Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong tố tụng hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (991.67 KB, 89 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC
-----------***-----------

ĐẶNG THỊ CẨM NHUNG
MSSV: 1953801014164

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BỊ KIỆN TRONG TỐ TỤNG
HÀNH CHÍNH

Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2019 - 2023

Người hướng dẫn: Th.S Dũng Thị Mỹ Thẩm

TP.HCM - Năm 2023


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khố luận tốt nghiệp “Quyền và nghĩa vụ của người bị
kiện trong tố tụng hành chính” là cơng trình nghiên cứu do bản thân tôi thực hiện
dưới sự hướng dẫn của Th.S Dũng Thị Mỹ Thẩm. Các thơng tin, tài liệu được trình
bày trong Khoá luận tốt nghiệp được thu thập một cách khách quan, trung thực, đảm
bảo các quy định chống đạo văn của Nhà trường.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm với lời cam đoan trên của mình.
Tác giả

Đặng Thị Cẩm Nhung


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


STT

Từ viết tắt

Từ hoàn chỉnh

1.

HVHC

Hành vi hành chính

2.

Luật TTHC năm 2010

Luật Tố tụng hành chính năm 2010

3.

Luật TTHC năm 2015

4.

NBK

Người bị kiện

5.


NKK

Người khởi kiện

6.

QĐHC

Quyết định hành chính

7.

Q&NV

Quyền và nghĩa vụ

8.

THTT

Tiến hành tố tụng

9.

TTHC

Tố tụng hành chính

10.


UBND

Ủy ban nhân dân

11.

VAHC

Vụ án hành chính

12.

VBTT

Văn bản tố tụng

Luật Tố tụng hành chính 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2019)


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ...................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...............................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................3
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ...........................................4
6. Bố cục đề tài .................................................................................................4

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN VÀ
NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BỊ KIỆN TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
..........................................................................................................................5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về quyền và nghĩa vụ của người bị kiện
trong tố tụng hành chính ...............................................................................5
1.1.1. Khái niệm về quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong tố tụng
hành chính ................................................................................................5
1.1.2. Đặc điểm về quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong tố tụng
hành chính ................................................................................................7
1.1.3. Ý nghĩa về quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong tố tụng hành
chính .........................................................................................................9
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của người bị
kiện trong tố tụng hành chính .....................................................................12
1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong việc thu thập, cung cấp
tài liệu, chứng cứ, chứng minh ...............................................................12
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong việc cấp, tống đạt, thông
báo văn bản tố tụng ................................................................................20
1.2.3. Quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong việc tự bảo vệ, nhờ luật
sư hoặc người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình ..............22
1.2.4. Quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong việc kháng cáo và đề
nghị người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án .24
1.2.5. Các quyền và nghĩa vụ khác của người bị kiện ............................29
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.............................................................................39
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BỊ KIỆN TRONG TỐ TỤNG
HÀNH CHÍNH .............................................................................................40


2.1. Thực trạng về quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong tố tụng hành
chính ..............................................................................................................40

2.1.1. Thực trạng thực hiện quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
người bị kiện trong tố tụng hành chính ..................................................40
2.1.2. Một số bất cập của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người bị
kiện trong tố tụng hành chính .................................................................52
2.2. Giải pháp hoàn thiện về quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong tố
tụng hành chính ............................................................................................65
2.2.1. Về mặt pháp lý ..............................................................................66
2.2.2. Về mặt thực tiễn ............................................................................73
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.............................................................................77
KẾT LUẬN CHUNG ...................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam ký kết
có quy định “Tất cả mọi người đều bình đẳng trước Tịa án và cơ quan tài phán. Bất
kỳ người nào đều có quyền địi hỏi việc xét xử công bằng và công khai do một Tịa
án có thẩm quyền, độc lập, khơng thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp lý…”. Theo
đó, khi công dân tham gia vào một quan hệ giải quyết tranh chấp bất kỳ thì việc đảm
bảo các Q&NV cơ bản của công dân luôn là mối quan tâm được đặt lên hàng đầu của
đất nước. Do đó, đối với VAHC, dù đó là chủ thể NKK hay NBK thì chủ thể nào
cũng được Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng một cách bình đẳng, khơng có
sự phân biệt.
Pháp luật TTHC thể hiện sự tôn trọng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
các đương sự trong VAHC nói chung và NBK nói riêng. Theo đó, NBK là chủ thể
đóng vai trị vơ cùng quan trọng và là một bên khơng thể thiếu trong q trình giải
quyết VAHC. Có thể thấy, những năm gần đây khi Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực

thi hành, cơng tác giải quyết án hành chính của Tịa án cũng đạt được nhiều kết quả
nổi bật, trong đó Q&NV của người tham gia tố tụng trong VAHC cũng được quy
định chi tiết, cụ thể hơn. Từ đó, tạo điều kiện cho quyền lợi hợp pháp của họ được
bảo đảm một cách tốt nhất.
Về cơ bản, những quy định pháp luật về Q&NV của NBK trong TTHC được
Luật TTHC năm 2015 ghi nhận đã đáp ứng được những yêu cầu mà thực tiễn xét xử
đặt ra. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những vướng mắc, khó khăn xuất phát từ quy định pháp
luật cũng như ý thức, trách nhiệm của NBK là chưa cao, dẫn đến làm ảnh hưởng tiến
độ giải quyết VAHC của Tịa án. Bên cạnh đó, việc thực hiện khơng đúng Q&NV
của NBK đã ít nhiều làm phát sinh những bức xúc, tâm lý tiêu cực cho các đương sự
khác trong VAHC. Mặc dù, đến nay đã có những cơng trình nghiên cứu đề cập những
phần nhỏ liên quan đến nội dung Q&NV của NBK trong TTHC, nhưng chưa phản
ánh trực tiếp và cụ thể. Vì vậy, một số vấn đề liên quan đến Q&NV của NBK cần
được tiếp tục bổ sung, qua đó hồn thiện hơn về hệ thống pháp luật TTHC ở Việt
Nam hiện nay.
Vậy nên, việc nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ những vấn đề lý luận,
pháp lý và thực tiễn về Q&NV của NBK trong TTHC là điều vơ cùng cần thiết. Từ
đó, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết VAHC, không làm ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự khác trong VAHC. Với những lý do trên, tác giả
chọn đề tài “Quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong tố tụng hành chính” để
làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp của mình.


2

2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu về Q&NV của NBK trong TTHC là vấn đề ít được quan tâm,
vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu cụ thể và phân tích một cách tập trung, hệ
thống và chuyên sâu về nội dung này. Bởi lẽ, Q&NV của NBK là nội dung bao gồm
nhiều Q&NV của NBK được Luật TTHC năm 2015 quy định cho họ. Tuy nhiên, vẫn

có các tài liệu nghiên cứu một phần nội dung liên quan đến Q&NV của NBK trong
VAHC, nhưng chưa có tài liệu nào đề cập một cách toàn diện về vấn đề lý luận, pháp
lý cũng như thực trạng thực hiện quy định pháp luật, những bất cập, vướng mắc của
Q&NV của NBK trong TTHC. Cụ thể:
- Cấn Thuỳ Dung (2011), “Quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng
trong vụ án hành chính”, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (04).
- Lê Thu Hằng (2011), “Đối thoại trong q trình giải quyết vụ án hành chính”,
Tạp chí Nghề luật, (04).
- Nguyễn Sơn Lâm (2012), Chứng cứ trong vụ án hành chính, Khố luận tốt
nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thanh Bình (2013), “Vấn đề bảo đảm sự bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ trong tố tụng hành chính theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nghề luật, Học
viện Tư pháp, (05).
- Đặng Xuân Sơn (2014), Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hành
chính, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phan Thanh Hà (2014), Chứng minh trong vụ án hành chính, Khố luận tốt
nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Lê Thị Thu Nga (2015), Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung
cấp chứng cứ, chứng minh, Khoá luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh.
`- Nguyễn Hồng Yến (2015), “Một số vấn đề về cách thức xử lý khi đương
sự vắng mặt tại phiên tịa xét xử vụ án hành chính”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
(05).
- Nguyễn Cảnh Hợp (Chủ biên) (2018), Giải thích và bình luận Luật Tố tụng
hành chính năm 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.
- Nguyễn Mạnh Hùng (2019), “Hoàn thiện quy định về trách nhiệm công vụ
của người bị kiện trong tố tụng hành chính”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (05).
- Nguyễn Thị Thế (2020), “Một số ý kiến về giải quyết vụ án hành chính khi
người bị kiện hủy bỏ quyết định hành chính bị khởi kiện”, Tạp chí Kiểm sát, (07).
- Nguyễn Hoàng Yến (2021), “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người

khởi kiện trong trường hợp người bị kiện hủy bỏ quyết định hành chính bị khởi kiện”,


