực thi cơng vụ,
nhiệm vụ hay có ảnh hưởng xấu tới công vụ, nhiệm vụ, những hành vi này đều ảnh
hưởng tiêu cực tới quá trình thực hiện công vụ, năng lực, ý thức kỷ luật của viên
chức hoặc hình ảnh của viên chức trong cái nhìn của nhân dân. Trách nhiệm kỷ luật
này sẽ bị truy cứu bởi người có thẩm quyền. Nếu như trách nhiệm hành chính, trách
nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, hoạt động của người có thẩm quyền truy cứu
trách nhiệm thường có tính chun nghiệp và giữa người truy cứu với người bị truy
cứu trách nhiệm khơng có quan hệ lệ thuộc về tổ chức. Trong khi đó, hoạt động truy
cứu trách nhiệm kỷ luật không phải là hoạt động chuyên nghiệp của người có thẩm
quyền mà đây chỉ là một phần của hoạt động quản lý và thông thường người có
thẩm quyền kỷ luật và người bị kỷ luật có mối quan hệ về tổ chức. Theo đó việc xử
lý kỷ luật phải đảm bảo các nguyên tắc theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền ra
quyết định kỷ luật viên chức sẽ tùy thuộc vào sự phân cấp quản lý viên chức của các
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Theo điều 31 Nghị định số 112/2020/ND-CP, thẩm quyền xử lý kỷ luật đối
với viên chức được quy định như sau.


12

“ 1. Đối với viên chức quản lý, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm
quyền bổ nhiệm tiến hành xử lý kỷ luật và quyết định hình thức kỷ luật.
Đối với viên chức giữ chức vụ, chức danh do bầu cử thì cấp có thẩm quyền phê
chuẩn, quyết định công nhận kết quả bầu cử tiến hành xử lý kỷ luật và quyết định
hình thức kỷ luật.
2. Đối với viên chức không giữ chức vụ quản lý, người đứng đầu ĐVSN công lập
quản lý viên chức tiến hành xử lý kỷ luật và quyết định hình thức kỷ luật.
3. Đối với viên chức biệt phái, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi viên
chức được cử đến biệt phái tiến hành xem xét xử lý kỷ luật, đề nghị hình thức kỷ
luật. Hồ sơ xử lý kỷ luật phải được gửi về ĐVSN công lập cử viên chức biệt phái để
ra quyết định kỷ luật theo thẩm quyền.
4. Trường hợp viên chức có hành vi vi phạm trong thời gian công tác tại cơ quan, tổ
chức, đơn vị cũ mà khi chuyển sang cơ quan, tổ chức, đơn vị mới mới phát hiện
hành vi vi phạm luật và vẫn còn trong thời hiệu xử lý kỷ luật thì thẩm quyền tiến
hành và xử lý kỷ luật thuộc cơ quan, tổ chức, đơn vị cũ nơi viên chức công tác. Hồ
sơ, quyết định kỷ luật phải được gửi về cơ quan, tổ chức, đơn vị đang quản lý viên
chức.....”13.
Người đã ra quyết định kỷ luật viên chức là người bị tranh chấp, có thể trở
thành người bị khiếu nại khi viên chức khiếu nại quyết định kỷ luật viên chức hoặc
trở thành người bị kiện trong vụ việc giải quyết tranh chấp về lao động khi có hành
vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với viên chức do quyết định kỷ luật
buộc thôi việc và được giải quyết theo thủ tục tố tụng. Chủ thể này mang tâm thế bị
động trong quan hệ tranh chấp, họ không biết được rằng những quyết kỷ luật do
mình ban hành có bị viên chức phản kháng và đưa ra những cách thức khác nhau để

xem xét, giải quyết cho phù hợp với nguyện vọng của viên chức hay không, nghĩa
là địa vị pháp lý của họ chỉ phát sinh khi viên chức yêu cầu người có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp đồng thời việc yêu cầu giải quyết tranh này phải là hợp lệ và
được thụ lý giải quyết. Người ra quyết định kỷ luật viên chức khơng có quyền phản
tố nếu như viên chức lựa chọn giải quyết bằng thủ tục giải quyết khiếu nại, nhưng
13

Điều 31 Nghị định 112/ NĐ-CP về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức và viên chức.


