Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức của toà án nhân dân theo pháp luật tố tụng hành chính việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 84 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC
-----  -----

ĐẶNG THỊ LỆ THUỶ
MSSV: 1953801014226

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN QUYẾT
ĐỊNH KỶ LUẬT BUỘC THƠI VIỆC CƠNG CHỨC
CỦA TỒ ÁN NHÂN DÂN THEO PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khố: 2019-2023

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Hồng Yến

TP.HCM - NĂM 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC
-----  -----

ĐẶNG THỊ LỆ THUỶ
MSSV: 1953801014226

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN QUYẾT
ĐỊNH KỶ LUẬT BUỘC THƠI VIỆC CƠNG CHỨC
CỦA TỒ ÁN NHÂN DÂN THEO PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM



KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khố: 2019-2023

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Hồng Yến

TP.HCM - NĂM 2023


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Thẩm quyền giải quyết
khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thơi việc cơng chức của Tồ án nhân dân theo
pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi thực
hiện dưới sự giúp đỡ của giảng viên hướng dẫn. Các số liệu và thơng tin nêu trong
khóa luận là hồn tồn khách quan và trung thực. Các dữ liệu, luận điểm được trích
dẫn đầy đủ theo đúng quy định.
Tác giả

Đặng Thị Lệ Thuỷ


DANH MỤC VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Viết đầy đủ

1


Pháp lệnh TTGQCVAHC
năm 1996

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính năm 1996

2

Luật TTHC năm 2015

Luật Tố tụng hành chính năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2019)

Luật Cán bộ, công chức

Luật Cán bộ, công chức năm 2008

năm 2008

(sửa đổi, bổ sung năm 2019)

4

TTHC

Tố tụng hành chính

5

CQHC


Cơ quan hành chính

6

VAHC

Vụ án hành chính

7

QĐHC

Quyết định hành chính

8

HVHC

Hành vi hành chính

9

QĐKL

Quyết định kỷ luật

10

QĐKLBTV


Quyết định kỷ luật buộc thơi việc

11

XXHC

Xét xử hành chính

12

HĐXX

Hội đồng xét xử

13

TAND

Toà án nhân dân

14

UBND

Uỷ ban nhân dân

3



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THẨM QUYỀN GIẢI
QUYẾT KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT BUỘC THƠI VIỆC CƠNG
CHỨC CỦA TỒ ÁN NHÂN DÂN ........................................................................ 6
1.1. Những vấn đề lý luận về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ
luật buộc thơi việc cơng chức của Tồ án nhân dân .............................................. 6
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thơi việc
cơng chức của Tịa án nhân dân .............................................................................. 6
1.1.2. Đặc điểm về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi
việc cơng chức của Tồ án nhân dân .................................................................... 11
1.1.3. Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ
luật buộc thôi việc công chức của Toà án nhân dân ............................................. 15
1.1.4. Nội dung thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc
cơng chức của Tịa án nhân dân ............................................................................ 17
1.2. Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công
chức ở một số quốc gia trên thế giới ...................................................................... 21
1.2.1. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc cơng chức thuộc thẩm quyền xét xử hành
chính của Tịa án.................................................................................................... 21
1.2.2. Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thơi việc cơng chức
của Tịa án theo cấp và theo lãnh thổ .................................................................... 23
1.2.3. Thẩm quyền của Toà án đối với khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc
công chức ............................................................................................................... 25
1.3. Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công
chức của Tòa án nhân dân theo pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam ......... 28
1.3.1. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức thuộc thẩm quyền xét xử hành
chính của Tồ án nhân dân ................................................................................... 28
1.3.2. Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cơng chức
của Tồ án nhân dân theo cấp và theo lãnh thổ .................................................... 31
1.3.3. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong giải quyết khiếu kiện quyết

định kỷ luật buộc thôi việc công chức ................................................................... 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 40


CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT BUỘC THÔI VIỆC CÔNG CHỨC
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN ...................................................... 41
2.1. Thực tiễn thực hiện quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết
định kỷ luật buộc thôi việc công chức của Tòa án nhân dân .............................. 41
2.1.1. Thực tiễn thực hiện quy định về quyết định kỷ luật buộc thôi việc cơng chức
thuộc thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án nhân dân .................................. 41
2.1.2. Thực tiễn thực hiện quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định
kỷ luật buộc thơi việc cơng chức của Tồ án theo cấp và theo lãnh thổ ............... 43
2.1.3. Thực tiễn thực hiện quy định về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm đối
với quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức .................................................... 47
2.1.4. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện
quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thơi việc cơng
chức của Tồ án nhân dân ..................................................................................... 51
2.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật thẩm quyền giải quyết khiếu
kiện quyết định kỷ luật buộc thơi việc cơng chức của Tồ án ............................ 60
2.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hành chính về thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thơi việc cơng chức của Tồ án............ 60
2.2.2. Một số giải pháp khác.................................................................................. 66
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 72
KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải cách tư pháp
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng và Nhà nước ta đề ra. Trong Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020, trong đó Nghị quyết đã chỉ rõ: “mở rộng thẩm quyền xét xử của tịa
án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu
kiện hành chính tại tịa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng,
bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước tòa án”. Với chủ
trương trên, việc xác định thẩm quyền của TAND trong việc xét xử các khiếu kiện
hành chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm.
QĐKLBTV công chức là một trong những quyết định liên quan đến việc làm,
vị trí cơng tác nên có ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích của cơng chức. Xuất
phát từ tính chất quan trọng đó, từ Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
năm 1996, QĐKLBTV đã được ghi nhận là một trong các khiếu kiện thuộc thẩm
quyền XXHC của Toà án. Kế thừa và phát huy tinh thần của Pháp lệnh, Luật TTHC
năm 2010 và năm 2015 đã khắc phục được một số điểm bất cập và phát huy được
tinh thần pháp luật so với Pháp lệnh. Có thể thấy rằng cả hai văn bản trên đều tiếp tục
ghi nhận QĐKLBTV công chức là khiếu kiện thuộc thẩm quyền của Toà án theo thủ
tục TTHC. Tuy nhiên, với những sự đổi mới không ngừng, Luật TTHC năm 2015 có
những quy định hợp lý và tiến bộ hơn so với Luật TTHC năm 2010 trong quy định
về thẩm quyền của Toà án đối với khiếu kiện QĐKLBTV nhằm phù hợp với tình hình
thực tiễn.
Thực tiễn xét xử VAHC trong thời gian qua cũng đạt được những kết quả tích
cực góp phần bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Tuy nhiên, hiện
nay một số vụ việc XXHC đối với các QĐKLBTV công chức hiện nay chưa thực sự
đảm bảo, chất lượng giải quyết vụ việc còn thấp, chưa thực sự tạo được sự tin cậy cao
đối với người khởi kiện. Bên cạnh đó, thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy một số quy

định pháp luật về thẩm quyền của Toà án đối với QĐKLBTV chưa mang tính cụ thể
và thống nhất với các quy định khác. Mặt khác, sự hạn chế về trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ của những chủ thể tiến hành tố tụng chưa mang lại hiệu quả trong công tác
xét xử, chưa bảo vệ quyền và lợi ích của những chủ thể là đương sự trong vụ án. Có
thể thấy rằng, việc quy định và thực hiện thẩm quyền giải quyết khiếu kiện
QĐKLBTV của Toà án đang gặp rất nhiều vướng mắc nhưng hiện nay chưa có cơng
trình nghiên cứu trực tiếp, chuyên sâu về vấn đề này. Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ


2

cơ sở lý luận, các quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện quy định về thẩm quyền
giải quyết khiếu kiện QĐKLBTV của Toà án theo Luật TTHC 2015 là rất quan trọng
và cần thiết. Việc nghiên cứu này sẽ góp phần đưa ra những giải pháp hồn thiện
pháp luật, tháo gỡ những bất cập, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn thực hiện thẩm
quyền giải quyết khiếu kiện QĐKLBTV của Tồ án và góp phần nâng cao hiệu quả
xét xử VAHC ở Việt Nam.
Trên cơ sở nhận định và đánh giá trên, tác giả lựa chọn đề tài “Thẩm quyền
giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thơi việc cơng chức của Tồ án nhân
dân theo pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam” làm đề tài khố luận tốt nghiệp
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Sau khi nghiên cứu và tìm hiểu những cơng trình nghiên cứu khoa học liên
quan trong và ngoài trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả nhận thấy
rằng việc nghiên cứu về thẩm quyền của Toà án trong VAHC hiện nay đang được rất
nhiều các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý quan tâm. Trong đó, có một số cơng trình
nghiên cứu chun sâu về thẩm quyền của Tồ án trong XXHC có đề cập đến nội
dung liên quan đến khiếu kiện QĐKLBTV công chức tiêu biểu như:
Về sách chuyên khảo, sách Phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành
chính và thẩm quyền xét xử hành chính ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng,

xuất bản năm 2015. Tác phẩm đã phân tích những vấn đề lý luận chung về thẩm
quyền của Toà án trong xét xử các VAHC. Dựa trên tính kế thừa, tác giả đã sử dụng
để phân tích, đánh giá và so sánh với các hệ thống pháp luật của các quốc gia khác
làm rõ hơn những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
Về cơng trình nghiên cứu khoa học, bao gồm: đề tài “Thẩm quyền xét xử hành
chính của Tồ án nhân dân theo cấp toà án và theo lãnh thổ”, khoá luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Thị Mến Thương
năm 2014; đề tài “Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Toà án nhân
dân cấp huyện”, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
của tác giả Trương Văn Tùng năm 2016; đề tài “Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở
Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Hà
năm 2017; đề tài “Thẩm quyền xét xử hành chính theo cấp lãnh thổ của Tồ án nhân
dân địa phương”, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội của tác giả Nguyễn
Thanh Hải năm 2022 và một số cơng trình khoa học tiêu biểu khác.
Về các bài viết pháp lý khoa học, bài viết “Cải cách hành chính: về khái niệm
thẩm quyền” của tác giả Nguyễn Cửu Việt, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 08 năm
2005; bài viết “Thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính” của tác giả Trần


3

Mạnh Hùng đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề về Luật Tố tụng
hành chính năm 2011; bài viết “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của
Tồ án nhân dân theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015” của tác giả
Nguyễn Thị Hà đăng trên Tạp chí Nghề Luật số 03 năm 2017 và một số bài viết tiêu
biểu khác.
Qua nội dung của các bài viết, cơng trình nghiên cứu trên cho thấy chưa có
một cơng trình nghiên cứu nào phân tích chun sâu và tồn diện về thẩm quyền của
Tồ án đối với khiếu kiện QĐKLBTV cơng chức, các bài viết chỉ mới dừng lại ở việc
phân tích về thẩm quyền của Toà án trong xét xử các VAHC nói chung. Như vậy, cho

đến nay vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu một cách toàn
diện, đầy đủ các quy định của Luật TTHC năm 2015 về thẩm quyền giải quyết khiếu
kiện QĐKLBTV công chức theo pháp luật TTHC Việt Nam cũng như thực tiễn thực
hiện vấn đề này. Tuy nhiên, trên cơ sở kế thừa từ những thành quả khoa học trên, tác
giả sẽ sử dụng các tài liệu trên làm nguồn hướng dẫn nhằm định hướng nghiên cứu
và tiếp tục phát triển các phân mục để làm rõ nội dung đề tài của khoá luận.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đề tài được thực hiện nhằm nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về thẩm
quyền giải quyết khiếu kiện QĐKLBTV của Tồ án, đồng thời phân tích, đánh giá
thực tiễn thực hiện thẩm quyền này theo pháp luật TTHC Việt Nam. Trên cơ sở đánh
giá đó, đề tài đã chỉ ra được những bất cập các quy định của pháp luật, những hạn chế
trong quá trình thực hiện thẩm quyền xét xử của Toà án, đồng thời đề xuất những giải
pháp hoàn thiện các quy định về thẩm quyền của Toà án đối với khiếu kiện
QĐKLBTV nhằm nâng cao chất lượng xét xử VAHC ở Việt Nam.
4. Mục đích của đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài này, tác giả mong muốn làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp lý về thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện QĐKLBTV công chức của TAND. Ngồi ra, tác giả cịn nghiên cứu
quy định pháp luật của một số nước trên thế giới về vấn đề này để tham khảo nhằm
hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHC Việt Nam.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện về thẩm quyền giải quyết khiếu
kiện QĐKLBTV công chức của TAND, từ đó chỉ ra những nguyên nhân, hạn chế về
pháp luật và công tác xét xử của Toà án trên thực tiễn.
Thứ ba, trên cơ sở đánh giá đó, tác giả đưa ra một số giải pháp góp phần hồn
thiện quy định pháp luật TTHC về thẩm quyền của Toà án đối với khiếu kiện
QĐKLBTV để đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng
như hoạt động xét xử của Tòa án.


4


5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, đề tài nghiên cứu về thẩm quyền của Tồ án đối với
khiếu kiện QĐKLBTV cơng chức thơng qua việc phân tích cơ sở lý luận về thẩm
quyền của Toà án bằng việc nêu lên khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nội dung thẩm
quyền giải quyết khiếu kiện của Toà án; các quy định của pháp luật về thẩm quyền
của Toà án đối với QĐKLBTV theo pháp luật TTHC Việt Nam và một số quốc gia
khác trên thế giới, đồng thời đánh giá thực tiễn thực hiện thẩm quyền của Tồ án qua
q trình xét xử các vụ việc cụ thể. Từ những phân tích, đánh giá các nội dung trên
tác giả đã nhìn nhận một cách khách quan về những thành tựu mà Toà án đã đạt được,
phát hiện những hạn chế còn tồn đọng trong các quy định của pháp luật và cơng tác
xét xử của Tồ án, từ đó tác giả đưa ra những giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật
góp phần nâng cao hoạt động XXHC của Tồ án.
Về phạm vi nghiên cứu, trong khn khổ của đề tài, tác giả tập trung nghiên
cứu về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện QĐKLBTV của Toà án qua ba nội dung
trọng tâm sau: (1) QĐKLBTV công chức thuộc thẩm quyền XXHC của Tòa án, (2)
thẩm quyền giải quyết khiếu kiện QĐKLBTV công chức theo cấp và theo lãnh thổ
của Toà án, (3) thẩm quyền quyết định của Tồ án đối với khiếu kiện QĐKLBTV
cơng chức. Bên cạnh đó, tác giả tập trung phân tích các quy định của Luật TTHC năm
2015, có sự phân tích, so sánh với quy định của Luật TTHC năm 2010. Ngoài ra, tác
giả cịn phân tích quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện QĐKLBTV của một
số quốc gia trên thế giới như Trung Quốc, Cộng hoà Pháp, Cộng hoà Liên bang Đức,
Estonia làm tiền đề cho việc so sánh và học hỏi các kinh nghiệm của pháp luật nước
ngoài. Đặc biệt, tác giả đã tiến hành khảo sát các Báo cáo tổng kết cơng tác của ngành
Tồ án qua các năm, tỷ lệ giải quyết vụ án liên quan đến khiếu kiện QĐKLBTV công
chức trên Cổng thông tin điện tử của Toà án nhân dân tối cao từ năm 2017 – 2023 để
đánh giá khách quan về thực tiễn thực hiện thẩm quyền của Toà án.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận
dụng những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện hệ thống pháp luật và

áp dụng pháp luật, đặc biệt là lĩnh vực cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam.
- Phương pháp so sánh được sử dụng nhằm lý giải các vấn đề lý luận, nhìn
nhận những khía cạnh nội dung ở nhiều góc độ khác nhau; so sánh, đối chiếu những
điểm tương đồng và khác biệt giữa các quan điểm lập pháp ở mỗi quốc gia, đồng thời
so sánh những điểm khác nhau giữa các hệ thống pháp luật qua các thời kỳ và các
quy định của hệ thống pháp luật khác có liên quan.


