Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Cơ sở lý luận báo chí lao động báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.04 KB, 21 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: CƠ SỞ LÝ LUẬN BÁO CHÍ
ĐỀ TÀI: LAO ĐỘNG BÁO CHÍ


MỤC LỤC
Phần mở đầu.......................................................................................................2
Phần nội dung.....................................................................................................3
Chương 1: Phân loại lao động báo chí..............................................................3
1.1. Lao động tổ chức - quản lý......................................................................3
1.2. Lao động biên tập.....................................................................................5
1.4. Lao động kinh tế - dịch vụ.......................................................................6
Chương 2: Tổng quan quy trình lao động của nhà báo..................................9
2.1. Phát hiện chủ đề, đề tài cho bài viết – săn tin........................................9
2.2. Tiếp cận nguồn tin, thu thập dữ liệu - thơng tin..................................11
2.3. Hoạt động phân tích dữ liệu và viết......................................................13
2.4. Tiếp nhận phản hồi từ dư luận đối với tác phẩm báo chí...................14
Chương 3: Lao động sáng tạo trong báo chí..................................................15
3.1. Lao động tổ chức - quản lý của cán bộ lãnh đạo các ban biên tập, các
tòa soạn, phòng biên tập................................................................................15
3.2. Lao động gián tiếp xã hội.......................................................................17
3.3. Lao động sáng tạo văn bản tác phẩm...................................................18
Phần kết luận.....................................................................................................20
Tài liệu tham khảo............................................................................................21

2


Phần mở đầu

Lao động nhà báo được coi như một hoạt động nghệ thuật đặc biệt, mang


tính chất chính trị khoa học và nghệ thuật. Do vậy mà yêu cầu đối với nhà báo
là vô cùng cao, trước hết phải có kiến thức nhất định về chun mơn nghề
nghiệp, sau đó là phải nắm vững về lao động báo chí chuyên nghiệp. Như vậy
thì việc sáng tạo của nhà báo để tạo nên một tác phẩm hoàn chỉnh mới được
thành cơng. Để có được một tác phẩm thành cơng thì phải tập hợp nhiều yếu tố,
quá trình, vì vậy mà nhà báo phải cần nỗ lực sáng tạo, cố gắng trong mọi hoạt
động. Từng bước, từng bước một thực hiện như trước hết phải lên kế hoạch,
khai thác thông tin bằng nhiều phương pháp khác nhau sau đó làm rõ vấn đề mà
nhà báo muốn đề cập cho đọc giả.

3


Phần nội dung

Chương 1: Phân loại lao động báo chí

1.1. Lao động tổ chức- quản lý
Là lao động dành cho một số ít người đảm nhận cơng việc tổ chức quản
lý cơ quan báo chí, ngành báo chí. Tức là quản lý vi mô và quản lý vĩ mô. loại
lao động này tuy có nhiều cấp độ khác nhau nhưng ở những cấp độ ấy, địi hỏi
chủ thể của nó những kiến thức và phẩm chất tương thích do mục đích và yêu
cầu của hoạt động lãnh đạo, quản lý đặt ra.
Tổ chức quản lý ở cấp vĩ mô là công việc tổ chức quản lý đảm bảo cho
sản phẩm báo chí (số báo, chương trình phát thanh, truyền hình…) được xã hội
hóa và tn thủ theo tiêu chí chất lượng, đúng tơn chỉ mục đích, khuynh hướng
chính trị đã xác định. Người đứng đầu cơ quan báo chí lãnh đạo và quản lý cơ
quan báo chí về mọi mặt, bảo đảm cho thực hiện đúng tơn chỉ mục đích và
những yêu cầu bắt buộc ghi trong giấy phép xuất bản, chịu trách nhiệm trước
thủ trưởng cơ quan chủ quản, trước pháp luật và dư luận xã hội về mọi hoạt

động trong cơ quan báo chí mà mình phụ trách. Giúp việc cho người đứng đầu
cơ quan báo chí- tổng biên tập (hay giám đốc- đối với đài phát thanh, truyền
hình), có các phó tổng biên tập, (hoặc các phó giám đốc). Về đại thể hoạt động
lao động này cần bao quát và ưu tiên giải quyết các loại quan hệ:
Thứ nhất, thiết lập, phát triển, củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại
(với cơ quan cấp trên, với các cơ quan tổ chức đồng cấp, với công chúng khách hàng - thị trường...) bảo đảm cho Cơ quan báo chí nhanh chóng định vị
và nâng cao vai trị, vị thế xã hội của mình. Đối với mảng quan hệ này, đòi hỏi
người đứng đầu cơ quan báo chí cần có khả năng “bang giao”, thiết lập, củng cố