3

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (10).
- Đặng Tấn Lộc (2022), Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành
chính Việt Nam, Khố luận tốt nghiệp cử nhân Luật, trường Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh.
- Phạm Cao Tiệp (chủ nhiệm) (2022), Sự có mặt của người bị kiện, người đại
diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện trong tố tụng hành
chính, Đề tài Nghiên cứu khoa học sinh viên cấp trường, Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh…
Các cơng trình nghiên cứu được nêu ở trên chỉ tiếp cận một phần vấn đề liên
quan đến quy định về Q&NV của NBK trong TTHC, chưa được nghiên cứu chuyên
sâu và tồn diện. Do đó, ở đề tài “Quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong tố
tụng hành chính” của Khoá luận tốt nghiệp này, tác giả sẽ đi vào tìm hiểu, nghiên
cứu chuyên sâu về từng Q&NV nổi bật, đặc trưng của NBK. Từ đó, chỉ ra rõ các
vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật về Q&NV của NBK trong TTHC. Tiếp
theo, đề xuất các giải pháp để hoàn thiện hơn về nội dung này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Khố luận tốt nghiệp là làm rõ cơ sở lý luận và pháp
lý về Q&NV của NBK trong TTHC. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích thực trạng về
Q&NV của NBK trong TTHC, từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
và thực tiễn về Q&NV của NBK trong TTHC.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu như trên thì nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về Q&NV của NBK trong TTHC, qua đó làm
tiền đề cho việc phân tích những quy định của pháp luật TTHC về Q&NV của NBK.

Thứ hai, làm nổi bật những quy định pháp luật TTHC về Q&NV của NBK
trong TTHC.
Thứ ba, chỉ rõ những bất cập, vướng mắc trong quy định pháp luật cũng như
thực tiễn thực hiện quy định pháp luật. Trên cơ sở đó, đề ra các giải pháp hoàn thiện
về mặt pháp lý cũng như thực tiễn cho nội dung Q&NV của NBK trong TTHC.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về Q&NV của NBK
trong TTHC, các quy định pháp luật TTHC về Q&NV của NBK trong TTHC và thực
trạng về Q&NV của NBK trong TTHC. Từ đó, đề tài đưa ra những giải pháp hồn
thiện về Q&NV của NBK trong TTHC.


4

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về Q&NV của NBK trong TTHC. Cụ thể:
Thứ nhất, đề tài tập trung phân tích nội dung các quy định của pháp luật về
vấn đề Q&NV của NBK trong TTHC theo Luật TTHC năm 2015. Theo đó, về mặt
pháp lý, Khoá luận tốt nghiệp cũng đề cập tới những vấn đề xoay quanh về Q&NV
của NBK như trong hoạt động thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh;
hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTT; tự bảo vệ, nhờ luật sư hoặc người khác
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho NBK; kháng cáo và đề nghị người có thẩm quyền
kháng nghị bản án, quyết định của Tịa án; các hoạt động tố tụng khác trong TTHC ở
Việt Nam. Khố luận tốt nghiệp khơng nghiên cứu các vấn đề về xét xử theo thủ tục
rút gọn được quy định tại Luật TTHC năm 2015.
Thứ hai, đề tài chỉ rõ các bất cập về pháp luật và thực tiễn thực hiện quy định
pháp luật về Q&NV của NBK trong TTHC. Từ đó, tác giả có cơ sở để đề xuất các
giải pháp hoàn thiện về mặt pháp lý lẫn thực tiễn về vấn đề này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Khóa luận được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đường lối
của Đảng, Nhà nước ta và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước và pháp luật.
Khoá luận tốt nghiệp đã kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương
pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch, phương pháp phân tích luật viết, phương pháp
so sánh, phương pháp thống kê và phương pháp phân tích, tổng hợp để đạt được mục
đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Khoá luận tốt nghiệp. Cụ thể:
- Chương 1: Để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp lý về Q&NV của
NBK trong TTHC, tác giả sử dụng phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch,
phương pháp phân tích luật viết, phương pháp so sánh.
- Chương 2: Để làm rõ các bất cập, vướng mắc trong quy định pháp luật, từ
đó, làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về Q&NV
của NBK trong TTHC ở Việt Nam hiện nay, tác giả sử dụng phương pháp thống kê,
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp.
6. Bố cục đề tài
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Khoá luận tốt
nghiệp được chia thành hai chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về quyền và nghĩa vụ của người bị
kiện trong tố tụng hành chính
Chương 2. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện về quyền và nghĩa vụ của người
bị kiện trong tố tụng hành chính.


5

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN VÀ
NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BỊ KIỆN TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về quyền và nghĩa vụ của người bị kiện
trong tố tụng hành chính
1.1.1. Khái niệm về quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong tố tụng hành

chính
NBK là một trong hai chủ thể khơng thể thiếu trong q trình giải quyết vụ án
của Tịa án, có thể nói khơng có NBK thì cũng khơng có VAHC. Hiện nay, Luật
TTHC năm 2015 đã quy định khá đầy đủ, chi tiết về Q&NV của NBK trong VAHC
để đảm bảo NBK có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách tốt nhất
trước Tịa án. Tuy nhiên, vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định
cụ thể, chi tiết về khái niệm Q&NV của NBK trong VAHC. Vì vậy, khi tìm hiểu khái
niệm Q&NV và khái niệm NBK trong VAHC cần phải tiếp cận với nhiều góc độ
khác nhau như: góc độ ngơn ngữ học, khoa học pháp lý và trong các văn bản pháp
luật về TTHC.
Thứ nhất, khái niệm về “Q&NV”
Một là, dưới góc độ ngơn ngữ học, khái niệm “Q&NV” được cấu thành bởi
hai khái niệm “quyền” và “nghĩa vụ”.
(i) Về khái niệm “quyền”, theo Từ điển tiếng Việt, “quyền” được hiểu là “điều
mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được địi hỏi”1. Bên
cạnh đó, theo Từ điển Luật học, “quyền” có nghĩa là “khái niệm khoa học pháp lý
dùng để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá
nhân, tổ chức để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được địi hỏi mà khơng ai
được ngăn cản, được hạn chế”2. Có thể thấy, cả hai Từ điển trên đều đưa ra khái niệm
“quyền” theo nghĩa chung nhất - “quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội cơng nhận
và chủ thể có quyền được hưởng, được làm, được đòi hỏi”. Tuy nhiên, khái niệm
“quyền” mà Từ điển Luật học đưa ra mang tính khoa học pháp lý cao hơn, khẳng
định cơ chế bảo vệ quyền là không ai được ngăn cản, hạn chế. Nhìn chung, đó là
những gì pháp luật quy định được làm, được hưởng thì khơng ai được tước đi quyền
đó.
(ii) Về khái niệm “nghĩa vụ”, Từ điển tiếng Việt cho rằng “nghĩa vụ” là “việc
mà đạo đức bắt buộc phải làm đối với xã hội, đối với người khác”3. Bên cạnh đó, Từ

Hồng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr.815.
Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp – Nxb. Từ điển Bách khoa, tr.648.

