LỜI NÓI ĐẦU
Quản lý nguồn nhân lực nói chung và công chức nói riêng là một hoạt động
quản lý bao gồm nhiều nội dung. Mỗi nội dung có một vị trí nhất định và có mối quan
hệ mật thiết với nhau giúp hoàn thiện bộ máy tổ chức và quản lý cán bộ, công chức
của nhà nước ta.
Từ thực trạng trong công tác tổ chức và hoạt động của đội ngũ cán bộ công
chức của nhà nước hiện nay, yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần có những văn bản pháp
luật quy định chặt chẽ về cán bộ, công chức để hoạt động quản lí hành chính của nhà
nước ta có hiệu quả hơn nữa. Chính vì vậy Luật cán bộ, công chức đã ra đời thay thế
cho Pháp lệnh cán bộ, công chức không còn phù hợp với yêu cầu quản lí của nhà nước
nữa. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này nhóm em xin chọn đề tài: “Phân tích khái niệm
cán bộ, công chức theo Luật cán bộ, công chức và chỉ ra những điểm mới so với
khái niệm cán bộ, công chức theo Pháp lệnh cán bộ, công chức”.
NỘI DUNG
I. PHÂN TÍCH KHÁI NIỆM CÁN BỘ, CÔNG CHỨC THEO LUẬT CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC (Luật CBCC):
Ngày 13/11/2008, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII, đã thông qua Luật cán
bộ, công chức. Đây là một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước đến nay (luật)
và cắt nghĩa được rõ ràng về các khái niệm cán bộ, công chức.
1. Khái niệm cán bộ:
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 4 Luật CBCC 2008:
“Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây
gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung
là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị – xã
hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh
1
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách nhà nước”.
Qua khái niệm, chúng ta có thể thấy một số đặc điểm của cán bộ dưới các góc độ sau:
a) Chế độ bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm cán bộ:
Cán bộ là những người được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức
danh theo nhiệm kỳ đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở cấp trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện. Riêng với cán bộ cấp xã thì chỉ được bầu cử không có chế độ phê chuẩn
hay bổ nhiệm.
Tuy nhiên, bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm còn phụ thuộc vào việc đó sẽ là cán bộ
của Đảng cộng sản Việt Nam, của tổ chức, chính trị - xã hội hay thuộc Nhà nước. Bởi
bầu cử, phê chuẩn hay bổ nhiệm cán bộ còn chịu sự tác động của quy định, điều lệ đối
với từng cơ quan, đơn vị, tổ chức đó.
Ví dụ: Điều 23 Luật CBCC 2008 qui định: “Việc bầu cử, bổ nhiệm chức vụ, chức
danh cán bộ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội
được thực hiện theo quy định của điều lệ và pháp luật có liên quan”. Theo đó, Đảng
viên có quyền ứng cử, đề cử, bầu các chức danh, chức vụ trong cơ quan lãnh đạo của
Đảng như Tổng Bí thư.
Theo Điều 24 Luật CBCC 2008 qui định: “Việc bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
chức vụ, chức danh cán bộ theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà nước từ trung ương đến
cấp huyện được thực hiện theo quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật
tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật tổ
chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật kiểm toán nhà
nước, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân”.
Ví dụ: “Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội do UBTV
Quốc hội giới thiệu. Theo đề nghị của Chủ tịch nước, Quốc hội bầu Phó Chủ tịch nước
trong số các đại biểu Quốc hội; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng
và an ninh”. (Điều 81 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001).
b) Phạm vi hoạt động của cán bộ:
Cán bộ giữ các chức vụ, chức danh và hoạt động trong cơ quan của Đảng cộng
sản Việt Nam, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội.
2
Ví dụ: Cán bộ hoạt động trong cơ quan nhà nước như: Tổng kiểm toán nhà nước là
người đứng đầu Kiểm toán nhà nước; cán bộ hoạt động trong cơ quan của Đảng cộng
sản Việt Nam ở cấp ủy như: bí thư, các phó bí thư tỉnh ủy, huyện ủy.
c) Thời gian công tác của cán bộ:
Cán bộ công tác theo nhiệm kỳ. Nhiệm kỳ là thời hạn giữ chức danh,chức vụ.
Thời hạn đó thường được định ra trước trong các văn bản chính thức.
Ví dụ: Nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà nước là 7 năm, có thể được bầu lại nhưng
không quá hai nhiệm kỳ (khoản 3 Điều 17 Luật kiểm toán nhà nước năm 2005).
d) Chế độ lao động:
Cán bộ được biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Theo Điều 12
Luật CBCC thì cán bộ “Được Nhà nước bảo đảm tiền lương tương xứng với nhiệm vụ,
quyền hạn được giao, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước. Cán bộ,
công chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn hoặc trong các ngành,
nghề có môi trường độc hại, nguy hiểm được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi
theo quy định của pháp luật. Và được hưởng tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm, công
tác phí và các chế độ khác theo quy định của pháp luật.”