4


và phát triển các quan hệ nhằm tạo thế trận và địa bàn hoạt động cho cơ quan
báo chí.
Thứ hai, quan hệ đối nội - thiết lập, duy trì các đầu mối tổ chức các bộ
phận công việc bảo đảm phát huy tối đa nguồn lực tòa soạn cơ quan báo chí và
kết nối nguồn lực xã hội trong quá trình thu thập, xử lý, sản xuất và chuyển tải
thơng tin đến cơng chúng nhanh chóng và hiệu quả nhất. Trên thực tế, vai trò vị
thế xã hội của cơ quan báo chí phụ thuộc vào uy tín và năng lực nghề nghiệp
của tổng biên tập; mặt khác, sản phẩm báo chí thể hiện rõ diện mạo văn hóa,
nhân cách và phẩm chất nghề nghiệp của người đứng đầu cơ quan báo chí - nhất
là đối với báo in và báo mạng điện tử. Trong kinh tế thị trường, lao động tổ
chức quản lý cơ quan báo chí cịn bao gồm lao động quản trị doanh nghiệp.
Tính chất và mức độ quản trị doanh nghiệp phụ thuộc vào tính chất, loại hình và
chính sách, cơ chế hoạt động của cơ quan báo chí.
Trong thực tế, muốn có một sản phẩm báo chí hay, hấp dẫn giám tổ cơng
chúng thì phải có đội ngũ nhà báo giỏi nghề, nhưng khi đã có đội ngũ nhà báo
giỏi nghề chưa chắc đã có sản phẩm báo chí hay, hấp dẫn cơng chúng xã hội.
Điều đó phụ thuộc vào năng lực và tính chun nghiệp của tổng biên tập (hay
giám đốc cơ quan báo chí. Tổng biên tập là một nghề, nhưng trước hết phải thạo

nghề báo mới có khả năng làm cho cơ quan báo chí phát triển cả bề rộng và
chiều sâu theo đúng nghĩa của nó.
Ở cấp vĩ mơ, lao động tổ chức - quản lý (Quản lý nhà nước) bao gồm việc
tham gia xây dựng, ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tham gia
hình thành mơi trường pháp lý bảo đảm cho nền báo chí hoạt động nhịp nhàng,
hiệu quả phục vụ mục đích chính trị và sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
Đối với nước ta, nội dung quản lý nhà nước về báo chí đã được pháp luật quy
định (10 nội dung quản lý nhà nước về báo chí).

5


1.2. Lao động biên tập.
Lao động biên tập, không nên coi đó chỉ là hoạt động sửa chữa tin, bài,
biên tập kịch bản,... của biên tập viên hay cán bộ quản lý phịng, ban chun
mơn nghiệp vụ của tịa soạn, tham gia hồn thiện, nâng cấp tác phẩm báo chí
trước khi lên trang in hay phát sóng. Trên thực tế, lao động biên tập thể thể hiện
ở nhiều khâu công việc quan trọng khác nữa. Ví dụ như, nhân xây dựng kế
hoạch, nhất là chiến dịch thông tin - truyền thông là bao gồm kế hoạch dài hạn,
ngắn hạn và xử lý tình huống đột xuất; chủ động thiết lập và duy trì các mối
quan hệ với phóng viên, cộng tác viên và các đối tác của tịa soạn (thơng qua
các đơn vị chun mơn nghiệp vụ của tịa soạn báo chí); xây dựng chủ đề thơng
tin của trang báo, số báo hay chương trình phát thanh, truyền hình; xử lý các sự
kiện, vấn đề và khủng hoảng. Như vậy, sửa chữa tin bài, tham gia hoàn thiện tác
phẩm báo chí chỉ là một trong nhiều cơng việc của lao động biên tập. Những
người tiến hành một số loại hay tất cả các loại công việc trên đây gọi là biên tập
viên. Có biên tập viên, biên tập viên chính và biên tập viên cao cấp. Trong báo
chí hiện đại, xu hướng số lượng biên tập viên tăng lên. Ở các tịa soạn báo chí
phương Tây, biên tập viên chính có vai trị đặc biệt quan trọng trong quy trình
sản xuất sản phẩm báo chí. Ở nước ta, biên tập viên chính giữ vai trị quan trọng

tùy thuộc vào vị trí cơng việc và thường gắn với chức vụ quản lý được phân
công đảm nhiệm trong Yêu cầu lao động Biên tập thể hiện trong các khâu công
việc
được đảm trách, nhưng tất cả đều phục vụ chức năng là người tổ chức,
thiết kế và “gác cổng” cho tổng biên tập.
1.3. Lao động tác giả.
Lao động tác giả là loại lao động dành cho phần đơng những người trong
tịa soạn báo chí. Đó là loại lao động thu thập, xử lý thông tin, dữ liệu và trực

6


tiếp sáng tạo ra tác phẩm báo chí. Những người tiến hành loại lao động này một
cách thường xuyên và chủ yếu, gọi là phóng viên, ngồi ra, tiến hành
lao động này cịn có các cộng tác viên, thơng tin viên và nhà báo cơng
dân...
Lao động tác giả, có thể nói là quy trình sáng tạo tác phẩm của phóng
viên. Quy trình đó bao gồm nắm bắt tình hình thực tiền đang vận động, phát
hiện chủ đề và đề tài, tiếp cận, thu thập và xử lý thông tin, dữ liệu, viết và theo
dõi - xử lý thông tin phản hồi từ công chúng và dư luận xã hội.