3 Hoàng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr.679.
1
2


6

điển Luật học khẳng định “nghĩa vụ” là “việc phải làm theo bổn phận của mình”4.
Nhìn chung, cả hai khái niệm đều đưa ra bản chất của nghĩa vụ là việc mà cá nhân
phải làm theo trách nhiệm, bổn phận mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc. Cả hai cách
giải thích trên về khái niệm nghĩa vụ đều ngắn gọn, dễ hiểu. Tuy nhiên, so với Từ
điển tiếng Việt, Từ điển Luật học đưa ra khái niệm “nghĩa vụ” chưa thật sự đầy đủ,
tồn diện.
Hai là, dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm “Q&NV” không được đề cập
trực tiếp, tuy nhiên, các nhà nghiên cứu sẽ gắn chặt khái niệm này với chủ thể ở một
thời gian, địa điểm. Chẳng hạn, tác giả Đặng Xuân Sơn bàn luận rằng “Q&NV của
đương sự trong VAHC là tổng hợp những điều mà đương sự được làm hoặc phải làm
khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHC theo quy định của pháp luật”5 hay tác giả
Lê Thị Thu Nga kết luận rằng “Q&NV của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án dân sự là những việc mà Tòa án cấp sơ thẩm được làm và phải làm
trong một khoảng thời gian xác định của quá trình tố tụng nhằm chuẩn bị những điều
kiện cần thiết để xét xử sơ thẩm vụ án dân sự”6. Nhìn chung, các khái niệm này đều
dựa trên bản chất của khái niệm “Q&NV” để triển khai cho tương ứng với từng loại
chủ thể ở từng thời gian, địa điểm.
Ba là, ở góc độ văn bản pháp luật, các văn bản pháp luật nói chung và Luật
TTHC năm 2015 nói riêng đều khơng giải thích từ ngữ “Q&NV”. Nhìn chung, tương
ứng với từng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức, cá nhân sẽ được pháp
luật trao cho những Q&NV cụ thể, chi tiết ở thời gian, địa điểm. Song các quy định
này chỉ mang tính chất liệt kê mà khơng phân tích sâu bản chất “Q&NV” của chủ thể
này hay chủ thể khác.

Thứ hai, khái niệm về “NBK”
Một là, dưới góc độ ngơn ngữ, Từ điển pháp luật Việt Nam đã chỉ ra rằng
“NBK là cơ quan, tổ chức, cá nhân có QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật buộc thôi
việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh
sách cử tri bị khởi kiện”7. Tuy nhiên, khái niệm này được đưa ra ở thời điểm Luật
TTHC năm 2015 chưa được sửa đổi, bổ sung. Hiện nay, Luật TTHC năm 2015 đã
được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 55/2019/QH14 ngày 26 tháng 11 năm 2019 của
Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kiểm toán nhà nước. Theo đó, NBK
là người có các đối tượng bị khởi kiện như QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật buộc
Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp – Nxb. Từ điển Bách khoa, tr.560.
Đặng Xuân Sơn (2014), Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong Tố tụng hành chính, Khố luận tốt nghiệp, Trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.9.
6 Hồ Quyết Tiến (2015), Quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, Luận văn
Thạc sỹ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.10.
7 Nguyễn Ngọc Điệp (2020), Từ điển pháp luật Việt Nam, Nxb. Thế giới, tr.329.
4
5


7

thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh
sách cử tri bị khởi kiện và “quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm tốn
nhà nước”.
Hai là, dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm “NBK” được Giáo trình Luật
TTHC Việt Nam của trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đề cập như sau
“NBK là chủ thể có đối tượng bị khởi kiện VAHC. Hay nói một cách ngắn gọn là chủ
thể bị NKK khởi kiện VAHC hợp lệ”8. Khái niệm này ngắn gọn, xúc tích nhưng vẫn
đề cập được những đặc trưng cơ bản của NBK. Tư cách của NBK xuất hiện một cách
thụ động, bởi vì một chủ thể chính thức trở thành NBK khi và chỉ khi NKK đã khởi

kiện hợp lệ và được Tịa án có thẩm quyền chấp nhận 9. Với cách đề cập này, những
đối tượng bị khởi kiện không được liệt kê rõ ràng mà các điều kiện để trở thành NBK
trong TTHC được tập trung làm rõ.
Ba là, dưới góc độ văn bản pháp luật, theo quy định tại khoản 9 Điều 3 Luật
TTHC năm 2015 “NBK là cơ quan, tổ chức, cá nhân có QĐHC, HVHC, quyết định
kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh, quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước, danh sách
cử tri bị khởi kiện”.
Dựa trên những khái niệm đã nêu ở trên, có thể đưa ra khái niệm Q&NV của
NBK trong VAHC như sau:
“Q&NV của NBK trong VAHC là những quy định cho phép NBK được thực
hiện mà không ai được ngăn cấm, tước đoạt hoặc những quy định bắt buộc NBK phải
thực hiện khi tham gia vào quan hệ TTHC”.
1.1.2. Đặc điểm về quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong tố tụng hành
chính
Trên cơ sở khái niệm Q&NV của NBK đã được phân tích thì Q&NV của NBK
trong VAHC có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, Q&NV của NBK trong VAHC là những điều mà NBK được phép
thực hiện và bắt buộc thực hiện theo quy định của pháp luật TTHC
Luật TTHC năm 2015 quy định rất nhiều Q&NV khác nhau cho NBK trong
TTHC. Đây là những điều mà pháp luật cho phép NBK được thực hiện hoặc bắt buộc
thực hiện. Nguyên tắc của nhà nước pháp quyền là “nhà nước quản lý bằng pháp luật
và pháp luật là công cụ quan trọng nhất trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội”10. Có
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam (Tái bản lần thứ 1,
có sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.188.
9 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam (Tái bản lần thứ 1,
có sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.188.
10 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Tập bài giảng Lý luận về nhà nước, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật
gia Việt Nam, tr.225.
8



8

thể hiểu, một nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật, lấy pháp luật là
thước đo các hành vi trong xã hội và những hành vi lệch chuẩn đều bị xử lý theo quy
định của pháp luật. Trong khuôn khổ pháp luật, các chủ thể trong xã hội được thực
hiện các Q&NV mà pháp luật đã quy định. Cụ thể, trong quan hệ pháp luật TTHC,
NBK thực hiện đúng những điều mà pháp luật đã quy định cho Q&NV của mình mà
khơng ai có quyền ngăn cấm hay hạn chế. Về phạm vi quyền, NBK được phép thực
hiện hoặc không thực hiện, cần lưu ý rằng, những quyền mà Luật TTHC năm 2015
quy định cho NBK là “chiếc áo pháp lý” bảo vệ lợi ích hợp pháp của NBK. Trong
khi đó, về phạm vi nghĩa vụ, NBK không thực hiện đúng những nghĩa vụ bắt buộc
do pháp luật TTHC quy định thì sẽ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi cho mình.
Thậm chí, khơng chủ thể nào có quyền bắt buộc NBK và các đương sự trong vụ án
thực hiện các nghĩa vụ không được quy định trong Luật TTHC năm 2015.
Thứ hai, Q&NV này phát sinh khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHC
Hầu hết các quy định pháp luật đều được thể hiện dưới dạng văn bản pháp
luật, các quy định này là khuôn mẫu chung để các chủ thể nghiêm chỉnh chấp hành
và thực hiện nó. Các Q&NV pháp lý do pháp luật quy định được nhà nước bảo đảm
thực hiện. Theo đó, Luật TTHC là ngành luật quy định về trình tự giải quyết VAHC.
VAHC là vụ án phát sinh khi cá nhân, tổ chức khởi kiện hợp lệ các QĐHC hay HVHC
hoặc các quyết định khác theo quy định pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và được Tịa án có thẩm quyền thụ lý. “Các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình giải quyết VAHC được gọi là quan hệ TTHC”11. Khi tham gia vào một
VAHC nhất định, NBK cũng như các đương sự trong vụ án sẽ được hưởng những
quyền cũng như có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ Luật định. Vậy nên, Q&NV của
NBK trong VAHC phát sinh trên cơ sở các quy định của pháp luật TTHC và gắn liền
với quan hệ pháp luật TTHC cụ thể. Qua đó, NBK được thực hiện Q&NV của mình
trong suốt quá trình giải quyết VAHC. Đồng thời, nếu một người không tham gia tố

