Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Cơ chế gải quyết tranh chấp, cơ quan giải quyết tranh chấp, vai trò của WTO trong giải quyết tranh chấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137 KB, 10 trang )

I. MỞ BÀI:
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hiện nay, quan hệ thương mại
ngày càng phát triển đa dạng và phức tạp. Tranh chấp trong trao đổi thương mại quốc
tế là một điều khó tránh khỏi, đòi hỏi phải có một cơ chế giải quyết thỏa đáng giữa
các quốc gia trong hệ thống thương mại đa phương hiện nay. Tổ chức thương mại thế
giới WTO với cơ chế giải quyết tranh chấp riêng đang ngày càng khẳng định vai trò
của mình trong việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.
II. NỘI DUNG:
1. Một số khái niệm:
• Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là hệ thống các cơ quan, các nguyên tắc, các
quy phạm pháp luật về phương pháp, quy trình thủ tục giải quyết tranh chấp thương
mại quốc tế và bảo đảm thi hành quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp.
• Tranh chấp thương mại quốc tế: là một hiện tượng song hành với sự gia tăng các
luồng giao thương trên phạm vi toàn cầu, tranh chấp diễn ra khi một nước cho rằng
một nước khác vi phạm thỏa thuận đã cam kết. Có thể hiểu tranh chấp thương mại
quốc tế trước hết là sự bất đồng ý kiến, quan điểm của các bên về quyền và lợi ích mà
trong đó yêu cầu hay đòi hỏi của một bên bị bên kia từ chối hay khiếu nại. Tuy nhiên
điểm khác biệt với tranh chấp thông thường là đối tượng tranh chấp là các vấn đề phát
sinh từ hoạt động thương mại quốc tế, từ các chính sách quốc gia đi ngược lại với
những cam kết quốc tế.
2. Vai trò của WTO thể hiện qua cơ chế giải quyết tranh chấp.
WTO giải quyết tranh chấp phát sinh trên cơ sở những quy tắc và thủ tục quy
định tại “Thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp”
(DSU) được các thành viên thông qua trong vòng đàm phán Uruguay. DSU được ghi
nhận tại Phụ lục II của WTO trong đó quy định các nguyên tắc, trình tự giải quyết
cũng như các biện pháp bảo đảm thi hành các khuyến nghị và phán quyết của cơ quan
giải quyết tranh chấp. Theo quy định của DSU thì các thành viên thỏa thuận tuân theo
những nguyên tắc giải quyết tranh chấp được áp dụng theo Điều XXII và Điều XIII
1
của GATT 1947 cũng như những thủ tục được tiếp tục sửa đổi và bổ sung (Khoản 1
Điều 3 DSU).


Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO vận hành có hiệu quả với mục đích tạo ra sự
an toàn và khả năng dự đoán trước cho hệ thống thương mại đa phương, đồng thời
bảo vệ quyền lợi của các bên tranh chấp theo các hiệp định có kiên quan. Mục đích
này được ghi nhận tại Khoản 2 Điều 3 DSU.
a. Cơ quan giải quyết tranh chấp:
Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) có quyền quyết định thành lập và thông
qua báo cáo của nhóm chuyên gia và nhóm phúc thẩm. Ngoài ra, DSB còn giám sát
việc thực hiện các quyết định về giải quyết tranh chấp, cho phép tạm đình chỉ việc áp
dụng các hiệp định thương mại với một nước thành viên, cho phép áp dụng các biện
pháp trừng phạt.
Nhóm chuyên gia: Công việc chính về giải quyết tranh chấp do các nhóm chuyên gia
thực hiện. Các nhóm chuyên gia này do DSB thành lập để giải quyết một vụ tranh
chấp cụ thể và giải thể sau khi kết thúc nhiệm vụ. Nhiệm vụ của nhóm chuyên gia là
giúp cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO làm sáng tỏ nội dung tranh chấp và
khuyến nghị một giải pháp để các bên hữu quan giải quyết tranh chấp của họ, phù hợp
với các hiệp định thương mại có liên quan.
Cơ quan phúc thẩm thường trực: Một trong những nét mới của bộ máy giải
quyết tranh chấp của WTO là việc thành lập cơ quan phúc thẩm thường trực. Cơ quan
này có chức năng xem xét theo thủ tục “phúc thẩm” báo cáo của nhóm chuyên gia,
theo đề nghị của một trong các bên tranh chấp. Tuy nhiên, phạm vi "phúc thẩm" chỉ
áp dụng đối với những kết luận và giải thích pháp lý được đưa ra trong báo cáo của
nhóm chuyên gia. Khi có đề nghị xem xét phúc thẩm, cơ quan phúc thẩm thường trực
sẽ lập ra một nhóm phúc thẩm riêng biệt cho mỗi một vụ tranh chấp, bao gồm 3 thành
viên.
2
b. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp:
• Nguyên tắc công bằng: Kết quả của quá trình giải quyết tranh chấp là phán quyết và
khuyến nghị của cơ quan giải quyết tranh chấp. Theo quy định của DSU, những phán
quyết và khuyến nghị không được làm tăng hoặc giảm các quyền và nghĩa vụ của các
bên đã được quy định trong các hiệp định liên quan (Khoản 2 Điều 3 DSU). Đồng