1.4. Lao động kinh tế - dịch vụ
Có thể nói rằng, nhà báo nói chung là người sáng tạo ra tác chúng xã hội
là cả một quá trình lao động của nhiều công đoạn với nhiều loại lao động khác
nhau. Lao động kỹ thuật - Cơng nghệ, lao động mỹ thuật trình bày, lao động chế
bản in ấn, nghiên cứu dư luận xã hội và công chúng phát hành, quảng cáo... Với
báo chí truyền hình, tính chất ngành nghề lao động cịn phong phú và phức tạp
hơn nhiều, như ánh sáng, mộc truyền hình, trang trí sân khấu, hóa trang... Mặt
khác, để bảo đảm nguồn thu từ quảng cáo, triển khai các hoạt động dịch vụ,
quảng bá thương hiệu, marketing… lại cần có lao động dịch vụ đa dạng, mà

những loại hình lao động này hiện nay chưa cơ sở đào tạo báo chí nào cùng lúc
có thể
đào tạo đáp ứng, thỏa mãn được. Do vậy, đối với báo chí hiện đại, tổng
biên tập khơng chỉ là người quản lý tịa soạn, lo chuyện xử lý, sản xuất tin tức...

quan trọng hơn là người quản trị doanh nghiệp - tòa soạn báo chí, anh ta
cịn cần có kiến thức quản lý kinh tế, biết hạch toán thu - chi, biết quản lý và
phát triển các loại nhân lực, các loại lao động khác nhau, biết tổ chức nghiên
cứu để định hướng phát triển thị trường, mở rộng công chúng - khách hàng… Các loại lao động kinh tế - dịch vụ trong báo chí rất đa dạng như tài chính - Kế
7


toán, xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật, quảng cáo, PR, marketing, phát
hành, nghiên cứu công chúng - thị trường, dịch vụ cơng ích và dịch vụ thương
mại, dịch vụ kỹ thuật… Yêu cầu cơ bản của các loại lao động kinh tế - dịch vụ
của cơ
quan báo chí nhằm thỏa mãn các mục đích như:
- Bảo đảm quy trình thu thập, xử lý, sản xuất tin tức và sản
quan phẩm báo chí nói chung được nhanh chóng, kịp thời với chất lượng
chính trị, chất lượng văn hóa, chất lượng khoa học và chuyên môn nghiệp vụ
cao nhất có thể.
- Bảo đảm mở rộng, phát triển và củng cố quan hệ của cơ báo chí với
cơng chúng - xã hội, quảng bá thương hiệu để phát triển nội lực và ngoại lực
đến mức cao nhất có thể.
- Bảo đảm cho hoạt động của tòa soạn hài hòa, đạt được mục đích chính
trị - xã hội và mục đích kinh tế - dịch vụ xã hội tối ưu nhất có thể.
- Bảo đảm phát triển sự nghiệp báo chí và lợi nhuận.
- Bảo đảm tăng nguồn thu ổn định và việc chi tiêu hợp lý, hiệu quả.
Trong cơ quan báo chí hiện đại, tỷ lệ lao động tịa soạn (phóng viên và
biên tập viên) ngày càng có tỷ lệ giảm tương đối so với lao động kinh tế - dịch

vụ tài chính - Kế tốn, quảng cáo, PR, marketing, phát hành...). Khuynh hướng
phát triển của lao động kỹ thuật - dịch vụ trong báo chí hiện đại ngày càng gia
tăng, trong đó đặc biệt vai trị của các kỹ sư tin học - điện tử, các chuyên gia
nghiên cứu công chúng và phát triển thị trường, các chuyên gia tư vấn tổ chức
chiến dịch thông tin - truyền thông cũng như vận động gây ảnh hưởng xã hội...
Mặt khác, phù hợp với truyền thông đa phương tiện và hội tụ truyền thơng, nhà
báo
cần tích hợp đa kỹ năng.

8


Chương 2: Tổng quan quy trình lao động của nhà báo

Quy trình hoạt động nghề nghiệp báo chí của nhà báo khơng chỉ là nắm bắt tình
hình thực tiễn, mà cịn tích lũy kiến thức tổng hợp bao gồm: kiến thức chuyên
biệt về lĩnh vực, đề tài nhà báo định viết tác phẩm, tâm lý, kỹ năng và kinh
nghiệm hành nghề, thậm chí cần có những bí quyết nghề nghiệp. Vấn đề này
giúp nhà báo có thể nhanh chóng phát hiện đề tài và chủ đề cho bài viết, cũng
như phán đoán được khả năng, mối quan hệ tác động của sự kiện, vấn đề thơng
tin. Nhìn tổng thể, việc nghiên cứu và nắm bắt tình hình thực tiễn giúp nhà báo
có thể hiểu được những xu thế thơng tin, từ đó có thể thiết lập mơ hình thơng tin
hiệu quả nhất.