tụng và không có tư cách chủ thể NBK trong VAHC thì khơng được thực hiện các
Q&NV mà pháp luật TTHC quy định cho NBK.
Thứ ba, quyền của NBK tồn tại song song với nghĩa vụ của NBK trong VAHC
Q&NV là hai chế định hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng vẫn tồn tại song song
trong hầu hết các quan hệ pháp luật. Do đó, quyền của NBK ln tồn tại song song
với nghĩa vụ của NBK trong TTHC. Đây là thể hiện của nguyên tắc “quyền công dân
không tách rời với nghĩa vụ cơng dân”12. Nhìn chung, việc quy định quyền song song

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam (Tái bản lần thứ 1,
có sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.34-35.
12 Khoản 1 Điều 15 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
11


9

với nghĩa vụ của NBK sẽ đảm bảo sự cân bằng và hợp lý. Vì nếu chỉ quy định quyền
thì mới đảm bảo được lợi ích hợp pháp của NBK mà lợi ích hợp pháp của chủ thể
khác sẽ bị ảnh hưởng. Ngược lại, nếu chỉ quy định nghĩa vụ thì chỉ đảm bảo được lợi
ích hợp pháp của chủ thể khác mà lợi ích hợp pháp của NBK sẽ bị lung lay. Suy cho
cùng, quyền của NBK và nghĩa vụ của NBK là hai mặt đối lập trong một chỉnh thể
thống nhất. Cần lưu ý rằng, đặc điểm quyền tồn tại song song với nghĩa vụ của NBK
trong TTHC đã được thể hiện ở kỹ thuật lập pháp. Cụ thể, Điều 55 và 57 Luật TTHC
năm 2015 chỉ mang tính chất liệt kê mà khơng có sự phân biệt rạch ròi giữa “quyền
của NBK” và “nghĩa vụ của NBK”. Đơn cử, vấn đề “tham gia phiên tòa, phiên họp”
vẫn luôn gây ra nhiều tranh cãi về việc phân loại quy định này thuộc về phạm vi
quyền của NBK hay nghĩa vụ của NBK trong VAHC.
Thứ tư, Q&NV của NBK trong VAHC được đặt trong mối quan hệ với các cơ
quan, người THTT trong quá trình tố tụng
Một trong những đối tượng điều chỉnh của ngành Luật TTHC là quan hệ giữa

cơ quan THTT, người THTT với đương sự (NKK, NBK, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan) và với những người tham gia tố tụng khác (người đại diện cho đương
sự, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, người làm chứng, người giám định và người
phiên dịch). Theo đó, cơ quan THTT, người THTT căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn
của mình cho phép, bắt buộc NBK phải thực hiện những công việc nhất định. Ngược
lại, NBK cũng có những tác động, ảnh hưởng nhất định đến hoạt động của cơ quan
THTT, người THTT. Chẳng hạn, theo khoản 7 Điều 55 Luật TTHC năm 2015, đương
sự có thể “đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà mình
khơng thể thực hiện…”. Do đó, trong trường hợp cần thiết, nếu khơng thể tự mình thu
thập tài liệu, chứng cứ của vụ án thì NBK có thể để Tịa án xác minh và thu thập. Đây
là một trong những quy định vừa thể hiện sự hỗ trợ vừa thể hiện tính trách nhiệm của
Tịa án, góp phần làm cho VAHC được diễn ra nhanh chóng, logic và hiệu quả hơn.
1.1.3. Ý nghĩa về quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong tố tụng hành chính
Những phân tích về khái niệm và đặc điểm về Q&NV của NBK trong VAHC
cho thấy việc thực hiện đúng các Q&NV do Luật TTHC năm 2015 quy định cho họ
sẽ mang lại những ý nghĩa quan trọng cho q trình giải quyết VAHC. Cụ thể, đó là
ý nghĩa đối với hoạt động tố tụng, đối với các đương sự khác trong vụ án và đối với
hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ nhất, đối với hoạt động tố tụng
Một là, góp phần làm cho VAHC được giải quyết khách quan, nhanh chóng
và hiệu quả. Q trình giải quyết VAHC của Tịa án là một q trình trải qua nhiều
giai đoạn phức tạp. Mỗi giai đoạn có những ý nghĩa khác nhau đối với quá trình giải


10

quyết vụ án. Việc thực hiện đúng Q&NV của NBK trong TTHC sẽ góp phần tiết kiệm
được thời gian, cơng sức và tiền bạc. Vì một VAHC cụ thể sẽ cần có sự tham gia của
rất nhiều chủ thể như NKK, NBK, người phiên dịch, người làm chứng… Theo đó,
mỗi chủ thể sẽ giữ một tư cách pháp lý nhất định trong VAHC. Trong khi đó, NBK

là một trong hai chủ thể bắt buộc phải có trong VAHC nên Q&NV của chủ thể này
cũng đóng vai trị vơ cùng quan trọng đối với hoạt động tố tụng của Tòa án. Đặc biệt,
tư cách pháp lý của NBK được xuất hiện một cách thụ động nhưng họ phải chủ động
có yêu cầu gì tác động đến việc khởi kiện của NKK. Tuy nhiên, Q&NV đặt ra cho
NBK là chứng minh tính hợp pháp, đúng đắn của QĐHC, HVHC mà NKK cho rằng
đã xâm phạm đến lợi ích của họ. Vì thế, NBK thực hiện đúng Q&NV của mình do
pháp luật TTHC quy định (ví dụ tham gia tích cực các phiên họp, phiên tòa, cung cấp
đầy đủ tài liệu, chứng cứ mà Tòa án yêu cầu…) là một yếu tố then chốt giúp cho quá
trình giải quyết VAHC được diễn ra khách quan, nhanh chóng và hiệu quả.
Hai là, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn, có căn cứ và hợp
pháp. Từ việc NBK và các đương sự khác trong VAHC thực hiện đúng các Q&NV
do Luật TTHC quy định sẽ làm cơ sở cho bản án, quyết định của Tịa án có tính chính
xác cao, hạn chế được tình trạng hủy, sửa án. Chẳng hạn, nếu các chủ thể tham gia tố
tụng khơng có sự hợp tác với Tòa án trong việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ
thì Tịa án khơng thể đưa ra phán quyết đúng đắn và khách quan. Vì kết quả giải quyết
vụ án chủ yếu dựa vào chứng cứ, chứng minh. Nhận thấy rằng, “mọi hoạt động tố
tụng diễn ra đều nhằm mục đích mang lại cơng lý, góp phần làm sáng tỏ vụ án dựa
trên những căn cứ phù hợp với quy định pháp luật”13 nên đòi hỏi các chủ thể tham
gia tố tụng phải thực hiện đúng các Q&NV mà pháp luật TTHC quy định cho họ.
Như vậy, ý thức chấp hành pháp luật của đương sự nói chung, NBK nói riêng sẽ góp
phần giúp cho q trình giải quyết vụ án của Tòa án đúng đắn, hợp pháp và có căn
cứ.
Thứ hai, đối với các đương sự trong vụ án
Một là, NBK thực hiện đúng Q&NV của mình sẽ góp phần bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của NBK cũng như các đương sự khác trong VAHC. Quyền và lợi ích
hợp pháp của con người “là giá trị nhân văn cao quý và thiêng liêng đối với mỗi con
người, mỗi quốc gia và cộng đồng nhân loại”14. Có thể thấy, Q&NV của đương sự
trong TTHC là những Q&NV phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án. Mục đích chính
của NBK khi tham gia tố tụng là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ cũng như
Lê Thị Thu Nga (2015), Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành

chính, Khố luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.16.
14 Lê Hữu Nghĩa (2000), “Bảo vệ và phát triển con người bản chất chế độ ta”, Thông tin Quyền con người, Trung tâm
Nghiên cứu quyền con người – Học viện Chính trị Quốc gia, (01), tr.6.
13