13

họ lại có quyền phản tố nếu viên chức lựa chọn giải quyết bằng thủ tục tố tụng dân
sự do chủ thể có thẩm quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc với viên
chức có quyết định kỷ luật buộc thơi việc.
Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
Khi tranh chấp pháp sinh, chủ thể có quyền và lợi ích bị xâm phạm sẽ yêu
cầu chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó. Tùy vào mỗi phương thức mà
thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ khác nhau, những chủ thể này sẽ xem xét và ra
quyết định xử lý tranh chấp, đây là chủ thể rất quan trọng và không thể thiếu trong
quan hệ giải quyết tranh chấp quyết định kỷ luật viên chức. Theo đó, trong trường
hợp viên chức khiếu nại đến chủ thể đã ra quyết định kỷ luật viên chức thì người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại có thể chính là chủ thể đã ra quyết định kỷ luật
hoặc cấp trên của người đã ra quyết định kỷ luật viên chức. Nếu viên chức khởi kiện
đến tịa án có thẩm quyền khi bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động do chịu
tác động của quyết định kỷ luật buộc thơi việc thì chủ thể có thẩm quyền giải quyết
là cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, quá trinh này nhằm giải
quyết tranh chấp một cách khách quan, công bằng, bảo vệ tối đa quyền và lợi ích
của các bên. Chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ quyết định bác bỏ hay
chấp nhận (một phần hoặc toàn bộ) yêu cầu của viên chức thơng qua q trình xem

xét các căn cứ, quy định của pháp luật để phù hợp với mỗi hình thức giải quyết mà
viên chức lựa chọn.
Ngồi ra, cịn có thể có sự xuất hiện của những chủ thể khác là người có
quyền và nghĩa vụ liên quan. Những chủ thể này tuy không phải là chủ thể cơ bản,
họ khơng có quyền u cầu giải quyết tranh chấp nhưng q trình giải quyết tranh
chấp có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ nên họ tự mình đề nghị hoặc được
đương sự trong vụ việc đó đề nghị và được chủ thể có thẩm quyền chấp nhận đưa
họ vào tham gia quá trình giải quyết.
1.1.5. Nội dung về giải quyết tranh chấp quyết định kỷ luật viên chức
Trong quan hệ pháp luật nói chung, thơng thường các bên tham gia quan hệ
trước hết sẽ hướng đến những quyền, lợi ích liên quan trực tiếp tới mình, đồng thời


14

hướng đến quyền, lợi ích của các cá nhân, tổ chức khác và những quyền, lợi ích
chung nào đó. Vì nhiều lý do khác nhau mà các quyền và lợi ích của một bên tham
gia quan hệ không được bên kia tôn trọng hoặc không được tôn trọng ở mức độ hay
cách thức được mong muốn. Khi đó, nảy sinh sự bất đồng quan điểm về việc bảo
vệ, bảo đảm, thực hiện, quyền và lợi ích giữa các bên. Viên chức hoạt động nghề
nghiệp trong ĐVSN công lập được pháp luật bảo vệ trong các hoạt động nghề
nghiệp; được đào tạo, bồi dưỡng; được quyết định vấn đề mang tính chất chuyên
môn gắn với công việc hoặc nhiệm vụ được giao; từ chối thực hiện công việc hoặc
nhiệm vụ trái với quy định của pháp luật;... song song với đó họ phải chấp hành
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; giữ gìn sự
đồn kết, đạo đức nghề nghiệp...và khi viên chức thực hiện những hành vi không
phù hợp với quy định của tổ chức cũng như của pháp luật thì ĐVSN cơng lập có
nghĩa vụ xử lý kỷ luật.
Viên chức thực hiện quyền được yêu cầu giải quyết tranh chấp mà pháp luật
đã trao cho họ, việc thực hiện quyền này là hành vi nằm trong khuôn khổ của pháp