2.1. Phát hiện chủ đề, đề tài cho bài viết – săn tin
Đây là hoạt động đầu tiên trong chuỗi các hoạt động của quy trình tác nghiệp
của nhà báo. Chủ đề có thể nói một cách ngắn gọn là ý đồ, ý định, ý tưởng của
tác giả muốn truyền tải đến công chúng thông qua tác phẩm của mình. Như vậy,
chỉ để thuộc về chủ quan, nhưng khơng phải là chủ quan thuần túy, mà là kết
quả nhận thức những vấn đề của thực tiễn cuộc sống. Chủ đề bài báo tốt thường

gắn với và phản ánh, thể hiện, những vấn đề bức xúc, những trăn trở, suy nghĩ
hay mong đợi của công chúng xã hội, của nhiều người.
Thuật ngữ đề tài trong hoạt động báo chí có thể được hiểu theo hai nghĩa rộng
và hẹp. Với nghĩa rộng, đề tài được dùng để chỉ lĩnh vực đề tài, lĩnh vực cuộc
sống lĩnh hội, như đề tài nông nghiệp nông thôn, đề tài kinh tế, đề tài văn hóa xã hội. Với nghĩa hẹp, đề tài là phạm vi cuộc sống được phản ánh trong tác
phẩm. Đó có thể là một nét, một khía cạnh, trong đời sống của con người, của
một trên địa bàn cụ thể nào đó. Đề tài thuộc phạm vi tồn tại bên ngồi ý muốn

9


của tác giả. Đề tài có thể là sự kiện hay vấn đề thời sự, là sự kiện mới xảy ra,
hoặc xảy ra đã lâu nhưng mới biết tức thì và có ý nghĩa thời sự - xã hội.
Trong tác phẩm báo chí chủ đề và đề tài có mối liên chúng với nhau nhiều khi
khó bóc tách.
Sau khi nghiên cứu, nắm bắt tình hình cuộc sống, nhà báo có thể có ý tưởng
mới, nảy ra chủ đề nóng, nhưng sẽ khơng thể sáng tạo tác phẩm được nó, khơng
phát hiện được đề tài, sự kiện có khả năng phát biểu đề ấy. Nhà báo nói bằng sự
kiện - thơng qua sự kiện cụ thể để đảm nói lên điều mình muốn gửi gắm tới
cơng chúng (tức là chủ đề) chứ không bằng giáo thuyết chung. Nhưng khi phát
hiện được đề tài, gặp được sự kiện nóng, nếu khơng nắm bắt được mạch đi nhịp
thở của cuộc sống trong sự kết nối với truyền thống và hướng tới tương lai, có
thể chủ đề hấp dẫn bị bỏ qua, khơng được khai thác.
Săn tin là một khái niệm và phương thức hoạt động đã được báo chí phương
Tây sử dụng phổ biến từ lâu; đồng thời đã có hệ thống kỹ năng, kinh nghiệm và
hình thành cơng nghệ săn tin chun nghiệp. Bản thân thuật ngữ “săn tin đòi hỏi
nhà báo ln chủ động tìm tin nóng nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức thời
sự đang diễn ra của công chúng. Săn tìm những nguồn tin, dữ liệu có khả năng
cung cấp thơng tin cho cơng chúng - thuộc tính quan trọng nhất của tin tức báo
chí, địi hỏi nhà báo cần có kiến thức, am hiểu và bám sát cuộc sống, thấu hiểu

công chúng và dư luận xã hội cũng như hiểu rõ yêu cầu đang đặt ra đối với cơng
tác chính trị - tư tưởng.
Tuy nhiên, trong hoạt động báo chí của nhà báo có thể thấy, cùng một dữ liệu,
nhưng đối với nhóm cơng chúng này, có thể có khả năng cung cấp thơng tin,
cịn đối với nhóm cơng chúng khác thì khơng. Điều đó phụ thuộc vào nhu cầu,
sở thích, thị hiếu và đặc điểm của cơng chúng, nhóm đối tượng. Mặt khác, trong
thực tế, khả năng cung cấp thông tin cho công chúng phụ thuộc vào năng lực
lựa chọn và sắp xếp, liên kết dữ liệu trong tác phẩm báo chí của nhà báo, chứ
khơng phải nhiều dữ liệu là nhiều thơng tin. Có khi bài viết dài nhưng nghèo
thông tin, bài viết ngắn lại giàu thông tin. Như vậy, muốn săn tin thành công,
10


nhà báo phải thơng hiểu tình hình đang diễn ra những vấn đề đang cần câu giải
thích và giải đáp, và điều quan trọng là cần hiểu được công chúng đang cần gì
và cái gì cần cho họ. Bên cạnh đó, người làm báo cần phải biết thiết lập, duy trì
và phát triển các mối quan hệ cơng việc để bất kỳ trường hợp nào và lúc nào
cũng có thể cậy nhờ” được các chuyên gia, các mối quan hệ. Tư chất, năng lực
nhà báo và các mối quan hệ cơng việc của anh ta sẽ là cơ sở hình thành khả
năng khám phá nguồn tin để tạo nên giá trị tin tức cho cơng chúng. Với nghề
nghiệp của mình, nhà báo không nên bỏ qua bất kỳ mối quan hệ nào; cần
chớp thời cơ để nuôi, cấy quan hệ phục vụ săn tin. Không tạo lập được nhiều
mối quan hệ, không tạo được niềm tin từ các mối quan hệ ấy, nhà báo khó săn
tin thành cơng. Hơn nữa, biết và sử dụng thông thạo ngoại ngữ cũng là một
trong những năng lực cần thiết của nhà báo trong thời kỳ này. Mặt khác, nhà
báo cần phải rèn luyện năng lực xử lý tình huống, ln ln tạo thể chủ động
trong tiếp cận nguồn tin và khai thác dữ liệu thông tin, nhất là đối với các vấn
đề phức tạp và nhạy cảm, các sự kiện quốc tế.