2. Khái niệm công chức:
Theo khoản 2 Điều 4 Luật CBCC 2008: “Công chức là công dân Việt Nam,
được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công
an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập),
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.”
3
Qua khái niệm, chúng ta có thể thấy một số đặc điểm của công chức dưới các góc độ
sau:
a) Chế độ tuyển dụng, bổ nhiệm:
Công chức phải là những người được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào ngạch,
chức danh, chức vụ trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc cấp trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện.
Ví dụ: Phó chánh án tòa án nhân dân tối cao; chánh án, phó chánh án các tòa và
chuyên trách (Khoản 1 Điều 7 Nghị định 06/2010/NĐ–CP quy định những người là
Công chức).
Công chức phải có đủ trình độ chuyên môn phù hợp với ngạch, chức danh, chức
vụ. Các vấn đề liên quan tới bổ nhiệm, tuyển dụng công chức vào các chức danh, chức
vụ và bổ nhiệm vào các ngạch công chức quy định cụ thể ở chương IV, Luật CBCC
2008. Đồng thời các vấn đề này còn phụ thuộc vào quy định dành riêng đối với các
chức danh, chức vụ khác nhau; cùng một chức danh, chức vụ nhưng thuộc các tổ chức,
cơ quan, đơn vị khác nhau; cùng một chức danh, chức vụ thuộc cùng một loại tổ chức,
cơ quan, đơn vị nhưng ở các cấp khác nhau.
Ví dụ: Tiêu chuẩn đối với công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã: trung cấp Luật trở lên,
phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên môn, sau khi được tuyển
dụng, phải qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước, lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tư
pháp cấp xã. Còn đối với công chức Tài chính – Kế toán cấp xã: trung cấp Tài chính
Kế toán trở lên, phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên môn; sau
khi tuyển, phải qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước.
b) Phạm vi hoạt động:
Phạm vi hoạt động của công chức rộng hơn rất nhều so với cán bộ. Nếu như cán
bộ là những người hoạt động trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị
- xã hội thì công chức xuất hiện cả ở cơ quan đơn vị thuộc quân đội nhân dân, Công an
nhân dân; trong bộ máy lãnh đạo quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập.
Ví dụ: Điều 10 Nghị định 06/2010/NĐ–CP quy đinh đối tượng là công chức trong cơ
quan, đơn vị của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân: “Người làm việc trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà
không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.”
4
c) Thời gian công tác:
Công chức đảm nhiệm công tác từ khi được bổ nhiệm, tuyển dụng, cho tới khi
nghỉ hưu theo quy định của bộ luật lao động mà không hoạt động theo nhiệm kỳ như
cán bộ ( Điều 60 Luật CBCC 2008). Chấm dứt đảm nhiệm chức vụ khi đến tuổi nghỉ
hưu: 55 tuổi đối với nữ giới và 60 tuổi đối với nam giới (quy định tại điểm a khoản 1
Điều 50 – Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006).
d) Chế độ lao động:
Công chức được biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước (Điều 12 Luật
CBCC 2008); đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp
công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
II. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA KHÁI NIỆM CÁN BỘ, CÔNG CHỨC THEO
LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC SO VỚI PHÁP LỆNH CÁN BỘ, CÔNG CHỨC:
Ngày 17/11/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 95/1998/NĐ-CP về tuyển
dụng, sử dụng và quản lý công chức. Theo Nghị định này thì công chức là “công dân
Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm những
người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công việc thường xuyên, được
phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành
chính, sự nghiệp; những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội
nhân dân và công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp
và công nhân quốc phòng”.
Pháp lệnh cán bộ, công chức ra đời là văn bản pháp lý cao nhất khi đó của nước
ta về công chức, đánh dấu bước chuyển biến cơ bản về công tác cán bộ của Đảng và
Nhà nước. Sau 2 năm thực hiện, Pháp lệnh đã bộc lộ những hạn chế, nên đã được sửa
đổi vào năm 2000. Tuy vậy, ngay cả Pháp lệnh sửa đổi vẫn không phân định rõ ràng
được các đối tượng là công chức, chẳng hạn những người làm việc trong đơn vị sự
nghiệp của nhà nước là công chức, trong khi đó những người làm việc trong cơ quan
hành chính xã, phường, thị trấn lại không phải là công chức. Nhằm khắc phục những
hạn chế đó, Pháp lệnh được sửa đổi một lần nữa vào năm 2003.
5