thời các quy định về giải quyết tranh chấp không được triệt tiêu hay làm giảm những
lợi ích mà bất cứ thành viên nào có được các quy định của các hiệp định có liên quan
(Khoản 3 Điều 5 DSU).
• Nguyên tắc nhanh chóng: Vấn đề thiết yếu đối với việc thực hiện có hiệu quả chức
năng của WTO và duy trì sự cân bằng thích hợp giữa quyền và nghĩa vụ của các thành
viên chính là việc giải quyết nhanh chóng các tranh chấp (Khoản 3 Điều 3 DSU). Vì
vậy một khi lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp của thành viên theo quy định của hiệp định
liên quan bị vi phạm thì cần phải được bảo vệ một cách nhanh chóng.
• Nguyên tắc hiệu quả: Để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tranh chấp, các thành
viên thể hiện quyết tâm của mình nhằm tăng cường tính hiệu quả trong việc giải quyết
tranh chấp. Quan điểm này được khẳng định trong Khoản 1 Điều 4 DSU, theo đó tính
hiệu quả được quy định trong giai đoạn tham vấn, 1 thủ tục đầu tiên trong quá trình
giải quyết tranh chấp.
• Nguyên tắc bí mật: Nguyên tắc này được thể hiện trong việc tiến hành tham vấn và tổ
chức các cuộc họp của ban hội thẩm cũng như thủ tục tố tụng của quá trình xét xử
phúc thẩm.
• Nguyên tắc đồng thuận: Thể hiện Khoản 1 Điều 6, Khoản 4 Điều 16, Khoản 14 Điều
7 DSU.
Với nguyên tắc này thì các vấn đề được nêu trên sẽ được thông qua nếu tất cả các
thành viên của DSB đều nhất trí thông qua.
• Nguyên tắc được các bên chấp nhận: Trước khi khởi kiện, bên nguyên đơn cần phải
được xem xét, đánh giá việc khiếu kiện của mình có kết quả hay không. Bởi vì “một
3
giải pháp mà các bên tranh chấp có thể chấp nhận và phù hợp với các hiệp định có
liên quan sẽ được ưu tiên áp dụng” (Khoản 7 Điều 3 DSU).
• Nguyên tắc đối xử ưu đãi đối với các thành viên là các nước đang phát triển và kém
phát triển: Trong khổ các hiệp định WTO, các nước đang phát triển và kém phát triển
luôn được ưu đãi hơn so với các nước phát triển. Đối với trường hợp giải quyết tranh
chấp thì tinh thần này cũng được phản ánh trong các quy định về giải quyết tranh
chấp. Cụ thể là trong khi tham vấn, các thành viên phải đặc biệt chú ý đến quyền lợi