11

chứng minh tính hợp pháp, tính đúng đắn của đối tượng bị khởi kiện mà họ đã ban
hành trong hoạt động quản lý nhà nước. Chính vì vậy, việc thực hiện các Q&NV của
NBK trong vụ án có liên hệ mật thiết và có ý nghĩa lớn đối với quyền và lợi ích chính
đáng của họ15. Qua đó, giúp cho quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án
nói chung và NBK nói riêng được đảm bảo xun suốt trong q trình giải quyết
VAHC.
Hai là, góp phần tiết kiệm thời gian, chi phí, cơng sức của các đương sự. NBK
là một trong những đương sự trong TTHC. Nếu NBK thực hiện đúng các Q&NV của
mình sẽ làm cho quá trình giải quyết vụ án được khách quan, nhanh chóng và hiệu
quả. Từ đó, các đương sự khác trong vụ án được giảm thiểu rất nhiều về mặt thời
gian, chi phí và cơng sức. Như vậy, q trình giải quyết vụ án nhanh hay chậm còn
phụ thuộc vào việc NBK có thực hiện đúng Q&NV của mình do pháp luật TTHC quy
định. Ví dụ, trong thủ tục đối thoại ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, để tiến hành
thủ tục đối thoại một cách thuận lợi, sự có mặt của hai bên đương sự là rất cần thiết
và sự có mặt của phía NBK sẽ có thể mở ra chiều hướng giải quyết vụ án một cách
êm đẹp. Vậy nên, quá trình giải quyết vụ án của Tịa án sẽ được khách quan, nhanh
chóng và hiệu quả. Bên cạnh đó, tránh trường hợp kéo dài quá trình tố tụng làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi chính đáng của đương sự trong TTHC.
Thứ ba, đối với hoạt động quản lý nhà nước
Thực hiện đúng Q&NV của NBK trong VAHC góp phần nâng cao chất lượng
quản lý hành chính nhà nước. NBK là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền hoặc
được Nhà nước trao quyền có QĐHC, HVHC bị khởi kiện. Khi NBK thực hiện đúng

Q&NV do pháp luật TTHC quy định cho họ như quyền tham gia tố tụng sẽ giúp họ
nhìn nhận lại tính hợp pháp cũng như tính hợp lý của các đối tượng khởi kiện mà
NBK đã ban hành trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Do đó, việc thực
hiện đúng Q&NV của NBK cũng góp phần nâng cao trách nhiệm, nhận thức của cơ
quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước. Qua đó, giúp chủ thể quản lý nhà nước khắc phục, sửa chữa những sai lầm
trong hoạt động quản lý nhà nước và hướng tới hoàn thiện các quy định pháp luật
TTHC. Bởi lẽ, thông qua việc tham gia tố tụng, người có thẩm quyền ban hành, thực
hiện các đối tượng bị khởi kiện có thể rút ra được kinh nghiệm cho hoạt động quản
lý nhà nước của họ sau này. Cụ thể, khi thấy một QĐHC, HVHC không đúng pháp
luật thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể “sửa sai” bằng cách sửa đổi, thay thế, hủy bỏ
các QĐHC làm cho QĐHC sau đó hợp pháp hoặc dừng, khắc phục HVHC bị khởi
Đặng Xuân Sơn (2014), Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng hành chính, Khố luận tốt nghiệp, Trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh tr.45.
15


12

kiện. Ngồi ra, đây cũng là “chìa khóa” để tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, bức xúc
trong cơng tác quản lý hành chính của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị xâm phạm bởi đối
tượng bị khởi kiện. Từ đó, tạo lập và củng cố niềm tin của người dân đối với hoạt
động quản lý nhà nước nói riêng và pháp luật nói chung.
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của người bị
kiện trong tố tụng hành chính
1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong việc thu thập, cung cấp tài
liệu, chứng cứ, chứng minh
Việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh khơng chỉ là quyền mà
cịn là nghĩa vụ của NBK và các đương sự khác trong vụ án. Theo đó, Điều 9 Luật
TTHC năm 2015 khẳng định “Các đương sự có Q&NV chủ động thu thập, giao nộp

tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và chứng minh u cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp”. Có thể thấy, hoạt động này là một trong những hoạt động trọng tâm của quá
trình giải quyết VAHC. Vì chứng cứ có thể làm rõ sự thật khách quan của vụ án, giúp
tái hiện lại những sự việc đã xảy ra một cách đúng đắn nhất. Qua đó, giúp Tịa án làm
rõ các tình tiết làm cơ sở để xác định kết quả thắng thua của các đương sự trong vụ
án nói chung, NBK nói riêng16.
Với quy định tại Điều 55 Luật TTHC năm 2015, NBK có quyền thu thập, cung
cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án để bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Nếu
NBK không đưa ra hoặc đưa ra không đầy đủ tài liệu, chứng cứ thì phải chịu những
bất lợi trong quá trình giải quyết vụ án. Hoạt động thu thập, cung cấp tài liệu, chứng
cứ được thừa nhận là quyền của NBK, bởi lẽ với quy định như vậy sẽ đảm bảo cho
NBK chủ động hơn trong việc cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho họ 17. Song
hoạt động này cũng được xem là nghĩa vụ của NBK. Vì khi có đơn khởi kiện của
NKK và được Tịa án thụ lý vụ án thì NBK phải cung cấp cho Tòa án hồ sơ giải quyết
khiếu nại (nếu có) và bản sao các văn bản, tài liệu mà căn cứ vào đó để ra QĐHC,
quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà
nước hoặc có HVHC18. Các quy định liên quan đến thu thập, cung cấp tài liệu, chứng
cứ, chứng minh của NBK trong TTHC được quy định tập trung tại Chương VI (Điều
78 - Điều 98) Luật TTHC năm 2015.
Thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh là một hoạt động đóng vai
Nguyễn Sơn Lâm (2016), “Một số điểm mới về chứng cứ trong Luật Tố tụng hành chính năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát,
(18), tr.42-46.
17 Lê Thị Thu Nga (2015), Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành
chính, Khố luận tốt nghiệp, Trường Đai học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.16.
18 Điều 78 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
16