2.2. Tiếp cận nguồn tin, thu thập dữ liệu - thông tin.

Trên thực tế, nhà báo có thể có nhiều cách tiếp cận nguồn tin không nhất thiết
phải qua các thủ tục hành chính và duy nhất ngoại trừ các trường hợp bắt buộc.
Thơng thường, có thể sử dụng các phương pháp thu thập thông tin - dữ liệu của
nhà báo như: Phương pháp phỏng vấn, phương pháp khai thác tài liệu qua văn
bản... Nhưng trong báo chí - truyền thơng hiện đại, phương pháp phân tích sản
phẩm truyền thơng và điều tra xã hội học và sử dụng các kết quả điều tra xã hội
học ngày càng trở nên quan trọng. Thông tin - dữ liệu thu thập được qua phương
pháp này có thể giúp nhà báo nhìn rộng hơn, sâu hơn các sự kiện và
vấn đề kinh tế - xã hội; giúp tịa soạn báo chí có thể lập kế hoạch đoán xu hướng
vận động, phát triển của các tiến trình xã hội rõ hơn và phản biện xã hội hiệu
quả hơn, tránh được hoặc giảm bớt những thụ động trong thông tin.
11


Xem xét (quan sát) có thể coi là phương pháp khai thác dữ liệu đặc trưng và tinh
tế của nhà báo; đối với việc sáng tạo một số thể loại tác phẩm báo chí, thu thập
dữ liệu qua quan sát là điều bắt buộc.
Phỏng vấn (hỏi chuyện) là phương pháp thường xuyên áp, sống động, giúp nhà
báo thu thập thông tin- dữ liệu và kiểm chứng nguồn tin,
Phương pháp nghiên cứu tài liệu có tính chất cơ bản và truyền thống. Tích luỹ
kiến thức, thu thập dữ liệu - thơng tin bằng phương pháp đọc và đọc có phương
pháp sẽ giúp nhà báo có được nền kiến thức đủ rộng và có chiều sâu trong q
trình hình thành nhân cách văn hóa.
Phương pháp phân tích sản phẩm truyền thơng là một trong những cách thu thập
dữ liệu - thông tin quan trọng, giúp nhà báo tổng hợp tình hình và nắm bắt dư
luận.
Phương pháp điều tra trên mạng Internet là một trong những phương pháp khai
thác dữ liệu - thông tin hiện đại, tiện lợi và hữu ích.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi chủ yếu được dùng để thu thập thơng tin
định lượng, trên diện rộng, hướng vào nhóm đối tượng xác định. Độ tin cậy của

phương pháp này phụ thuộc vào phương pháp chọn mẫu, thiết kế bảng hỏi (thiết
lập thang đo, chỉ bảo...), cách thức tiến hành và phương pháp và lý dữ liệu.
Phương pháp phỏng vấn sâu (có người gọi là phỏng vấn chuyên gia) chủ yếu
được dùng thu thập thơng tin định tính, đối tượng được hỏi có thể là các chuyên
gia, các nhà lãnh đạo, quản lý (chịu trách nhiệm chính ở những mắt xích quan
trọng), người chứng kiến hoặc người trong cuộc....
Phương pháp phỏng vấn nhanh (qua điện thoại hoặc nơi công cộng...).
Phương pháp thảo luận nhóm sẽ rất hiệu quả nêu được sử dụng đúng, thích hợp
cho một số vấn đề và nhóm đối tượng.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp, phương pháp điện dã...
Có thể nói, trong thực tế hoạt động nghề nghiệp, nhà báo luôn sử dụng nhiều
phương pháp khác nhau một cách linh hoạt thiết dụng nhất để có thể khai thác,

12


thu thập được nhiều dữ liệu, thơng tin để có thể hiểu sâu bản chất sự thật, tìm
kiếm để có thể hiểu biết sâu hơn bản chất sự thật, tìm kiếm những thơng tin - dữ
liệu bổ ích, đặc trưng và thú vị nhất có thể.
Hoạt động tiếp theo trong quy trình tác nghiệp của người làm báo đó là kiểm
chứng nguồn tin. Có thể nói đây là cơng việc hết sức cần thiết của phóng viên
và biên tập viên. Lãnh đạo tịa soạn cũng như cơng chúng nói chung khơng có
điều kiện tiếp cận và kiểm chứng nguồn tin, mà ủy quyền cho nhà báo làm việc
này với đầy đủ trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ nghề nghiệp trong thuật ngữ
“nhà báo”. Đó là một trong những khía cạnh trách nhiệm xã hội cao cả của nhà
báo, để luôn luôn bảo đảm rằng, nguồn tin nhà báo cung cấp cho cơng chúng
bảo đảm độ tin cậy. Có những cơ quan báo chí đặt ra yêu cầu trong mỗi tác
phẩm báo chí, về cùng một sự kiện hay vấn đề thơng tin, cần có ít nhất hai
nguồn tin.