của các nước đang phát triển (Khoản 10 Điều 4 DSU). Khi một hay nhiều bên là
những nước đang phát triển thì báo cáo của ban hội thẩm phải chỉ ra một cách rõ ràng
hình thức trong đó có tính đến các điều khoản có liên quan đến chế độ đãi ngộ khác
biệt ưu đãi hơn đối với thành viên là các nước đang phát triển (Khoản 11 Điều 12
DSU).
c. Phương pháp, quy trình thủ tục giải quyết tranh chấp:
Giai đoạn tham vấn và hòa giải: Đây là thủ tục bắt buộc đối với các bên tranh
chấp trước khi thành lập ban hội thẩm nhằm mục đích tạo điều kiện để các bên chủ
động tìm kiếm những giải pháp mang tính chất xây dựng, cùng có lợi cho cả đôi bên
và nhanh chóng giải quyết xung đột. Các giải pháp đạt được trong giai đoạn này phải
phù hợp với các hiệp định của WTO và không được làm vô hiệu hay suy giảm những
lợi ích của các thành viên hoặc cản trở việc đạt bất kì mục tiêu nào của Hiệp định.
Như vậy, quy định này làm hạn chế được ảnh hưởng của quyền lực chính trị trong
việc tìm kiếm giải pháp cho tranh chấp, đồng thời tăng cường tính khả đoán và minh
bạch cho hệ thống thương mại quốc tế. Trong WTO, việc sử dụng biện pháp tham vấn
đã gắn liền với các mốc thời gian cụ thể cho từng trường hợp qua đó nhằm đảm bảo
quá trình giải quyết tranh chấp không bị kéo dài. Do đó, thủ tục này góp phần tích cực
cho hiệu quả của cơ chế giải quyết tranh chấp.
Giai đoạn giải quyết tranh chấp tại Ban hội thẩm;
Giai đoạn kháng cáo, phúc thẩm;
4
Giai đoạn thực hiện quyết định của Cơ quan giải quyết tranh chấp và áp dụng
biện pháp trả đũa.
Quyết định về giải quyết tranh chấp được DSB thông qua theo nguyên tắc đồng
thuận tiêu cực có giá trị pháp lý và có tính cưỡng chế thi hành đối với các bên tranh
chấp. Biện pháp trả đũa phải tương ứng với mức độ thiệt hại và phải được thực hiện
trong lĩnh vực thương mại mà bên thua kiện bị thiệt hại. Để bảo đảm tính hiệu quả của
các biện pháp trả đũa và rút kinh nghiệm, WTO quy định trong trường hợp việc áp
dụng biện pháp trả đũa mà lĩnh vực bị thiệt hại là không thực tế hoặc không có hiệu
quả, bên thắng kiện có quyền yêu cầu DSB cho phép trả đũa trong một lĩnh vực khác

(trả đũa chéo). Tuy nhiên, để bảo đảm sự công bằng và trong trường hợp có tranh
chấp về mức độ trả đũa, WTO cũng dành cho bên thua kiện quyền đưa tranh chấp nói
trên ra giải quyết theo phương thức trọng tài. Quyết định trọng tài về vấn đề này là
quyết định cuối cùng và có giá trị thi hành đối với tất cả các bên.
Ngoài các biện pháp trên, trong WTO cũng cho phép sử dụng các phương thức
giải quyết tranh chấp khác. Theo đó, các nước thành viên WTO còn có thể sử dụng
những phương thức giải quyết tranh chấp khác trong Công pháp quốc tế như trọng tài
liên quốc gia (interstate arbitration), trung gian (mediation) và hòa giải (conciliation).
Điều 25 Thỏa thuận DSU quy định các nước thành viên có thể giải quyết tranh chấp
với nhau thông qua trọng tài đối với những tranh chấp nếu các nước này thỏa thuận
nhất trí sử dụng cơ chế này và chấp nhận tuân thủ quyết định của trọng tài.
Ngoài cơ chế giải quyết tranh chấp chung ra, một số hiệp định thương mại đa
biên của WTO cũng quy định những cơ chế giải quyết tranh chấp đặc biệt. Ví dụ như
Hiệp định về trợ cấp có quy định thủ tục riêng về giải quyết tranh chấp liên quan đến
hàng dệt trước Cơ quan giám sát hàng dệt…
 Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết
tranh chấp thể hiện:
5
• Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là nơi bảo vệ những quyền lợi
chính đáng, phù hợp với những quy định cuả hiệp định và thoả thuận trong WTO cho
tất cả các nước thành viên khi xảy ra những tranh chấp thương mại ở nhiều góc độ
như thuế quan, chất lượng hàng hóa, phân biệt đối xử, phá giá, tự vệ, trademark Qua
đó, tạo ra sự ổn định của các mối quan hệ hợp tác giữa các bên.
• Thứ hai, tăng giá trị thực tiễn của việc thực thi các hiệp định. Các hiệp định thực chất
là các thỏa thuận được các bên cam kết. Vì vậy, một hiệp định không được thực hiện
có nghĩa là cam kết đã không được thực hiện và hậu quả của nó làm cho các thỏa
thuận trở nên vô nghĩa. Cơ chế giải quyết tranh chấp được áp dụng buộc bên không
thực hiện nghĩa vụ của mình phải có trách nhiệm đối với thiệt hại do mình gây ra đối
với bên bị hại. Nói cách khác, giá trị thực tiễn của việc áp dụng các thỏa thuận của các
bên sẽ được cơ chế giải quyết tranh chấp bảo đảm.