13


trị quan trọng trong q trình giải quyết VAHC. Theo đó, Q&NV của NBK được
Luật TTHC năm 2015 ghi nhận như sau:
Thứ nhất, Q&NV của NBK trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Theo quy định tại khoản 5 Điều 55 Luật TTHC năm 2015 “Cung cấp tài liệu,
chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Như đã phân
tích, việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh trong VAHC vừa là
quyền, vừa là nghĩa vụ của NBK. Dù là quyền hay là nghĩa vụ thì hoạt động thu thập,
cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh cũng sẽ giúp NBK bảo vệ được quyền và lợi
ích hợp pháp của mình trước Tịa án và pháp luật. Theo lý luận về “quyền”, NBK có
quyền lựa chọn thực hiện hoặc không thực hiện cung cấp những chứng cứ bất lợi cho
mình. Sau đó, theo lý luận về “nghĩa vụ”, hoạt động này đòi hỏi NBK phải cung cấp
chứng cứ và phải chứng minh việc ban hành QĐHC, quyết định kỷ luật buộc thôi
việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh
sách cử tri bị khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp. Qua đó, hoạt động quản
lý nhà nước của NBK sẽ được đảm bảo. Đồng thời, NBK có thể củng cố được uy tín
và danh dự của mình trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước.
Một là, đối với hoạt động cung cấp tài liệu, chứng cứ.
Về thuộc tính và nguồn của tài liệu, chứng cứ, các loại giấy tờ, tài liệu mà
NBK có nghĩa vụ giao nộp cho Tòa án như hồ sơ giải quyết khiếu nại (nếu có) và bản
sao các văn bản, tài liệu dùng làm căn cứ ban hành các đối tượng bị khởi kiện19. Cần
lưu ý rằng, chứng cứ phải đáp ứng ba thuộc tính liên quan, khách quan và hợp pháp 20.
Ngoài ra, nguồn của chứng cứ cũng rất đa dạng và phong phú như vật chứng, lời khai
của đương sự, kết luận giám định… Nhìn chung, Luật TTHC năm 2015 đã có sự kế
thừa quy định của Luật TTHC năm 2010 về nguồn của chứng cứ. Tuy nhiên, Luật
TTHC năm 2015 đã có sự bổ sung thêm những nguồn chứng cứ mới như sau: “Tài
liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; vật chứng; lời khai của đương
sự; lời khai của người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định
tại chỗ; kết quả định giá, thẩm định giá tài sản; văn bản xác nhận sự kiện, hành vi

pháp lý do người có chức năng lập; văn bản công chứng, chứng thực; các nguồn
khác theo quy định của pháp luật”. Như vậy, mọi chứng cứ do NBK thu thập, cung
cấp phải thuộc một trong các loại nguồn chứng cứ được liệt kê tại Điều 81 Luật TTHC
Khoản 2 Điều 78 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
Theo quy định tại Điều 80 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), “Chứng cứ trong vụ án
hành chính là những gì có thật được đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tịa án trong q
trình tố tụng hoặc do Tịa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định mà Tòa án sử dụng làm căn cứ để
xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp
pháp”.
19
20


14

năm 2015.
Về thời gian cung cấp tài liệu, chứng cứ, theo quy định tại khoản 4 Điều 83
Luật TTHC năm 2015, thời gian giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân
công giải quyết vụ án ấn định nhưng không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo
thủ tục sơ thẩm. So với Luật TTHC năm 2010, Luật TTHC năm 2015 có những điểm
khác biệt to lớn trong quy định thời gian giao nộp tài liệu, chứng cứ. Bởi lẽ, Luật
TTHC năm 2010 khơng có quy định giới hạn thời gian giao nộp tài liệu, chứng cứ
mà NBK có thể giao nộp ở bất kỳ giai đoạn nào. Với sự thay đổi trên của quy định
pháp luật, có thể thấy các nhà làm luật đang muốn thúc đẩy NBK và các đương sự
trong VAHC nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thu thập, cung cấp tài
liệu, chứng cứ. Từ đó, NBK sẽ thực hiện Q&NV của mình một cách tồn diện, đầy
đủ. Như vậy, Tịa án có thể dựa trên hoạt động này để tạo tiền đề cho việc giải quyết
VAHC được hiệu quả, logic.
Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm21, NBK có thể đưa ra những chứng cứ mới, bổ
sung những chứng cứ đã cung cấp. Theo đó, sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét

xử theo thủ tục sơ thẩm, NBK mới cung cấp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã u cầu
NBK giao nộp trước đó thì NBK phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài
liệu, chứng cứ. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra là nếu NBK không chứng minh được
lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ thì Tịa án có chấp nhận hay không
chấp nhận tài liệu, chứng cứ do họ giao nộp. Song, trên thực tế vấn đề này tồn tại hai
luồng quan điểm như sau: (1) Tòa án không được quyền từ chối những tài liệu, chứng
cứ được giao nộp chậm dù họ không chứng minh được lý do việc chậm giao nộp tài
liệu, chứng cứ. Vì tài liệu, chứng cứ là sự thật của vụ án, tác động đến kết quả của
quá trình giải quyết VAHC của Tịa án; (2) Tịa án khơng chấp nhận những tài liệu,
chứng cứ mà đương sự giao nộp chậm. Vì việc chấp nhận sẽ dẫn đến việc kéo dài
thời gian giải quyết vụ án, cũng như mất cơng sức, chi phí của các đương sự khác
trong vụ án. Để áp dụng thống nhất pháp luật thì Tịa án nhân dân tối cao đã đưa ra
giải thích về vấn đề này tại Cơng văn số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của Tịa
án nhân dân tối cao Giải đáp một số vấn đề TTHC, tố tụng dân sự 22. Theo đó, ở mỗi
Xem thêm: Khoản 2 Điều 133 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
Theo quy định tại đoạn 2 tiểu mục 2 Mục I Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của Tòa án nhân dân tối cao
Giải đáp một số vấn đề tố tụng hành chính, tố tụng dân sự, “Theo quy định tại khoản 2 Điều 133 Luật Tố tụng hành chính,
trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, đương sự mới giao nộp tài liệu, chứng cứ mà
Tịa án đã u cầu giao nộp trước đó thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ. Nếu
lý do chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ là chính đáng thì Hội đồng xét xử chấp nhận việc giao nộp tài liệu, chứng cứ đó.
Nếu đương sự nêu lý do nhưng lý do khơng chính đáng thì Tịa án khơng chấp nhận việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ
đó, nhưng phải lập luận việc không chấp nhận tài liệu, chứng cứ đó trong bản án, quyết định của Tịa án. Tuy nhiên, cần
lưu ý trường hợp tài liệu, chứng cứ đã giao nộp chưa đảm bảo đủ cơ sở để giải quyết vụ án thì Thẩm phán, Hội đồng xét
xử yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc tự mình xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ các
tình tiết của vụ án”.
21
22


15


trường hợp khác nhau, Tòa án sẽ đưa ra nhận định “chấp nhận” hay “không chấp
nhận” việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ. Nhìn chung, việc này phụ thuộc vào ý
chí chủ quan của Tịa án. Ngồi ra, NBK cịn có trách nhiệm phải chứng minh lý do
của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ.
Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm23, Luật TTHC năm 2015 cho phép NBK và
các đương sự trong vụ án bổ sung chứng cứ mới. Bên cạnh đó, Luật TTHC năm 2015
đã bổ sung một số quy định mới như Tòa án cho phép NBK và các đương sự khác
trong vụ án giao nộp tài liệu, chứng cứ24. Những quy định này nhằm tạo điều kiện
cho NBK có thể giao nộp tài liệu, chứng cứ đầy đủ, đảm bảo tính linh hoạt và mở
rộng tối đa thời gian giao nộp tài liệu, chứng cứ cho NBK để bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của họ.
Tại giai đoạn giám đốc thẩm25, NBK chỉ có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ
khi những chứng cứ này chưa được Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm yêu
cầu giao nộp hoặc đã yêu cầu giao nộp nhưng NBK khơng giao nộp được vì có lý do
chính đáng hoặc những tài liệu, chứng cứ mà NBK khơng thể biết được trong q
trình giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, Luật TTHC năm 2015 cũng có quy định về hoạt
động này trong quá trình giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, Tòa án, Viện kiểm
sát có quyền yêu cầu người có đơn bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc tự mình kiểm tra,
xác minh tài liệu, chứng cứ cần thiết.
Về thủ tục cung cấp tài liệu, chứng cứ, theo quy định tại khoản 2, khoản 3
Điều 83 Luật TTHC năm 2015, đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án phải
được lập thành biên bản. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc
điểm của tài liệu, chứng cứ; số bản, số trang của tài liệu, chứng cứ và thời gian nhận;
chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án.
Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ VAHC và một bản giao cho
đương sự nộp tài liệu, chứng cứ giữ. Đương sự giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng
cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng
Việt được cơng chứng, chứng thực hợp pháp. Có thể thấy, thủ tục thực hiện Q&NV
giao nộp tài liệu, chứng cứ của NBK được quy định khá rõ ràng, chi tiết. Quy định

này đã góp phần giúp việc quản lý hồ sơ vụ án của Tòa án được rõ ràng, minh bạch,
tránh làm sai lệch hồ sơ vụ án, thất thốt và hủy hoại chứng cứ. Ngồi ra, để bảo đảm
Xem thêm: Điều 219 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
“Theo Điều 227 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), “1. Đương sự được quyền giao nộp
bổ sung tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm trong những trường hợp sau đây:
a) Những tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do
chính đáng; b) Những tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đương sự khơng
thể biết được trong q trình giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm. 2. Thủ tục giao nộp tài liệu, chứng cứ được thực hiện
theo quy định tại Điều 83 của Luật này”.
25 Xem thêm: Điều 259 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
23
24