2.3. Hoạt động phân tích dữ liệu và viết.
Cơng đoạn này trên thực tế rất khó phân tách và tùy theo phong cách sáng tạo
của mỗi người. Tuy nhiên, đối với những vấn đề phức tạp, nhất là viết điều tra
hay bình luận, địi hỏi nhà báo khơng chỉ thẩm định tính pháp lý của tư liệu mà
cịn phải phân tích và phân loại tư liệu; trên cơ sở ấy thiết lập chủ đề và các mối
quan hệ của hệ thống dữ liệu với chủ đề xác định công bố loại nào và chưa công
bố loại nào hoặc thiết lập hệ thống các luận điểm, luận cứ, luận chứng cho bài
viết.
Một hoạt động khác của q trình hoạt động báo chí là biên tập, lên trang
(chương trình), duyệt, in ấn (sản xuất). Đây chủ yếu là công việc của biên tập
viên, thư ký tòa soạn (hoặc Lãnh đạo phòng, ban do tổng biên tập phân cơng).
Nhưng trước hết, nhà báo (phóng viên phải tự biên tập tác phẩm của mình một
cách nghiêm túc. Quy trình (hay cơng nghệ) biên tập của tịa soạn phải được
thiết lập chặt chẽ với chế độ trách nhiệm rõ ràng, do các biên tập viên có trình
13


độ, kinh nghiệm và bản lĩnh đảm trách. Lao động biên tập đòi hỏi những phẩm
chất và năng lực đặc thù.
Tổ chức phát hành, lên sóng tác phẩm báo chí truyền thơng là khâu quan trọng
mang tác phẩm báo chí tới công chúng. Đối với báo in, công việc tổ chức phát
hành có vai trị rất quan trọng. Phát hành phải gắn với việc nắm bắt thị trường
và nghiên cứu công chúng phải đo đếm được từng ngày chỉ số phát hành ở các
thị trường khác nhau, cũng như quan sát hành vi mua, đọc báo của công chúng
một cách nghiêm túc và có nghề, trên cơ sở ấy phân tích cơng chúng - khách
hàng - thị trường và có những phán đoán và giải pháp phù hợp cho việc phát
triển sản phẩm báo chí tiếp theo.

2.4. Tiếp nhận phản hồi từ dư luận đối với tác phẩm báo chí
Đây là một khâu quan trọng giúp cho việc xác định tầm ảnh hưởng của sản

phẩm thơng tin báo chí tới cơng chúng là tiền đề cho việc dự đốn nhu cầu
thông tin cũng như những đặc điểm về tri thức, kinh tế, xã hội, văn hóa, truyền
thống... của cơng chúng, từ đó định hình các sản phẩm báo chí tiếp theo cho
công chúng.
Theo dõi và xử lý phản hồi vừa là trách nhiệm của nhà báo - với tư cách là tác
giả, vừa là công việc quan trọng của cơ quan báo chí. Bộ phận này, báo chí
truyền thống gọi là Ban bạn đọc; đối với báo chí hiện đại, gọi là Ban truyền
thông và quan hệ công chúng (tuy nhiên cách gọi tùy theo mỗi toà soạn).Những
cơ quan báo chí lớn cần phải có bộ phận hệ cơng chúng (Public relation PR), mới có thể xử lý nghiệp, hiệu quả. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy
và lập các mối quan hệ công việc của bộ phận PR trong mỗi loại quan, cơng sở
có sự khác nhau, cần được thiết kế một cách khoa học -thực tế.
Phân tích quy trình sản xuất tin tức, sản xuất và truyền tải, quảng bá sản phẩm
báo chí tới cơng chúng xã hội để qua đó nhận diện và phân loại các dạng thức
lao động trong báo chí.
14


Nhận diện đặc điểm và yêu cầu của mỗi dạng thức lao động trong quá trình sản
xuất, quảng bá sản phẩm báo chí, cũng như mỗi vị trí cơng việc trong tịa soạn.
Phân tích quy trình sản xuất tin tức, sản xuất và truyền tải, quảng bá sản phẩm
báo chí tới cơng chúng xã hội để qua đó nhận diện và phân loại các dạng thức
lao động trong báo chí.
Nhận diện đặc điểm và yêu cầu của mỗi dạng thức lao động trong quá trình sản
xuất, quảng bá sản phẩm báo chí, cũng như mỗi vị trí cơng việc trong tịa soạn;
nghiên cứu, tổng kết các mơ thức tổ chức tịa soạn để đổi mới, thậm chí cải tổ
nó cho phù hợp môi trường truyền thông số đáp ứng công chúng báo chí đương
đại. Đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay đổi mới mơ hình tổ chức tịa soạn,
đổi mới hoạt động báo chí trong mơi trường truyền thơng số cạnh tranh như
hiện nay, có thể coi như cuộc cách mạng trong cách mạng 4.0.