• Thứ ba, làm dịu bất bình đẳng giữa người yếu và kẻ mạnh trên cơ sở quy định pháp
luật. Trong nhiều trường hợp, việc tranh chấp diễn ra giữa những thành viên có trình
độ phát triển kinh tế không giống nhau. Do đó thường diễn ra sự không bình đẳng
giữa các nước phát triển, các nước đang phát triển và những nước kém phát triển.
Trên thực tế, những nước có trình độ kinh tế cao luôn có ưu thế hơn so với những
nước có trình độ kinh tế thấp. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp với những luật
lệ đã quy định trước có tình đến khả năng kinh tế của các nước tạo nên môi trường
pháp lí công bằng và thỏa đáng giữa các nước có trình độ phát triển kinh tế không
giống nhau.
• Thứ tư, là công cụ bảo đảm cho sự tin cậy về mặt pháp lí đối với các cam kết của
Chính Phủ. Có thể nói, việc xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ
WTO là một đóng góp có ý nghĩa to lớn. Trong đó tăng cường tính pháp lí đối với
việc thực thi của cam kết của các Chính Phủ các thành viên. Nói cách khác, nếu
không có cơ chế giải quyết tranh chấp thì tính thực thi các cam kết của Chính Phủ sẽ
không được bảo đảm. Do đó sự tạo ra bất ổn định đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích
của các bên đã được ghi nhận trong các hiệp định.
d. Kết quả đã đạt được của WTO trong việc giải quyết tranh chấp.
6
Đến nay cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB) thực sự trở thành một
trong những định chế quyền lực trên thế giới - nhiều phán quyết của cơ quan này đã
buộc các bên phải tuân thủ. Riêng đối với các nước đang phát triển, cơ chế giải quyết
tranh chấp được áp dụng nguyên tắc đối xử đặc biệt. Điểm chính của cơ chế đặc biệt
là các nước đang phát triển có quyền yêu cầu Tổng giám đốc WTO làm trung gian hoà
giải, có quyền yêu cầu đại diện một nước đang phát triển trong nhóm chuyên gia xem
xét vụ việc, thời gian xem xét có thể kéo dài hơn và có quyền yêu cầu Ban thư ký
WTO trợ giúp pháp lý. Chính vì thế, trong những năm gần đây các nước đang phát
triển đã sử dụng nhiều hơn cơ chế này.
Điều đó có thể nhận thấy trong số 352 vụ tranh chấp đã được đưa ra giải quyết tại
WTO, thì có đến 179 vụ kiện liên quan đến Mỹ (bị kiện 95 vụ), tiếp theo sau là khối
EC liên quan đến 130 vụ (bị kiện 54 vụ). Các nước phát triển khởi kiện khoảng hơn