5

- Phương pháp phân tích là phương pháp được sử dụng chủ đạo, xuyên suốt
trong quá trình thực hiện nội dung đề tài, phương pháp này giúp đánh giá cụ thể, làm
sáng tỏ những nội dung và ý nghĩa của các quan điểm lý luận về thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện QĐKLBTV của Toà án, đồng thời giúp làm rõ các quy định của
pháp luật và thực tiễn thực hiện thẩm quyền của Toà án để nhằm đánh giá, đưa ra
những hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện thẩm quyền, từ đó đề xuất những
kiến nghị hồn thiện nhằm nâng cao chất lượng xét xử.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp tổng
hợp được sử dụng nhằm rút ra những nhận xét, đánh giá chung ở từng tiểu mục và
phần kết luận; phương pháp thống kê được sử dụng nhằm mục đích đưa ra bức tranh
tồn diện về kết quả thực hiện thẩm quyền của Toà án, tạo cơ sở khách quan để đánh
giá, phân tích những nội dung chính liên quan đến đề tài; phương pháp lịch sử được
sử dụng để phân tích những quy định của pháp luật tố tụng hành chính qua các mốc
thời gian cụ thể, đánh giá mức độ phù hợp của các quan điểm lập pháp với tình hình,
hồn cảnh cụ thể trong giai đoạn hiện nay.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được trình bày theo bố cục gồm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết

định kỷ luật buộc thơi việc cơng chức của Tồ án nhân dân.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định
kỷ luật buộc thôi việc công chức của Toà án nhân dân theo pháp luật tố tụng hành
chính Việt Nam và kiến nghị hồn thiện.


6

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU
KIỆN QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT BUỘC THÔI VIỆC CƠNG CHỨC CỦA
TỒ ÁN NHÂN DÂN
1.1. Những vấn đề lý luận về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định
kỷ luật buộc thơi việc cơng chức của Tồ án nhân dân
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc
thơi việc cơng chức của Tịa án nhân dân
Theo Hiến pháp năm 2013, Toà án là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo
vệ con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân1. Theo đó, một trong những
thẩm quyền của Toà án trong hệ thống tư pháp có thể kể đến là thẩm quyền xét xử
VAHC. Việc đặt ra vấn đề xem xét các quyết định của CQHC xuất phát từ sự phân
cơng, kiểm sốt giữa các nhánh quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước. Do đó,
việc xác định thẩm quyền xét xử VAHC của Tồ án có vai trị quan trọng trong việc
xác định thẩm quyền, quyền hạn cụ thể của Toà án khi thụ lý, xem xét, giải quyết các
khiếu kiện hành chính của tổ chức, cá nhân. Đồng thời là cơ sở để xác định ranh giới
giữa chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động quyền tư pháp, góp phần làm rõ nét và
cụ thể sự phân công thực thi quyền lực nhà nước của các cơ quan trong tổ chức bộ
máy nhà nước2. Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện QĐKLBTV công chức là một
trong những thẩm quyền của Toà án trong việc xét xử VAHC. Việc xác định thẩm

quyền giải quyết khiếu kiện QĐKLBTV công chức sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc xác
định quyền hạn, nhiệm vụ của Toà án trong q trình giải quyết vụ án.
Có thể nói, “thẩm quyền” là một trong những khái niệm quan trọng, là trung
tâm của khoa học pháp lý, khơng có một thuật ngữ nào được sử dụng phổ biến trong
pháp luật như thuật ngữ thẩm quyền3. Theo đó, thẩm quyền của mỗi tổ chức, cá nhân
được pháp luật trao quyền cho từng chủ thể là khác nhau, tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực
hoạt động, ngành hoạt động mà các chủ thể có quyền hạn nhất định và tuỳ vào đó mà
thẩm quyền cũng sẽ được thể hiện dưới nhiều cách thức khác nhau.

Khoản 1 và khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.
Nguyễn Thanh Bình (2003), Thẩm quyền của Tồ án nhân dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành
chính, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.29-30.
3
Nguyễn Cửu Việt (2005), “Cải cách hành chính: về khái niệm thẩm quyền”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
(số 08), tr.40.
1
2


7

Theo từ điển Hán Việt, thẩm quyền có nghĩa là “được quyền xét đốn định
đoạt một việc gì đó”4. Cịn theo từ điển tiếng Việt, thẩm quyền có nghĩa là “quyền
xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật”5. Thuật ngữ thẩm quyền
theo cách giải thích của một số tác giả nước ta hiện nay có phần tương đồng và có
những điểm khác biệt nhất định so với các thuật ngữ nước ngoài. Theo từ điển
“Black’s Law Dictionary” người ta dùng thuật ngữ “authority” hoặc “competence”
dùng để chỉ thẩm quyền nói chung của tất cả các cơ quan, theo đó thuật ngữ được sử
dụng trên được hiểu là quyền hạn, quyền được phép hành động hoặc được uỷ quyền
cho người đại diện được phép thực hiện hay khả năng làm một điều gì đó cơ bản và

tối thiểu của cơ quan công quyền (thường là cơ quan hành chính) để xem xét và giải
quyết việc gì đó theo pháp luật6. Bên cạnh đó, thuật ngữ “jurisdiction” được sử dụng
để chỉ thẩm quyền hoặc quyền tài phán của Tòa án (cơ quan tư pháp) trong phạm vi
lãnh thổ nhất định7. Tương tự, thuật ngữ pháp lý thẩm quyền trong tiếng pháp,
“autorisé” có nghĩa là có thẩm quyền8, “juridiction” mang nghĩa là thẩm quyền xét
xử, phạm vi xét xử của toà án9. Trong từ điển pháp luật của Nhật Bản có thuật ngữ
“Kengen” cũng dùng để chỉ thẩm quyền. Trong đó “Ken” là quyền để xem xét, giải
quyết vụ việc; “Gen” là sự giới hạn, có nghĩa là sự giới hạn quyền lực được trao để
xem xét, giải quyết một vụ việc nào đó theo quy định của pháp luật; thuật ngữ
“Saibanken” được sử dụng để chỉ thẩm quyền của toà án và “Kankatsu ken” để chỉ
thẩm quyền quản lý hành chính10. Như vậy, có thể nhận thấy rằng, mặc dù cách sử
dụng thuật ngữ ở các quốc gia có phần khác biệt nhưng nhìn chung nội hàm thuật ngữ
thẩm quyền mà các quốc gia sử dụng đều hướng đến khả năng thực hiện quyền xem
xét, giải quyết vụ việc của cơ quan công quyền.
Trên phương diện pháp lý, khái niệm thẩm quyền được nhiều tác giả định
nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau, cụ thể như sau: thẩm quyền có nghĩa là tổng hợp
các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống
bộ máy nhà nước do pháp luật quy định11. Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Cửu
Việt: “Thẩm quyền là một khái niệm tập hợp, là tổng hợp những quyền và nghĩa vụ
chung để thực hiện những chức năng nhất định và quyền hạn cụ thể để thực hiện
Bửu Kế (1999), Từ điển Hán – Việt từ ngun, Nxb Thuận Hố, tr.1996.
Hồng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học,
Hà Nội – Đà Nẵng, tr.922.
6
Bryan A. Garner (2001), Black’s Law Dictionary, Nxb Oxford, tr.53 và tr.119.
7
Bryan A. Garner (2001), Black’s Law Dictionary, Nxb Oxford, tr.383.
8
Trung tâm khoa học và xã hội và nhân văn quốc gia – Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Pháp – Việt, Nxb Tp.HCM,
tr.140.