Chương 3: Lao động sáng tạo trong báo chí
Trong lao động báo chí cần có 3 loại hình chính

3.1. Lao động tổ chức - quản lý của cán bộ lãnh đạo các ban biên tập, các
tịa soạn, phịng biên tập.
Loại hình sáng tạo này được đặc trưng bởi khả năng đạt được những kết quả
tích cực trong việc làm kế hoạch, tổ chức hoạt động tập thể, trong việc lựa chọn
và bố trí các bộ, trong việc tạo điều kiện, bảo đảm cho sự thống nhất của các
hình thức sáng tạo cá nhân và tập thể.Không chỉ thực tiễn mà cả sự nghiên cứu
khái quát, tổng kết lý luận báo chí cũng chỉ ra bản chất sáng tạo của lao động tổ
chức quản lý.
Có thể thấy ở mỗi ban biên tập xuất hiện các nhiệm vụ:
15


- Khẳng định vị trí, vai trị của tờ báo minh trong hệ thống báo chỉ chung của cả
nước.
- Hình thành các phương tiện đặc trưng đối với tờ báo để thực hiện các chức
năng thông tin - xã hội của nó.
- Thường xun bảo đảm nội dung và hình thức tờ báo phù hợp với những yêu
cầu do tình hình và nhiệm vụ thực tiễn đặt ra.
Sự sáng tạo của lãnh đạo ban biên tập được thể hiện trước hết ở hoạt động có
hiệu quả trong việc hình thành tập thể ban biên tập nhằm quản lý quá trình sáng
tạo trong cơ quan báo chí. Ở đây, quy mơ hoạt động có ý nghĩa quan trọng.
Lãnh đạo ban biên tập các cơ quan báo chí Trung ương phức tạp hơn nhiều so
với các cơ quan báo chí địa phương. Tuy nhiên, ngay trong sự dị biệt lớn về
khối lượng cơng việc ấy thì bản chất cơng việc vẫn chỉ có một: lãnh đạo ban
biên tập như một cơ thể sống, một nhân cách, đại diện cho một nghề nghiệp
sáng tạo trong quá trình tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cơng tác của mình. Khó
khăn về mặt tâm lý trong hoạt động của cán bộ lãnh đạo báo chí là việc nhận

thức các nhân tố đảm bảo cho sự phát huy tích cực các tiềm năng sáng tạo của
cả tập thể. Cái “tôi" sáng tạo của cán bộ quản lý thể hiện trong cái “chúng tôi”
sáng tạo cửa cả tập thể cơ quan tịa soạn. Đó cũng là u cầu có tính ngun tắc
đối với cán bộ quản lý các cơ quan báo chí. Sự lao động sáng tạo của cán bộ
lãnh đạo các cơ quan báo chí khơng chỉ thể hiện trong việc quản lý tập thể ban
biên tập như một hệ thống sản xuất, trong việc lựa chọn bố trí cán bộ hay trong
việc duy trì và củng cố kỷ luật lao động... Hoạt động của ban biên tập báo chỉ
mang tính chất hai mặt: sản xuất và sáng tạo. Điều ấy đòi hỏi phải xem xét đầy
đủ các mối quan hệ hình thức chức danh được ấn định theo biên chế, cũng như
những tác động qua lại giữa các nhà báo trong quá trình lao động sáng tạo. Trên
thực tế, do sự chi phối của các yếu tố tư tưởng, tình cảm, văn hóa, truyền
thống... có sự hình thành tự phát các nhóm nhà báo. Vấn đề đặt ra đối với lãnh
đạo ban biên tập không phải là xóa bỏ các nhóm đó, mà là tìm hiểu những đặc
trưng định hướng của từng cá nhân, từng nhóm cán bộ, điều hịa các mối quan
16


hệ xã hội và nghề nghiệp nhằm mục đích sử dụng những định hướng quan hệ tự
phát đó để tích cực hóa hoạt động của mỗi nhà báo, hạn chế thấp nhất những bất
đồng trong nội bộ. Nguyên tắc giải quyết vấn để này là phải bảo đảm sự công
bằng, hợp lý trong các mối quan hệ lợi ích. Đây là điều kiện quan trọng bảo
đảm sự vận động bình thường của mỗi tịa soạn, mỗi cơ quan báo chí. Sự sáng
tạo của người lãnh đạo các ban biên tập nhằm vào việc xử lý một khối lượng
lớn thông tin. Cơng việc này ảnh hưởng đến chính hoạt động của các nhà báo và
hướng dẫn nội dung của các hoạt động đó. Sự ảnh hưởng này có cơ sở từ cách
lựa chọn, sử dụng các thông tin, tổ chức chúng theo yêu cầu chung của tờ báo
hay chương trình phát sóng.

3.2. Lao động gián tiếp xã hội.
Đối với nhà báo, giao tiếp xã hội rộng là một yêu cầu nghề nghiệp, một hoạt

động địi hỏi tính chất sáng tạo và năng động. Phần lớn các trường hợp, nhà báo
thu thập tài liệu, tích lũy thơng tin cho tác phẩm tương lai của mình thơng qua
hoạt động giao tiếp với nguồn tin - những cá nhân rất khác nhau trong xã hội.
Chất lượng tác phẩm tương lai một phần quyết định phụ thuộc vào khả năng của
nhà báo trong việc tiếp cận, thuyết phục nguồn tin để khai thác thông tin. Mặt
khác, nhà báo là người tổ chức khám phá ra những sáng kiến, khả năng và điều
kiện mà dựa vào đó để động viên cơng chúng hợp tác thường xun với cơ quan
báo chí của mình. Sự hợp tác đó trở thành một trong những hình thức sáng tạo
của quần chúng, cho phép nhanh chóng phản ánh những tâm tư, nguyện vọng,
tư tưởng mới trong đời sống xã hội lên các phương tiện thơng tin đại chúng.
Tính chất sáng tạo trong loại hình lao động này bị quy định trước hết bởi tính
phong phú, đa dạng của đối tượng giao tiếp. Trong hoạt động nghề nghiệp của
mình, các nhà báo luôn phải tiếp xúc, trao đổi với nhiều người rất khác nhau về
văn hóa, lối sống, tính cách, nghề nghiệp, trình độ nhận thức... Để đạt được hiệu
quả giao tiếp, người làm báo cần nhanh chóng phát hiện đặc điểm tâm lý của
17