16

thuộc tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp của chứng cứ, Điều 90 Luật
TTHC năm 2015 có quy định trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo. Nếu
một trong các bên đương sự là người đưa ra chứng cứ được kết luận là giả mạo thì
phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Quy định trên nhằm loại trừ
những hành vi gây nhiễu cho quá trình giải quyết VAHC cũng như hành vi gây ảnh
hưởng đến uy tín, lợi ích của các đương sự khác.
Hai là, đối với hoạt động chứng minh.
Chứng minh là hoạt động quan trọng, cốt lõi trong q trình giải quyết vụ án.
Theo đó, Điều 9 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Các đương sự có Q&NV chủ động
thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tịa án và chứng minh u cầu của mình là
có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác có Q&NV thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh như
đương sự”. Hầu hết các chủ thể tham gia tố tụng đều phải chứng minh cho u cầu
của họ đưa ra và trình bày trước Tịa án về việc yêu cầu đó là có căn cứ. Đối với

NKK, khi làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc của mình thì NKK có
nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của họ là có căn cứ và hợp pháp. Ngược lại, đối
với NBK thì NBK có nghĩa vụ phải chứng minh tính đúng đắn, hợp pháp của QĐHC,
HVHC bị khởi kiện mà họ đã ban hành trong hoạt động quản lý nhà nước để bác bỏ
lại yêu cầu của NKK. Do đó, nếu NBK muốn bác bỏ yêu cầu của NKK thì NBK phải
cung cấp chứng cứ, chứng minh cho việc bác bỏ đó là có căn cứ và hợp pháp. Với
quy định này, Luật TTHC năm 2015 đã tạo ra sự chủ động, khuyến khích các đương
sự nói chung và NBK nói riêng trong việc cung cấp chứng cứ (quyền), mặt khác tạo
ra cơ chế ràng buộc trách nhiệm của họ khi không chứng minh được yêu cầu của
mình (nghĩa vụ)26.
Theo quy định của Luật TTHC năm 2015, đối tượng chứng minh của NBK là
các đối tượng bị khởi kiện trong VAHC như QĐHC, HVHC… Phạm vi quyền, nghĩa
vụ chứng minh của NBK phụ thuộc vào phạm vi ý kiến phản đối của NBK. Ngồi ra,
Luật TTHC năm 2015 cịn quy định những tình tiết, sự kiện khơng phải chứng minh
tại Điều 79. Chứng minh trong TTHC bao gồm nhiều hoạt động như cung cấp tài liệu,
chứng cứ; xác minh, thu thập chứng cứ; kiểm tra chứng cứ; đánh giá chứng cứ; công
bố và sử dụng chứng cứ... Có thể thấy, hoạt động chứng minh trong TTHC có những
quy định và ý nghĩa khác nhau. Bên cạnh đó, hoạt động chứng minh có sự phối hợp
nhịp nhàng giữa cơ quan THTT, người THTT và người tham gia tố tụng (đặc biệt là
NBK) để bảo đảm một cách tốt nhất cho NBK thực hiện Q&NV của mình trong hoạt
Nguyễn Thị Thu Hân (2014), Hoạt động chứng minh trong tố tụng hành chính, Khố luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.9.
26


17

động chứng minh.
Thứ hai, quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài
liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tịa án

Bên cạnh quyền tự mình thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình thì NBK cịn có quyền u cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình
để giao nộp cho Tòa án27. Lý do pháp luật TTHC quy định cho NBK quyền này là
nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của NBK. Như đã phân
tích ở trên, chứng cứ tồn tại ở rất nhiều nguồn, khơng phải trong mọi trường hợp
NBK đều có thể tự mình thu thập, cung cấp được những tài liệu, chứng cứ cần thiết
và có liên quan đến vụ án. Khi chứng cứ do cơ quan, tổ chức, cá nhân khác lưu trữ,
quản lý, bảo quản thì NBK có quyền yêu cầu họ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho
mình. Quyền này hạn chế tình trạng cố tình khơng cung cấp tài liệu, chứng cứ hoặc
khơng có sự hợp tác từ cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng
cứ có liên quan đến VAHC. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 10 Luật TTHC năm
2015, khi đương sự thực hiện quyền trên thì cơ quan, tổ chức, cá nhân phải có nghĩa
vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự để đương sự giao nộp cho Tịa án.
Nếu họ khơng thực hiện được thì đặt ra trách nhiệm cho họ phải thông báo bằng văn
bản và nêu rõ lý do cho đương sự biết. Đây là một quy định nhằm hỗ trợ cho hoạt
động cung cấp tài liệu, chứng cứ của NBK và các đương sự trong VAHC. Như vậy,
khi có sự phối hợp giữa chủ thể yêu cầu và chủ thể thực hiện thì vấn đề thu thập, cung
cấp tài liệu, chứng cứ sẽ trở nên thuận tiện, dễ dàng hơn28.
Thứ ba, quyền đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án
mà tự mình khơng thể thực hiện được; buộc bên đương sự khác xuất trình tài liệu,
chứng cứ mà họ đang lưu giữ, quản lý; ra quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân
đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ; triệu tập người làm chứng, trưng
cầu giám định, định giá tài sản
Một là, quyền đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án
mà tự mình khơng thể thực hiện được. Theo quy định tại khoản 7 Điều 55 Luật TTHC
năm 2015 cho phép NBK được đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ
của vụ án. Q&NV cung cấp tài liệu, chứng cứ của NBK trong TTHC được đặt trong
mối quan hệ bình đẳng, hỗ trợ lẫn nhau với các chủ thể THTT và chủ thể tham gia tố
tụng khác trong TTHC. Việc thực hiện Q&NV cung cấp tài liệu, chứng cứ của NBK


Khoản 6 Điều 55 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
Lê Thị Thu Nga (2015), Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án
hành chính, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.24.
27
28


18

còn dựa trên trách nhiệm của cơ quan, người THTT và có sự hỗ trợ của các chủ thể
khác29. Trong quá trình thực hiện Q&NV cung cấp tài liệu, chứng cứ, NBK có thể
gặp trở ngại làm cho họ khơng thể tự mình thu thập chứng cứ. Theo đó, Luật TTHC
năm 2015 có quy định cho phép NBK đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu,
chứng cứ. Trong trường hợp này, khoản 2 Điều 93 Luật TTHC năm 2015 đã quy định
NBK phải làm đơn ghi rõ vấn đề cần chứng minh; chứng cứ cần thu thập; lý do vì
sao tự mình khơng thu thập được; họ tên, địa chỉ cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ
chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cần thu thập. Có thể thấy, khi việc thu thập,
cung cấp tài liệu, chứng cứ của NBK gặp khó khăn thì Tịa án có trách nhiệm hỗ trợ
cho NBK, tạo điều kiện cho NBK có thể nhanh chóng tiếp cận tài liệu, chứng cứ mà
Tòa án đã thu thập được. Đây là một trong những quy định thể hiện sự bình đẳng, sự
hỗ trợ giữa chủ thể THTT và chủ thể tham gia tố tụng trong TTHC. Nhìn chung, Luật
TTHC năm 2015 đã đề cao trách nhiệm của các đương sự trong vụ án nói chung và
NBK nói riêng trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ, chứng minh. Đồng thời, quy
định pháp luật trên cũng loại trừ khả năng các đương sự ỷ lại vào Tòa án.
Hai là, quyền đề nghị Tịa án buộc đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ
mà họ đang lưu giữ, quản lý30. Đây là một quy định mới so với Luật TTHC năm 2010,
Luật TTHC năm 2015 ghi nhận “quyền đề nghị Tòa án buộc đương sự khác xuất
trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang lưu giữ, quản lý” là hoàn toàn phù hợp với thực
tiễn xét xử hiện nay, lấp đầy “kẽ hở” của pháp luật TTHC trước đây. Quyền đề nghị