9
Trung tâm khoa học và xã hội và nhân văn quốc gia – Viện Ngôn ngữ học, tlđd (8), tr.988.
10
English- Japanese Dictionary and handbook (1995), Nxb Cassell, tr.288.
11
Nguyễn Hữu Quỳnh (1999), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.459.
4
5


8

những quyền và nghĩa vụ chung đó”12. Theo Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt
Nam của trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng: “Thẩm quyền là khả năng của chủ
thể trong việc xem xét và giải quyết hay định đoạt cơng việc nào đó trên cơ sở các
chuẩn mực pháp luật đã định trước”. Nói một cách khái quát, thẩm quyền là quyền
hạn pháp luật quy định cho cơ quan công quyền và công chức giữ chức vụ nhà nước
nhất định”13. Theo tác giả Nguyễn Văn Huyên, “thẩm quyền là tổng hợp tất cả các
quyền mà pháp luật quy định cho một tổ chức hoặc một cán bộ, công chức nhà nước
được thực hiện công việc trong các lĩnh vực và phạm vi nhất định”14. Một quan điểm
của tác giả khác về khái niệm của thẩm quyền như sau: “thẩm quyền là tổng hợp các
quyền mà pháp luật quy định cho một cơ quan, tổ chức hoặc một công chức được
xem xét giải quyết những công việc cụ thể trong lĩnh vực và phạm vi nhất định nhằm
thực hiện chức năng của bộ máy nhà nước”15.
Như vậy, qua những cách giải thích về thuật ngữ thẩm quyền của các cơng
trình khoa học trên, tác giả thấy rằng khái niệm về thẩm quyền hiện nay được phân
chia thành hai quan điểm: (i) Một là, khái niệm thẩm quyền được hiểu có nội dung là
“quyền”; (ii) Hai là, khái niệm thẩm quyền được hiểu dưới nội dung là “quyền và
nghĩa vụ” (hay còn được gọi là quyền và trách nhiệm). Theo quan điểm của tác giả,
tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi lẽ “quyền” là một thuật ngữ pháp lý có

thể được hiểu rằng khi một cơ quan, chủ thể có thẩm quyền được pháp luật trao quyền
thực hiện cơng vụ, nhiệm vụ thì họ sẽ có quyền quyết định, giải quyết một vấn đề cụ
thể và quyền quyết định này được giới hạn trong phạm vi, lĩnh vực nhất định – đó
được gọi là quyền hạn. Vì vậy, có thể hiểu rằng nội hàm của nội dung “quyền” được
hiểu một cách khái quát là quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
Bên cạnh thực hiện những quyền hạn đó chủ thể có thẩm quyền phải thực hiện những
yêu cầu mà pháp luật đề ra, đây được xem là nghĩa vụ mà họ phải thực hiện. Từ những
lập luận trên, tác giả khái quát hoá về khái niệm thẩm quyền như sau: “Thẩm quyền
là quyền và nghĩa vụ của một chủ thể được pháp luật trao quyền, cho phép thực hiện
các chức năng, quyền hạn nhất định theo quy định của pháp luật”.
Thẩm quyền của Toà án là một trong những thẩm quyền riêng biệt. Theo Điều
102 Hiến pháp 2013 quy định TAND là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp.
Nguyễn Cửu Việt, Tập bài giảng những vấn đề cơ bản về khoa học lý luận quản lý nhà nước, tr.24. (Trích
từ Lê Thị Thảo (2015), khóa luận tốt nghiệp “Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hành chính của Tịa án
nhân dân”, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh).
13
Hoàng Văn Sao, Nguyễn Phúc Thành (đồng chủ biên) (2014), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam,
Nxb Cơng an nhân dân, Đại học Luật Hà Nội, tr.86-87.
14
Nguyễn Văn Huyên (2003), Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.12.
15
Lê Thị Hà (2005), Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Toà án ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.12.
12


9

Theo quy định trên, có thể thấy thẩm quyền của Toà án là chức năng chuyên biệt,

khác với chức năng của những cơ quan khác. Theo quan điểm của một vài tác giả
khoa học cho rằng: “Thẩm quyền của Toà án là quyền xem xét giải quyết các vụ việc
và quyền ra các quyết định giải quyết vụ án hành chính”16. Theo tác giả Nguyễn Đức
Mai: “Thẩm quyền của Tồ án là một thể thống nhất bao gồm hai yếu tố có liên quan
chặt chẽ với nhau đó là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung. Thẩm
quyền về hình thức được thể hiện ở quyền hạn xem xét và phạm vi xem xét của Toà
án (thẩm quyền xét xử và phạm vi xét xử), còn thẩm quyền về nội dung thể hiện ở
quyền hạn giải quyết, quyết định của Toà án đối với những vấn đề đã được xem xét”17.
Theo quan điểm của tác giả Vũ Thị Hương, thẩm quyền của Toà án được định nghĩa
là quyền năng pháp lý của Toà án (quyền lực tư pháp, quyền tài phán của quốc gia)
được xác định theo quy định của pháp luật quốc gia hoặc điều ước quốc tế có quyền
xem xét thụ lý, giải quyết các vụ việc bằng một quyết định hoặc bản án của Tồ án
theo trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng18.
Nhìn chung, mặc dù dưới góc độ quan điểm của các tác giả thì khái niệm thẩm
quyền của Tồ án được định nghĩa dưới nhiều dạng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau
nhưng tựu chung lại thì khái niệm thẩm quyền của Toà án bao hàm cả hai yếu tố là
thẩm quyền xem xét và quyền hạn của Toà án, trong đó quyền hạn của Tồ án được
hiểu là quyền quyết định của Tồ án trong q trình tiến hành tố tụng. Việc trao quyền
xét xử đồng thời trao quyền quyết định cho toà án để toà án căn cứ vào những vụ việc
cụ thể mà có thể ra các phán quyết, quyết định mang tính chất giải quyết vụ án đảm
bảo cho công tác tố tụng được diễn ra một cách thuận lợi và có hiệu quả. Từ những
phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm về thẩm quyền của Toà án như sau: “Thẩm
quyền của Toà án là quyền xét xử và quyền quyết định giải quyết những vấn đề liên
quan đến vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án theo quy định của pháp luật
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức”.
Trong phạm vi thẩm quyền, Toà án có thẩm quyền giải quyết các vấn đề phát
sinh tranh chấp của các chủ thể trong các mối quan hệ xã hội. Theo đó, thẩm quyền
của Tồ án trong lĩnh vực hành chính là thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành
chính. Thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính được các tác giả thể hiện
dưới nhiều khía cạnh khác nhau, cụ thể: theo tác giả Nguyễn Thanh Bình thì thẩm

Lê Thị Bích Chi (2013), Tập bài giảng Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội ,
tr.59-60.
17
Nguyễn Đức Mai (1993), “Về thẩm quyền của Tồ án cấp phúc thẩm”, Tạp chí Tồ án nhân dân, Toà án
nhân dân Tối cao, (số 08), tr.2.
18
Vũ Thị Hương (2020), Thẩm quyền của Toà án Việt Nam đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại có yếu
tố nước ngoài trong mối tương quan với pháp luật một số quốc gia trên thế giới, Luận án Tiến sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà nội, tr.49.
16