luật, yêu cầu chủ thể có thẩm quyền giải quyết để khơi phục lợi ích vốn có của họ.
Cịn các chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi tham gia giải quyết sẽ phải
xử sự theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật với những
quyết định mà chính bản thân họ đã đưa ra.
Q trình giải quyết tranh chấp là quá trình áp dụng thủ tục hành chính hoặc
thủ tục tố tụng của chủ thể có thẩm quyền để giải quyết yêu cầu của viên chức. Các
chủ thể này sẽ áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành để ra quyết định giải
quyết tranh chấp trên cơ sở xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong vụ việc tranh
chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của viên chức. Theo đó, chủ thể có
thẩm quyền sẽ phải đánh giá đúng bản chất của vụ việc để lựa chọn quy phạm pháp
luật áp dụng cho phù hợp. Các bên trong quan hệ tranh chấp sẽ đưa ra những chứng
cứ lập luận để đảm bảo quyền và lợi ích của mình. Chủ thể bị tranh chấp sẽ chứng
minh việc ban hành quyết định kỷ luật viên chức là đúng, phù hợp với quy định
pháp luật và quy chế của ĐVSN công lập quản lý viên chức. Viên chức có quyết
định kỷ luật tác động đến sẽ tìm kiếm những cơ sở phù hợp để khẳng định quyết


15

định kỷ luật đã ban hành với mình đang xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi và ảnh
hưởng đến cuộc sống của viên chức.
1.1.6. Khách thể trong quan hệ giải quyết tranh chấp quyết định kỷ luật về viên
chức
Theo cách hiểu thông thường, khách thể của quan hệ pháp luật là lợi ích
chung mà các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đó cùng hướng tới. Trong quan hệ
pháp luật hành chính thì khách thể chính là trật tự quản lý hành chính nhà nước. Các
bên trong tranh chấp đối với quyết định kỷ luật viên chức đều có chung mong muốn
là kết quả của việc giải quyết tranh chấp có thể nhằm chấm dứt những mâu thuẫn,
xung đột giữa các bên, nghĩa là điều chỉnh thực chất quan hệ pháp luật hành chính.
Đây là cái mà các bên mong muốn đạt được, là động cơ thúc đẩy các chủ thể tham

gia phát sinh tranh chấp hành chính. Trong tranh chấp này, viên chức mong muốn
được khôi phục lại quyền lợi chính đáng của mình. Mặc dù biết rằng quy trình giải
quyết có thể là gian nan, tốn nhiều thời gian và cơng sức, nhưng vì mong muốn
chứng minh quyết định mà chủ thể có thẩm quyền đã ban hành là trái pháp luật, ảnh
hưởng lớn đến cuộc sống của mình nên phải quyết tâm đi đến cùng.
1.2. Phương thức giải quyết tranh chấp về quyết định kỷ luật viên chức
Hiện nay, pháp luật Việt Nam cho phép viên chức khi khơng đồng ý với
quyết định kỷ luật thì có quyền yêu cầu chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
bằng con đường giải quyết khiếu nại hoặc giải quyết vụ án dân sự về khiếu kiện đơn
phương chấm dứt hợp đồng làm việc, hoặc kết hợp cả hai phương thức này. Viên
chức khi bị tác động bởi quyết định kỷ luật có quyền khởi kiện ngay hoặc lựa chọn
thực hiện xong việc khiếu nại hành chính sau đó mới tiến hành khởi kiện quyết định
kỷ luật viên chức ra tịa án có thẩm quyền. Bên cạnh đó, trường hợp viên chức lựa
chọn khiếu nại trước khi khởi kiện thì họ có quyền khởi kiện ngay sau khi hoàn tất
việc giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khiếu nại lần hai đối với các vụ việc qua hai
lần giải quyết khiếu nại. Theo quy định của pháp luật về khiếu nại trước năm 2011
thì trước khi muốn khởi kiện vụ án hành chính tại tịa án, người có quyền phải khiếu
nại tới cơ quan hành chính, sau khi khiếu nại đã được giải quyết lần đầu mà không
đồng ý hoặc hết thời hạn giải quyết mà không được giải quyết thì mới được quyền
khởi kiện tại tịa án. Hiện nay pháp luật Việt Nam khơng cịn áp đặt phương thức


×