đối tượng trong các tình huống cụ thể, hình thành các giải pháp hợp lý để tạo
dựng thái độ hợp tác cởi mở của người tiếp chuyện. Ngoài vốn tri thức phong
phú, khả năng giao tiếp còn làm kết quả của sự tích lũy kinh nghiệm thực tiễn
mà chính nhà báo đã nếm trải. Bên cạnh đó, tính chất sáng tạo của loại hình lao
động báo chí cịn địi hỏi nhà báo phải có liên lạc thường xuyên với các cộng tác
viên, kích thích các khả năng sáng tạo của họ một cách có hiệu quả, làm cho họ
có sự quan tâm thực sự với công việc. Việc sử dụng tác phẩm của cộng tác viên
đòi hỏi sự trân trọng lao động và tơn trọng, giữ gìn những đặc thù về ngơn ngữ,
phương pháp tư duy... Đây chính là q trình hiệp tác giữa hai phía để cùng giải
quyết một nhiệm vụ sáng tạo.

3.3. Lao động sáng tạo văn bản tác phẩm.

Đây là loại hình lao động sáng tạo có vai trị to lớn trong báo chí. Trên thực tế,
cơng chúng tiếp nhận và đánh giá báo chí qua những bài báo - các sản phẩm
cuối cùng chứ không phải qua các sản phẩm trung gian, hay qua công tác tổ
chức, tiến hành các công việc nghề nghiệp của nhà báo. Tác phẩm báo chí
khơng chỉ đơn thuần là ‘Vật” chứa đựng thông tin của nhà báo chuyển tải đến
xã hội, nó cịn thể hiện quan điểm chính trị, lập trường công dân, năng lực nghề
nghiệp và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả. Người viết một mình thực hiện tồn bộ
quy trình sáng tạo. Tài năng của cá nhân nhà báo quy định khả năng tổ chức
thực hiện đề tài, xử lý các tài liệu, thông tin, sự lựa chọn các tình tiết, kiểu kết
cấu thích ứng và chi phối quyết định chất lượng, hiệu quả của tác phẩm. Trong
lao động sáng tạo văn bản tác phẩm báo chí, những quan điểm chính trị, tư
tưởng, ý thức trách nhiệm công dân của nhà báo thể hiện như cơ sở nhân cách,
ảnh hưởng chi phối đến chiều hướng vận động nội dung tác phẩm. Mục đích
hướng tới của nhà báo là thể hiện những nhu cầu thông tin xã hội một cách sáng
rõ, độc đáo, mang dấu ấn cá nhân. Tất nhiên, với vai trò người “chép sử thời
đại”, nhà báo trở thành người đầu tiên phát hiện các sự kiện, hiện tượng, vấn đề
18


thời sự. Phương thức quan trọng nhất trong lao động sáng tạo của nhiệm vụ phải
nhằm phát hiện cái mới, kết hợp cái truyền thống, các tri thức tích lũy với
những quan hệ mới phát hiện để phản ánh hiện thực đang diễn ra một cách cụ
thể, sinh động và khách quan.

19


Phần kết luận
Các loại hình lao động của nhà báo tồn tại như sự mơ hình hóa hoạt động báo
chí. Sự phân loại này chủ yếu nhằm nhận thức rõ tính đặc thù của mỗi loại hình

để hình thành các phương pháp giải quyết tích cực. Tuy nhiên, trên thực tế, mỗi
nhà báo thường thể hiện minh trong một số loại hình báo chí khác nhau. Vì thế,
trong làng báo, khơng ít nhà báo có “tay nghề tổng hợp”. Với một số tính chất
gần gũi về phương pháp luận, tồn tại những khả năng thực tế cho các nhà báo
thể nghiệm mình ở các loại hình khác nhau. Một khi lao động với thực tiễn xã
hội thì vẫn cịn xuất hiện những tình huống, trong đó chỉ nhà báo có khả năng
tổng hợp mới giải quyết được nhiệm vụ nghề nghiệp. Lao động trong báo chí
ln địi hỏi năng lực cá nhân đặc thù và sự phong phú về tri thức cung các kỹ
năng nghề nghiệp. Tính chất hoạt động báo chí khơng cho phép tách rời, hạ thấp
những sản phẩm chính trị, đạo đức, nhân cách ra khỏi các ngón nghề, các kỹ
xảo, kỹ năng lao động. Một loạt yêu cầu, kỹ năng của lao động sáng tạo báo chí
sẽ được đề cập trong các mơn học chun ngành khác.

20



×