10

quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tồ án được hiểu là quyền hạn, trách
nhiệm, được nhân danh quyền lực nhà nước trong phạm vi chức năng của mình, Toà
án tiến hành việc xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp của các QĐHC,
HVHC bị khởi kiện theo trình tự, thủ tục (tố tụng) do pháp luật quy định nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức; góp phần nâng cao hiệu lực hành
pháp19. Đồng quan điểm với tác giả trên, tác giả Trần Mạnh Hùng cũng đưa ra khái
niệm về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính như sau: “Thẩm quyền xét xử
hành chính (hay cịn gọi là thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính, giải quyết khiếu
kiện hành chính) được hiểu là việc tồ án (cơ quan tư pháp, cơ quan tài phán) trong
phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình nhân danh quyền lực nhà nước
tiến hành việc xem xét đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp của các quyết định
hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện theo trình tự, thủ tục tố tụng do pháp luật
quy định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức, góp phần nâng
cao hiệu lực hành pháp”20. Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Mạnh Hùng cũng đưa ra khái
niệm về thẩm quyền XXHC như sau: “Thẩm quyền xét xử hành chính có thể được
hiểu là phạm vi thực hiện quyền tư pháp của Toà án, được pháp luật tố tụng hành

chính quy định để giải quyết các tranh chấp hành chính theo thủ tục tố tụng hành
chính”21. Theo quan điểm của các tác giả trên có thể hiểu rằng thẩm quyền giải quyết
khiếu kiện hành chính chỉ thuộc về Tồ án, chỉ có Tồ án mới thực hiện được quyền
xét xử các khiếu kiện hành chính, bên cạnh đó thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành
chính cũng chỉ dừng lại ở việc xem xét, đánh giá về tính hợp pháp của các khiếu kiện.
QĐKLBTV công chức là một trong những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án theo thủ tục TTHC. Việc quy định loại việc này là một trong những
đối tượng được quyền khởi kiện VAHC điều này có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động
quản lý tổ chức bộ máy nhà nước, góp phần kiểm soát các hoạt động của CQHC, kịp
thời phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm của những chủ thể có thẩm quyền
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của cơng chức.
Do đó, từ những phân tích trên tác giả đưa ra khái niệm về thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện QĐKLBTV của TAND như sau: “Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện
quyết định kỷ luật buộc thôi việc cơng chức là quyền hạn, trách nhiệm của Tồ án

Nguyễn Thanh Bình (2004), Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tồ án – Sự bảo đảm cơng lý
trong quan hệ giữa nhà nước và công dân, Nxb Tư pháp, tr.48.
20
Trần Mạnh Hùng (2011), “Thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính”, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật, (Số chuyên đề về Luật Tố tụng hành chính), tr.17.
21
Nguyễn Mạnh Hùng (2015), Phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử
hành chính ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, tr.57.
19


11

được tiến hành xem xét, đánh giá và đưa ra phán quyết nhằm giải quyết vụ án theo
quy định của pháp luật tố tụng hành chính”.

Từ phần khái quát trên, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật
buộc thôi việc công chức của TAND được thể hiện dưới 03 nội dung sau: (1)
QĐKLBTV công chức thuộc thẩm quyền XXHC của Tòa án, (2) thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện QĐKLBTV cơng chức của Tồ án theo cấp và theo lãnh thổ, (3)
thẩm quyền quyết định của Toà án đối với khiếu kiện QĐKLBTV công chức.
1.1.2. Đặc điểm về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc
thôi việc cơng chức của Tồ án nhân dân
Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cơng chức
của Tồ án nhân dân có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc
công chức được xác định trên cơ sở chức năng xét xử hành chính của Tòa án
Mọi hoạt động trong đời sống xã hội đều chịu sự quản lý của hệ thống các
CQHC nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Theo đó, những chủ thể có thẩm
quyền là các cán bộ, cơng chức trực tiếp thực hiện quyền hành pháp để quản lý, tổ
chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, cơ quan
quản lý hành chính là cơ quan trực tiếp làm việc với nhân dân, trực tiếp xử lý những
công việc hàng ngày của công dân khi có yêu cầu, thực hiện những hoạt động, kế
hoạch nhằm xây dựng và đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, từng bước nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của người dân. Mặc dù những chủ thể có thẩm quyền được
phép sử dụng quyền lực nhà nước để thực hiện nhưng mọi hoạt động của các cơ quan
này đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật và phải chịu sự giám sát của nhân
dân, sự kiểm soát của các cơ quan thuộc hai nhánh quyền lực còn lại là quyền lập
pháp và tư pháp. Như vậy, nếu như quyền hành pháp được xác định là phương diện
tất yếu mà chủ thể quản lý được sử dụng để xác lập, duy trì và bảo vệ trật tự quản lý
phù hợp với lợi ích của Nhà nước thì khiếu kiện hành chính cần được xác định là
quyền tất yếu mà đối tượng quản lý được sử dụng để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của họ trước sự xâm phạm thực thi quyền hành pháp. Hay nói cách khác, việc
quy định và bảo đảm thực hiện quyền khiếu kiện hành chính là yêu cầu tất yếu để bảo
đảm sự cân bằng giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của Nhân dân, giữa quyền lực
nhà nước và quyền tự chủ của Nhân dân22. Do đó, nếu trong q trình các chủ thể có

thẩm quyền thực thi quyền hành pháp gây ra những hạn chế, sai sót hay bất cứ một
lý do nào khác trong quá trình ban hành các quyết định, thực hiện hành vi gây ảnh
Nguyễn Mạnh Hùng (2015), Phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử
hành chính ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, tr.14-15.
22


12

hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc đối
tượng quản lý điều này có khả năng sẽ dẫn đến sự phản kháng, đòi quyền lợi của các
chủ thể bị tác động bởi các QĐHC từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Xuất phát từ
sự xung đột về lợi ích giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi bị tác động bởi các
QĐHC, HVHC của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của các chủ thể bị xâm phạm, với tư cách là một cơ quan tư pháp, Tồ án có trách
nhiệm xem xét, giải quyết những vấn đề trong xã hội nhằm đảm bảo quyền công dân,
đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị tác động bởi các quyết định
của cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền. Do đó, Tồ án có chức năng XXHC
để thực hiện những quyền hạn của mình trong việc ra quyết định giải quyết những vụ
việc hành chính để đảm bảo cho hoạt động quản lý hành chính của nhà nước được
thực thi một cách có hiệu quả trên thực tế, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của người dân. Như vậy, có thể nói rằng thẩm quyền XXHC của Toà án chỉ
được xác định đối với các tranh chấp hành chính khi có sự xung đột về mặt lợi ích
giữa chủ thể quản lý (cơ quan, người có thẩm quyền đại diện quyền lực nhà nước) và
đối tượng quản lý hành chính nhà nước (cơ quan, tổ chức, cá nhân). Tuy nhiên, thẩm
quyền này không được thực hiện một cách vô điều kiện mà phải dựa trên cơ sở có
yêu cầu khởi kiện của người có quyền, lợi ích bị xâm phạm và mọi quyết định của
Toà án đều phải được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Quyết định kỷ luật là một trong những quyết định của cơ quan quản lý hành
chính ban hành trong việc thực hiện quyền quản lý, tổ chức cán bộ trong cơ quan, tổ

chức đó. Trong khoa học pháp lý, QĐKL là quyết định bằng văn bản của người đứng
đầu cơ quan, tổ chức áp dụng một trong các hình thức kỷ luật đối với cán bộ, cơng
chức thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức23. Đối với cụm từ “buộc thơi việc” được hiểu là hình thức xử lý kỷ luật nặng
nhất đối với cán bộ, cơng chức; người có thẩm quyền ra quyết định không cho cán
bộ, công chức tiếp tục làm việc trong cơ quan nhà nước do vi phạm kỷ luật lao động,
do cố ý hay thiếu tinh thần trách nhiệm24. Theo quy định của pháp luật hình thức buộc
thơi việc là hình thức kỷ luật cao nhất đối với công chức được quy định tại Điều 79
Luật Cán bộ, cơng chức năm 2008, theo đó buộc thôi việc được hiểu là cho thôi giữ
chức vụ, công việc đang đảm nhiệm. Như vậy, có thể thấy rằng QĐKLBTV có ảnh
hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng chức. Bên cạnh đó, cơng chức
cũng là một cơng dân cũng có quyền thực hiện các quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi

23
24

Nguyễn Ngọc Điệp (2020), Từ điển pháp luật Việt Nam, Nxb Thế giới, tr.343.
Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa – Tư pháp, tr.87.