này của đương sự nói chung và NBK nói riêng có ý nghĩa nhất định trong việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Hạn chế việc một chủ thể đang nắm giữ chứng cứ
có liên quan đến vụ án mà cố tình che giấu, khơng giao nộp. Việc thực hiện quyền
trên đã góp phần giúp cho đương sự trong VAHC có trách nhiệm cũng như nghĩa vụ
giao nộp tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý một cách đầy đủ hơn. Nhận
thấy rằng, việc cung cấp cũng như giao nộp tài liệu, chứng cứ sẽ ảnh hưởng đến việc
đưa ra phán quyết cuối cùng của Tòa án.
Ba là, quyền đề nghị Tòa án ra quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân đang
lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ. Theo quy định tại khoản 3 Điều 93
Luật TTHC năm 2015, cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ có trách nhiệm
cung cấp đầy đủ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu. Nếu không
cung cấp được thì họ phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do cho Tòa án. Cùng với
việc ghi nhận quyền, pháp luật cũng đặt ra trách nhiệm đối với cơ quan, tổ chức, cá

Đỗ Minh Thư (2022), Quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của người khởi kiện trong tố tụng hành chính Việt Nam,
Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.18.
30 Khoản 7 Điều 55 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
29


19

nhân được yêu cầu cung cấp chứng cứ. Việc quy định như vậy sẽ giúp cho việc thực
thi trên thực tế diễn ra hiệu quả, nhanh chóng.
Bốn là, quyền đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định
và định giá tài sản được ghi nhận tại khoản 7 Điều 55 Luật TTHC năm 2015. Lý do
NBK được thực hiện các quyền trên là nhằm để việc giải quyết vụ án của Tòa án
được khách quan, hiệu quả. Trong một số trường hợp chỉ thu thập tài liệu, chứng cứ
là chưa đủ, mà cần có sự tham gia của người làm chứng hay thực hiện các hoạt động
trưng cầu giám định, định giá tài sản. Khi đề nghị của NBK được thực hiện thì kết

quả sẽ được thể hiện thông qua biên bản lấy lời khai, kết luận giám định, kết luận
giám định bổ sung, giám định lại, kết quả định giá, thẩm định giá tài sản. Theo đó,
đây chính là nguồn chứng cứ trong VAHC được liệt kê tại Điều 81 Luật TTHC năm
2015. Các hoạt động này mang lại hiệu quả thiết thực không chỉ đối với đương sự mà
còn với cơ quan THTT. Chúng tạo cơ sở pháp lý vững chắc phục vụ cho q trình
giải quyết VAHC của Tịa án được khách quan, nhanh chóng.
Thứ tư, quyền được biết, ghi chép và sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự
khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập
Theo quy định tại khoản 8 Điều 55 Luật TTHC năm 2015, NBK có quyền
“được biết, ghi chép và sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc
do Tịa án thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai theo quy định tại
khoản 2 Điều 96 Luật này”. Có thể hiểu, “được biết” là được Tòa án cho phép tiếp
cận với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và “được ghi chép và sao chụp”, tức
là được tạo ra bản sao của tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tịa
thu thập được. Mỗi đương sự khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHC sẽ cung cấp
các tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Theo đó, nhằm
giúp cho NBK có thể tiếp cận được chứng cứ một cách khách quan, tồn diện, đầy
đủ thì cần có sự tham gia của đương sự trong việc đọc, ghi chép, sao chụp và xem
các tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp. Qua đó, có thể thấy Luật TTHC
năm 2015 đã tạo điều kiện thuận lợi cho NBK trong quá trình giải quyết vụ án, tránh
trường hợp bị động trước những chứng cứ có liên quan dẫn đến khả năng thua kiện,
ảnh hưởng nghiêm trọng đối với quyền và lợi ích chính đáng của họ. Qua đó, NBK
sẽ có cơ hội xem xét, đánh giá chứng cứ cũng như tìm ra bằng chứng nhằm phủ nhận,
bác bỏ quan điểm đối phương31. Tuy nhiên, không phải tài liệu, chứng cứ nào NBK
cũng có quyền được biết, ghi chép và sao chụp như các chứng cứ có liên quan đến bí
mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh
Lê Thị Thu Nga (2015), Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành
chính, Khóa luận tốt nghiệp, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.21.
31



20

doanh, bí mật cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự nhưng phải thông báo
cho đương sự biết những chứng cứ không được công khai32.
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người bị kiện trong việc cấp, tống đạt, thông báo
văn bản tố tụng
Cấp, tống đạt, thông báo VBTT là một hoạt động trong quá trình giải quyết
VAHC. Theo đó, Tịa án, Viện Kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự có nghĩa vụ cấp,
tống đạt hoặc thơng báo VBTT cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến vụ
án33 những văn bản được liệt kê tại Điều 100 Luật TTHC năm 2015. Đồng thời,
những chủ thể nhận được VBTT cũng có Q&NV tương ứng trong hoạt động này.
Chẳng hạn, khoản 12 Điều 55 và khoản 1 Điều 57 Luật TTHC năm 2015 quy định
quyền được nhận thông báo hợp lệ để thực hiện quyền, nghĩa vụ của NBK và các
đương sự khác trong VAHC.
Theo Điều 101 Luật TTHC năm 2015 thì chủ thể có trách nhiệm cấp, tống đạt
cũng như thông báo các VBTT cần thiết đến cho NBK và các đương sự khác trong
VAHC bao gồm: “Người THTT, người của cơ quan ban hành VBTT được giao nhiệm
vụ thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thơng báo VBTT; người có chức năng tống đạt;
UBND cấp xã nơi người tham gia tố tụng cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người
tham gia tố tụng làm việc khi Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan thi hành án dân sự
có yêu cầu; đương sự, người đại diện của đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự trong những trường hợp do Luật này quy định; nhân viên
của tổ chức dịch vụ bưu chính; những người khác theo quy định của pháp luật”. Đây
là những chủ thể có trách nhiệm cấp, tống đạt cũng như thông báo các VBTT cần
thiết đến cho NBK và các đương sự khác trong VAHC. Trước đây, Điều 94 Luật
TTHC năm 2010 có quy định việc người có nghĩa vụ thực hiện hoạt động này nhưng
khơng làm đúng trách nhiệm của mình thì sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự tùy theo tính chất, mức độ vi phạm. Tuy nhiên, hiện
nay Luật TTHC năm 2015 khơng cịn kế thừa quy định trên đối với người có nghĩa

vụ thực hiện nhưng thực hiện khơng đúng trách nhiệm của mình. Có thể thấy, việc
quy định chế tài của Luật TTHC năm 2010 có thể góp phần giúp cho người có nghĩa
vụ thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thơng báo VBTT có tính trách nhiệm cao hơn.
Bên cạnh đó, Điều 104 Luật TTHC năm 2015 cịn quy định về thủ tục cấp,
tống đạt hoặc thông báo VBTT. Việc cấp, tống đạt hoặc thông báo VBTT phải được
thực hiện theo quy định của Luật TTHC năm 2015 mới được xem là hợp pháp. Người
thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo VBTT phải trực tiếp chuyển giao cho
32
33

Khoản 2 Điều 96 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
Xem thêm: Điều 99 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).


×