120 vụ. Như vậy là các nước lớn hay nhỏ đều có quyền được kiện và có thể bị kiện
như nhau. Các phán quyết của DBS không vì thế mà mất đi tôn chỉ đảm bảo quyền lợi
chính đáng cho các nước thành viên, tạo điều kiện cho các bên đàm phán đạt được
thỏa thuận thích hợp theo thỏa thuận chung.
Có thể dẫn ra một số vụ kiện điển hình làm minh chứng cho sự công minh
trong phán xét của DSB. Như vụ Venezuela kiện Mỹ vào ngày 23/1/1995 về việc
phân biệt đối xử đối với xăng dầu nhập khẩu từ Venezuela theo Luật Clean Air của
Mỹ được sửa đổi năm 1990. Tiếp đó tháng 4/1995, Brazil cũng đệ đơn lên DSB kiện
Mỹ về vấn đề này. Theo đó, Venezuela và Brazil cho rằng Mỹ áp dụng những quy
định nghiêm ngặt về thành phần hóa học đối với xăng dầu nhập khẩu so với xăng dầu
được tinh lọc trong nội địa, như thế là không công bằng vì xăng dầu của Mỹ cũng
không đáp ứng được tiêu chuẩn này. Điều này vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia
(NT) và không thể được xem là ngoại lệ theo quy định thông thường của WTO về sức
khỏe và môi trường. Hội đồng giải quyết tranh chấp đồng ý với luận điểm của
7
Venezuela và Brazil. Kết quả là Mỹ đã buộc phải đồng ý sửa đổi quy định này trong
vòng 15 tháng, đến ngày 26/8/1997 thì Mỹ ban hành quy định mới.
Một vụ kiện khác vào tháng 11/2000 liên quan đến quy định về chống bán phá
giá giữa Ấn độ và Mỹ về mặt hàng thép nhập khẩu từ Ấn độ. Theo đó Ấn cho rằng
mặt hàng lá thép của mình hợp tiêu chuẩn của Mỹ, nhưng đã bị áp dụng quy định về
thuế chống bán phá giá và thuế nhập khẩu bổ sung do kết quả điều tra của Phòng
thương mại Mỹ (DOC) là chưa phù hợp với quy định tại Điều 6, 10 của GATT 1994,
điều 1,2,3,5,6,12,15,18 và Phụ lục số 2 của Thỏa thuận về chống bán phá giá , điều 18
của Thỏa thuận WTO. Sau khi xem xét hội đồng giải quyết tranh chấp yêu cầu Mỹ
phải đưa ra những tiêu chuẩn tuân thủ theo những nghĩa vụ quy định tại Thỏa thuận
chống bán phá giá. Kết quả là các bên đã đạt được thỏa thuận bổ sung tuân thủ các
phán quyết của hội đồng, cũng như cam kết của các bên.
Ngược lại, cũng có khá nhiều vụ kiện mà nước bị kiện là nước đang phát triển.
Các vụ kiện mang mã số WT/DS54, WT/DS55 and WT/DS64 là ví dụ. Trong đó
Indonesia bị EC, Nhật và Mỹ kiện lên BSD về việc Indonesia đã áp dụng quy định

miễn giảm thuế quan và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với việc nhập khẩu xe có động cơ
nội địa hóa và linh kiện. Phía khởi kiện cho rằng Indonesia vi phạm nghĩa vụ theo
quy định tại Điều I, III của GATT 1994, Điều 2 của Thỏa thuận về TRIMs, điều 3 thỏa
thuận SCM. Nhật cho rằng Indonesia vi phạm Điều I.1,III.2, III.4 và điều X.3a của
GATT 1994, Điều 2, 5.4 thỏa thuận TRIMs. Theo Mỹ, Indonesia cũng vi phạm điều
I,II của GATT 1994, Điều 2 Thỏa thuận TRIMs, Điều 3,6,28 Thỏa thuận SCM và
Điều 3,20,65 của thỏa thuận TRIPs. Hội đồng giải quyết tranh chấp đã xác định rằng
Indonesia vi phạm Điều I,II.2 của GATT 1994, Điều 2 Thỏa thuận TRIMs, Điều 5c
Thỏa thuận SCM nhưng không vi phạm Điều 28.2 Thỏa thuận SCM, nhưng phía khởi
kiện đã không chứng minh được Indonesia vi phạm Điều 3 và 65.5 của thỏa thuận
TRIPs. Indonesia chấp thuận tuân thủ những khuyến nghị của DBS trên cơ sở đó ngày
24/6/1999 Indonesia đã ban hành chính sách mới về ngành Ôtô.
8
Thực tế cho thấy, giữa các nước đang phát triển, hay các nước phát triển nếu có
tranh chấp thương mại cũng dùng cơ chế này để giải quyết. Chẳng hạn như vụ
Achentina kiện Chi lê về quy định tự vệ áp dụng đối với sản phẩm sữa ngày
25/10/2006. Hay như vụ EC kiện Mỹ và Canada về việc quy kết nghĩa vụ của EC đối
với thực phẩm biến đổi gen.
III. KẾT LUẬN:
Với chức năng là cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, WTO đã thể
hiện vai trò hết sức to lớn đối với việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia thành
viên, giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong thương mại, bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của các quốc gia thành viên. Qua đó, tạo ra sự hợp tác quốc tế giữa các
quốc gia với nhau. Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO đang ngày càng trở nên
quan trọng trong xu thế toàn cầu hóa và đang ngày càng hoàn thiện hơn để phù hợp
với thời đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế, NXB Công an nhân
dân, 2004.
2. Giải quyết tranh chấp trong WTO – cơ chế bảo đảm sự bình đằng cho các thành

viên, ThS. Phan Thị Thành Dương, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Báo pháp
luật Việt Nam, chuyên đề số 2 tháng 12/2007;

9
10

×