13

ích chính đáng của mình, một trong những quyền mà cơng chức có thể thực hiện đó
là quyền khởi kiện QĐKLBTV ra Toà án theo thủ tục TTHC.
Thứ hai, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thơi việc
cơng chức của Tịa án được thực hiện trực tiếp thông qua người tiến hành tố tụng
Pháp luật quy định cho phép Tồ án có thẩm quyền giải quyết đối với
QĐKLBTV cơng chức. Theo đó, chủ thể giải quyết khiếu kiện QĐKLBTV công chức
là những chủ thể được pháp luật trao quyền thực hiện các hoạt động xét xử, nhân
danh Nhà nước ra các phán quyết có giá trị ràng buộc giữa các bên. Khi một vụ việc

thuộc thẩm quyền giải quyết của Tồ án thì lúc này chỉ những người được pháp luật
trao quyền mới được tiến hành các hoạt động tố tụng từ quá trình khởi kiện và thụ lý
vụ án đến giai đoạn ra quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật đều phải tuân thủ các
quy định của pháp luật TTHC. Mọi quyết định trong hoạt động tố tụng của Toà án
được thể hiện trực tiếp thông qua người tiến hành tố tụng. Những chủ thể có thẩm
quyền tiến hành tố tụng bao gồm: Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án; Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra
viên25. Theo đó, ở giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án QĐKLBTV công chức thẩm
quyền chỉ thuộc về Thẩm phán được phân công xem xét đơn khởi kiện, thẩm phán có
quyền ra các quyết định đưa vụ án ra xét xử nếu đơn khởi kiện đáp ứng các điều kiện
về thời hiệu khởi kiện, loại việc thuộc thẩm quyền của Toà án hoặc ra quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện nếu thuộc một trong các trường hợp trả
lại đơn khởi kiện được quy định tại Điều 123 Luật TTHC năm 2015. Cịn tại phiên
tồ thẩm quyền được thực hiện thơng qua HĐXX, trong đó bao gồm Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân, các chủ thể này sẽ trực tiếp thực hiện các hoạt động tố tụng nhằm
đánh giá tính hợp pháp của QĐKLBTV từ đó đưa ra quyết định giải quyết các yêu
cầu của người khởi kiện.
Thứ ba, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thơi việc
cơng chức của Tịa án nhân dân được thực hiện theo thủ tục tố tụng hành chính
Hoạt động hành chính nhà nước là hoạt động có phạm vi rất rộng, bao gồm
hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, không phải tranh chấp nào trong
lĩnh vực hành chính nhà nước cũng đều thuộc thẩm quyền xem xét, giải quyết của
Toà án mà chỉ những hoạt động hành chính trong một số lĩnh vực nhất định được
Luật TTHC quy định thì mới thuộc thẩm quyền của Tồ án, các hoạt động cịn lại
khơng được quy định theo Luật TTHC thì sẽ khơng được Toà án thụ lý26. Việc pháp
Khoản 2 Điều 36 Luật TTHC năm 2015.
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.90 - 91.
25
26



14

luật chỉ cho phép Tồ án có sự tác động đến hoạt động quản lý hành chính ở một
chừng mực nhất định, trong một số trường hợp cụ thể nhằm mục đích giới hạn phạm
vi thẩm quyền, đảm bảo hoạt động xét xử của Toà án được thực hiện thống nhất với
quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, đồng thời phù hợp với tình hình phát triển
của nước ta hiện nay.
Theo quy định tại Điều 30 Luật TTHC năm 2015 quy định các khiếu kiện
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tồ án. Trong đó, pháp luật đã loại trừ các quyết
định thuộc thẩm quyền nội bộ của CQHC và các quyết định thuộc phạm vi bí mật nhà
nước. Điều này, nhằm đảm bảo cho việc thực hiện thẩm quyền của Tồ án tn thủ
các ngun tắc khơng xâm phạm quyền hạn của cơ quan hành pháp và bảo đảm các
vấn đề thuộc bí mật của quốc gia. Tuy nhiên, QĐKLBTV công chức là một trong
những khiếu kiện thuộc thẩm quyền của Toà án được ghi nhận tại khoản 2 Điều 30
Luật TTHC năm 2015. Về nguyên tắc thì các QĐKL của CQHC khơng được quyền
khởi kiện ra Tồ án vì các quyết định này được xem là quyết định trong nội bộ cơ
quan thuộc phạm vi loại trừ thẩm quyền của Toà án theo khoản 1 Điều 30 Luật TTHC.
Tuy nhiên, pháp luật lại quy định Toà án có thẩm quyền xét xử đối với QĐKLBTV,
điều này có thể giải thích rằng xuất phát từ lý do hậu quả pháp lý của quyết định này
là công chức bị kỷ luật khơng cịn là đối tượng áp dụng của quy chế cơng vụ, khơng
cịn là người đảm nhiệm cơng vụ, chức vụ của cơng chức. Vì vậy, việc kỷ luật buộc
thơi việc cơng chức khơng cịn là cơng việc nội bộ của cơ quan, tổ chức ban hành
quyết định27. Bên cạnh đó, quyết định này có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình làm
việc và quyền lợi lao động của công chức với tư cách là cá nhân. Do vậy, pháp luật
TTHC quy định khiếu kiện QĐKLBTV công chức thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án là hoàn toàn hợp lý.
Thứ tư, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thơi việc là
quyền hạn của Tồ án được phép thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án

Quyền hạn của Toà án trong XXHC là quyền quyết định của chủ thể có thẩm
quyền trong q trình tiến hành tố tụng. Theo đó, để một QĐKLBTV thuộc thẩm
quyền XXHC trước hết quyết định này phải đảm bảo các điều kiện để được xem là
loại khiếu kiện thuộc thẩm quyền của Toà án theo quy định của Luật TTHC. Sau khi
xác định đối tượng khởi kiện là QĐKLBTV thuộc thẩm quyền XXHC, Toà án phải
căn cứ vào các quy định của pháp luật để xác định khiếu kiện này có thuộc thẩm
quyền theo cấp, lãnh thổ của cơ quan mình hay khơng. Trường hợp nếu thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan mình thì Tồ án phải tiến hành thụ lý giải quyết vụ án
Nguyễn Mạnh Hùng (2013), Phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử
hành chính ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.89.
27


15

theo quy định của pháp luật TTHC. Nếu vụ án được đưa ra xét xử theo thủ tục sơ
thẩm thì thẩm quyền của Toà án lúc này được thực hiện qua những chủ thể tiến hành
tố tụng tại phiên toà. Trên cơ sở đánh giá, xem xét tính hợp pháp của quyết định và
yêu cầu khởi kiện của công chức, HĐXX sơ thẩm sẽ đưa ra phán quyết cuối cùng để
giải quyết vụ án. Có thể nói rằng, mọi quyết định của Tồ án đưa ra trong q trình
xét xử đều nằm trong giới hạn được pháp luật cho phép. Việc đặt ra yêu cầu tuân thủ
các quy định pháp luật nhằm mục đích đảm bảo thẩm quyền của Tồ án được thực
hiện có hiệu quả, tránh tình trạng vượt quá thẩm quyền làm ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của các đương sự khác trong vụ án.
1.1.3. Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết
định kỷ luật buộc thôi việc công chức của Toà án nhân dân
Thứ nhất, đối với Toà án
Việc xác định rõ đối tượng QĐKLBTV công chức là cơ sở để xác định vụ việc
đó có thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án theo thủ tục TTHC hay khơng. Theo đó,
việc xác định thẩm quyền của Tồ án là cơ sở rất quan trọng để thực hiện các bước

về thụ lý vụ án, trong trường hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục
TTHC thì Tồ án phải trả lại đơn khởi kiện hoặc chuyển vụ án cho Tồ án có thẩm
quyền để thụ lý giải quyết, đảm bảo vụ việc được nhanh chóng đưa ra xét xử. Việc
xác định đúng thẩm quyền của Tồ án cịn tạo cơ sở cho việc áp dụng các thủ tục tố
tụng để giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác và đúng pháp luật. Đây có
thể được xem là bước “khởi đầu” để xác định, thực hiện các hành vi tố tụng kế tiếp
trong quá trình giải quyết vụ án.
Có thể thấy rằng, việc xác định đúng thẩm quyền giải quyết khiếu kiện
QĐKLBTV công chức là cơ sở để xác định quyền hạn của Toà án một cách rõ ràng,
chuẩn xác khi giải quyết các vụ án trên thực tế, xác định thẩm quyền của Toà án càng
rõ ràng, khoa học bao nhiêu thì sẽ thúc đẩy cho việc giải quyết khiếu kiện của Tòa án
càng nhanh gọn và chính xác bấy nhiêu. Khi người khởi kiện yêu cầu Tồ án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, việc đầu tiên cần phải xác định là Toà án nào có thẩm
quyền giải quyết, điều này sẽ tạo cơ sở để giải quyết các yêu cầu của người khởi kiện,
đảm bảo cho các hoạt động tố tụng được giải quyết một cách khách quan, rút ngắn
thời gian, công sức, giảm tải cơng việc cho Tồ án. Đồng thời, tạo hiệu quả cho hoạt
động tố tụng của Toà án, tránh các tình trạng vụ án bị đình chỉ hoặc bản án, quyết
định của Tịa án bị hủy và đình chỉ giải quyết vụ án.
Thứ hai, đối với công chức bị kỷ luật buộc thôi việc
“Khởi kiện VAHC của cá nhân, tổ chức được nhìn nhận là phương tiện hữu
hiệu để tự bảo vệ mình và việc thực hiện quyền này mang đậm nét chủ quan, có quan


16

hệ mật thiết với trình độ nhận thức, trạng thái tâm lý, động cơ, mục đích của cá nhân
trực tiếp thực hiện việc khởi kiện VAHC”28. Do đó, việc xây dựng thẩm quyền của
Tồ án đối với QĐKLBTV cơng chức có ý nghĩa rất lớn trong việc giúp cơng chức
có thể thực hiện quyền khởi kiện của mình để yêu cầu Toà án bảo vệ trước những
quyền lợi bị xâm phạm. Đây được xem là cơ sở để công chức bị kỷ luật buộc thôi

việc thực hiện quyền khởi kiện của mình theo đúng loại việc, đúng Tồ án có thẩm
quyền, tránh vi phạm các điều kiện khởi kiện, tránh được những hậu quả bất lợi cho
người khởi kiện khi khơng xác định được Tồ án nào có thẩm quyền giải quyết, có
khả năng sẽ mất quyền khởi kiện vì hết thời hiệu khởi kiện.
Bên cạnh đó, việc xác định thẩm quyền của Tồ án đối với QĐKLBTV cơng
chức sẽ tạo cơ sở pháp lý để cơng chức có thể xem xét lựa chọn phương thức giải
quyết tranh chấp hành chính phù hợp với trường hợp của mình. Ngồi phương thức
khởi kiện VAHC hiện nay, đối tượng QĐKLBTV công chức cịn có thể được thực
hiện thơng qua con đường khiếu nại hành chính đến cơ quan cấp trên trực tiếp. Do
vậy, việc xác định thẩm quyền của Toà một cách tồn diện sẽ giúp cho cá nhân cơng
chức có thể lựa chọn phương thức phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, khả năng của
người khởi kiện.
Để thực hiện tốt quyền khởi kiện của chính mình, trước hết người khởi kiện
phải xác định được vụ việc của mình thuộc loại việc gì, Tồ án nào có thẩm quyền
thụ lý, như vậy muốn để người khởi kiện có thể xác định được những điều trên thì
pháp luật cần có sự rõ ràng, cụ thể trong việc xây dựng các quy định của pháp luật về
thẩm quyền. Có như thế thì người dân mới có thể xác định được một cách chính xác
về thẩm quyền của Toà án để thực hiện quyền yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chính mình.
Thứ ba, đối với hoạt động quản lý nhà nước
Việc xác định đúng thẩm quyền của Toà án đối với QĐKLBTV cơng chức
khơng những góp phần tạo ý nghĩa đối với Tồ án, người khởi kiện mà cịn góp phần
đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước được diễn ra hiệu quả. Việc xác định sai
thẩm quyền có khả năng sẽ dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng có thể kể đến là
trường hợp Toà án vi phạm nghiêm trọng các thủ tục tố tụng dẫn đến những bản án,
quyết định của Tồ án có thể phải bị huỷ, xét xử lại. Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hoạt động quản lý của nhà nước, dẫn đến sự bất mãn, mất lịng tin từ phía
người dân đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chính vì thế, việc xác định đúng
thẩm quyền của Toà án sẽ mang lại hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước.
Hoàng Văn Sao, Nguyễn Phúc Thành (đồng chủ biên) (2014), Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam,

Trường Đại học Luật Hà nội, Nxb Công an nhân dân, tr.218.
28


17

Việc xác định thẩm quyền của Tồ án cịn tồn tại một ý nghĩa quan trọng đến
tổ chức bộ máy nhà nước. Thông qua cơ chế xét xử khiếu kiện QĐKLBTV cơng
chức, Tồ án khơng chỉ bảo vệ lợi ích chính đáng của người bị xâm phạm bởi những
chủ thể mang quyền lực nhà nước mà cịn góp phần hạn chế những sai phạm, khiếm
khuyết trong việc ban hành QĐKLBTV. Chính từ việc có thẩm quyền xét xử mà Tồ
án có thể can thiệp, xử lý kịp thời, loại bỏ những sai phạm, tính thiếu trách nhiệm của
người đầu cơ quan, tổ chức nhằm góp phần tăng cường trách nhiệm của các chủ thể
có thẩm quyền, giúp thanh lọc các thành phần tiêu cực trong bộ máy nhà nước, tạo
môi trường làm việc, quản lý chất lượng, hiệu quả, đảm bảo đội ngũ cán bộ, công
chức trong sạch, vững mạnh.
Từ những lý do trên, có thể thấy rằng việc xác định thẩm quyền của Tồ án
đối với QĐKLBTV cơng chức mang một ý nghĩa vơ cùng to lớn. Chính vì vậy, nên
khi xác định thẩm quyền của Toà án cần thực hiện một cách chính xác và khách quan,
điều này sẽ góp phần giúp bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, đồng
thời góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
1.1.4. Nội dung thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc
thôi việc công chức của Tịa án nhân dân
Như đã phân tích về khái niệm thẩm quyền giải quyết khiếu kiện QĐKLBTV
công chức của TAND được đề cập ở mục 1.1.1, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài
nội dung thẩm quyền giải quyết khiếu kiện QĐKLBTV công chức được tác giả đề
cập bao gồm 03 nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức thuộc thẩm quyền xét
xử hành chính của Tịa án
Thơng qua nghiên cứu, thẩm quyền của Toà án nước ta hiện nay được tiếp cận

dưới ba góc độ đó là thẩm quyền theo vụ việc, thẩm quyền của Toà án theo cấp và
theo lãnh thổ. Theo đó, thẩm quyền XXHC được sử dụng phổ biến với hai nội dung
là quyền hạn và thẩm quyền theo vụ việc. Như đã phân tích, quyền hạn được hiểu là
giới hạn của Tồ án trong khn khổ được pháp luật cho phép thực hiện quyền xét
xử các khiếu kiện hành chính. Theo đó, quyền hạn được thể hiện ở các khía cạnh như:
Tồ án có quyền gì trong việc thụ lý các tranh chấp hành chính; Tồ án có quyền xem
xét về tính hợp pháp hay tính hợp lý của quyết định, hành vi bị khởi kiện; Tồ án có
quyền như thế nào trong việc ngăn chặn hay khôi phục những hậu quả trái pháp luật
đã xảy ra. Về phương diện thẩm quyền theo vụ việc, thẩm quyền XXHC được sử
dụng để giải quyết các tranh chấp hành chính phát sinh theo yêu cầu của người khởi


18

kiện29. Xuất phát từ tính chất đặc thù của mỗi lĩnh vực tố tụng, khái niệm thẩm quyền
theo vụ việc ở từng lĩnh vực cũng có sự khác biệt và không được quy định một cách
cụ thể trong các văn bản pháp luật. Trong tố tụng dân sự, thẩm quyền theo vụ việc là
giới hạn (khả năng) do pháp luật quy định để TAND thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình trong việc thụ lý và giải quyết các vụ việc dân sự; thẩm quyền theo vụ việc
xác định trách nhiệm của TAND trong việc bảo vệ quyền công dân, cơ quan tổ chức
bằng biện pháp tư pháp30. Theo Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam của
Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng: Thẩm quyền về việc (thẩm quyền theo vụ
việc) là căn cứ để phân biệt thẩm quyền giữa các toà chuyên trách với nhau và cũng
là căn cứ để các toà chuyên trách xem xét các khiếu kiện có thuộc thẩm quyền thụ lý
và xét xử của mình khơng31.
Như vậy, có thể thấy rằng thẩm quyền theo vụ việc hiện nay chưa được định
nghĩa một cách rõ ràng, cụ thể, chúng chỉ mới dừng lại ở góc độ quan điểm khoa học.
Theo đó có thể hiểu một cách khái quát về thẩm quyền theo vụ việc trong TTHC là
sự giới hạn nhiệm vụ, quyền hạn của Toà án các cấp, giúp phân định thẩm quyền giữa
các Tòa chuyên trách trong hệ thống tổ chức đảm bảo công tác thực thi quyền tư pháp

của các cơ quan được thực hiện có hiệu quả.
Thẩm quyền XXHC theo vụ việc ở nước ta và một số quốc gia trên thế giới
hiện nay thường được xác định theo hai phương pháp đó là phương pháp định tính và
phương pháp định lượng. Phương pháp định tính được hiểu là pháp luật quy định
những dấu hiệu chung có tính ngun tắc để xác định thẩm quyền XXHC theo vụ
việc. Còn phương pháp định lượng được thể hiện dưới dạng liệt kê các khiếu kiện
thuộc thẩm quyền theo loại việc của Toà án. Pháp luật nước ta hiện nay sử dụng
phương pháp định lượng để quy định thẩm quyền theo vụ việc. Theo đó, thẩm quyền
theo vụ việc được nhà làm luật sử dụng theo phương thức liệt kê các loại việc. Theo
quy định tại Điều 30 Luật TTHC năm 2015 thẩm quyền theo vụ việc được Toà án thụ
lý theo TTHC bao gồm: khiếu kiện liên quan đến QĐHC, HVHC ngoại trừ một số
trường hợp; khiếu kiện QĐKLBTV công chức từ Tổng cục trưởng tương đương trở
xuống; các khiếu kiện liên quan đến hoạt động kiểm toán, vụ việc cạnh tranh, và danh
sách cử tri. Bên cạnh phương pháp định lượng, pháp luật sử dụng phương thức loại
trừ các quyết định khơng thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của Tồ án bao gồm các
quyết định mang tính bí mật nhà nước, các quyết định liên quan đến nội bộ trong cơ
Nguyễn Mạnh Hùng (2015), Phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử
hành chính ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, tr.51-52.
30
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.108.
31
Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb Tư pháp, tr.89.
29


19

quan. Như vậy, từ phân tích trên có thể rút ra kết luận rằng, khi cơng chức có quyền
và lợi ích hợp pháp bị ảnh hưởng bởi QĐKLBTV thì theo quy định của pháp luật

khiếu kiện này được xác định thuộc thẩm quyền XXHC của Toà án.
Thứ hai, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc
cơng chức của Tồ án theo cấp và theo lãnh thổ
Ở nước ta hiện nay, Toà án được phân thành bốn cấp: TAND cấp huyện, TAND
cấp tỉnh, TAND cấp cao và TAND tối cao. Thẩm quyền ở mỗi cấp toà án đều được
quy định một cách riêng biệt và cụ thể, theo quy định của Luật Tổ chức Toà án nhân
dân năm 2014 quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm thuộc quyền hạn của TAND cấp
huyện và TAND cấp tỉnh, xét xử phúc thẩm thẩm quyền thuộc quyền hạn của TAND
cấp tỉnh và TAND cấp cao, xem xét lại phán quyết của Toà án theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm thuộc quyền hạn của TAND tối cao. Tương tự với thẩm quyền theo
loại việc, nội dung thẩm quyền của toà án theo cấp trong lĩnh vực tố tụng cũng khơng
được giải thích hay khái qt thành một khái niệm cụ thể. Tuy nhiên, thông qua
nghiên cứu những vấn đề về thẩm quyền của Toà án theo cấp ở những lĩnh vực tố
tụng khác tác giả nhận thấy rằng thẩm quyền của Tồ án theo cấp trong TTHC có
những điểm đặc trưng riêng biệt. Theo đó, thẩm quyền theo cấp của Tồ án có thể
hiểu là một bộ phận của thẩm quyền xét xử, xác định cấp toà án nào có thẩm quyền
được tiến hành thụ lý giải quyết VAHC theo thủ tục sơ thẩm. Hay nói cách khác,
thẩm quyền theo cấp của Toà án là sự giới hạn do pháp luật quy định để Toà án các
cấp thực hiện chức năng xét xử VAHC.
Ở nước ta hiện nay, Tồ án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm QĐKLBTV công
chức thuộc về TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh. Bên cạnh đó, hệ thống tổ chức
Tồ án nước ta hiện nay theo đơn vị hành chính lãnh thổ trùng với sự phân cấp của
CQHC do đó việc xác định thẩm quyền của Toà án theo cấp dựa trên chủ thể là người
đứng đầu cơ quan, tổ chức ban hành QĐKLBTV. Do vậy, có thể thấy rằng việc phân
định thẩm quyền sơ thẩm giữa TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh sẽ giúp đảm bảo
cho việc giải quyết VAHC được tiến hành thuận lợi, nhanh chóng, tránh trường hợp
tạo gánh nặng cho cơ quan Toà án cấp dưới khi tiếp nhận các vụ kiện liên quan đến
QĐKLBTV, đảm bảo thuận lợi cho việc tham gia tố tụng của đương sự, kịp thời bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Về thẩm quyền theo lãnh thổ, thẩm quyền xét xử VAHC của TAND theo lãnh

thổ là việc xác định Tịa án ở nơi nào có thẩm quyền xét xử sơ thẩm VAHC. Tuỳ từng
lĩnh vực tố tụng khác nhau mà thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ cũng được xác
định khác nhau. Trong tố tụng dân sự, thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ được xác
định dựa vào các yếu tố như nơi cư trú của đương sự, người yêu cầu; nơi có tài sản


×