Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Luan Van Than_2013.Doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.34 KB, 84 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là bệnh nhiễm vi rút cấp tính, gây dịch
do muỗi truyền bởi 4 típ vi rút Dengue. Bệnh có tốc độ lây lan mạnh nhất trên
thế giới. Trong vòng 50 năm qua, tỷ lệ mắc bệnh SXHD trên thế giới đã tăng
30 lần. Bệnh lan rộng ra nhiều quốc gia mới, từ khu vực thành thị đến nơng
thơn. Ước tính hàng năm có 50 triệu người nhiễm vi rút Dengue và 2,5 tỷ
người sống trong vùng có vi rút Dengue lưu hành . Tại Việt Nam, bệnh SXHD
đã và đang là vấn đề y tế nghiêm trọng. Với số mắc và chết do SXHD cao hàng
đầu trong các nước thuộc khu vực Tây Thái Bình Dương, trung bình hàng năm
ghi nhận khoảng 100.000 người mắc bệnh và bệnh đang có xu hướng gia tăng
trong những năm gần đây . Tại Hà Nội, SXHD là bệnh lưu hành địa phương, từ
năm 2006-2011, ghi nhận 30.665 trường hợp mắc và 4 ca tử vong, trong đó ghi
nhận một vụ dịch lớn vào năm 2009 với 16.090 ca. Số ca mắc SXHD trung
bình/năm là 5.110 và tỷ lệ chết trên mắc là 0,013%. Số mắc SXHD tập trung
yếu ở khu vực nội thành là tại các quận trọng điểm như Hoàn Kiếm, Đống Đa,
Hai Bà Trưng, Thanh Xn, Hồng Mai, Thanh Trì chiếm 77,2% tổng số ca
mắc, trong đó Đống Đa là một trong các quận có số mắc cao nhất . Với số mắc
ngày càng gia tăng, bệnh SXHD đã và đang tác động lớn đến các khu vực có
dịch bệnh này lưu hành, ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế của các gia đình và
xã hội.
SXHD là một trong 28 bệnh truyền nhiễm bắt buộc phải báo cáo và
giám sát trong hệ thống giám sát bệnh truyền nhiễm của Bộ Y tế, là một trong
số ít các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đối với cộng đồng được đưa vào
chương trình mục tiêu quốc gia về y tế giai đoạn 2012-2015 , . Hệ thống giám
sát và phòng chống bệnh SXHD tại Hà Nội hiện nay hoạt động dựa theo hướng
dẫn hoạt động của chương trình mục tiêu quốc gia, hệ thống này hoạt động


2



thường xuyên và nhất quán từ tuyến xã, phường lên thành phố. Chiến lược
phòng chống chủ yếu dựa vào phát hiện sớm các trường hợp mắc tại cộng
đồng và triển khai các biện pháp đáp ứng kịp thời nhằm làm giảm tỷ lệ mắc và
hạn chế tử vong, trong đó có vai trị quan trọng của cán bộ y tế tại các tuyến
đặc biệt là tại các Trạm Y tế xã, phường.
Các hoạt động trong chương trình phịng chống SXHD quốc gia bao
gồm: Thành lập Ban điều hành tại các tuyến, tập huấn nâng cao trình độ
chun mơn nghiệp vụ cho cán bộ y tế, tuyên truyền giáo dục cộng đồng chủ
động phòng bệnh, xác định các vùng trọng điểm, xã, phường trọng điểm,
thành lập và duy trì hoạt động mạng lưới cộng tác viên tại các xã phường trọng
điểm, triển khai các hoạt động phòng chống véc tơ tại cộng đồng, hợp tác,
nghiên cứu khoa học trong phòng chống bệnh….
Cho tới nay đã có một số nghiên cứu về kiến thức và thực hành phòng
chống SXHD. Một số nghiên cứu trên thế giới về kiến thức và thực hành phát
hiện và đáp ứng phòng chống SXHD cho thấy 89,9% cán bộ làm cơng tác
chăm sóc sức khỏe ban đầu có kiến thức về phịng chống SXHD, nhưng có sự
khác nhau đáng kể về kiến thức và thực hành giữa cán bộ y tế ở các nhóm tuổi
khác nhau . 54% người dân có kiến thức tốt về triệu chứng và cách lây truyền
bệnh, 47% cho rằng bệnh SXHD nguy hiểm nhưng có thể phịng được . Tại
Việt Nam và Hà Nội một số nghiên cứu cho thấy kiến thức về giám sát bệnh
truyền nhiễm của cán bộ y tế tuyến xã còn chưa tốt (38,5% xếp loại kém) ,
người dân có kiến thức đúng về SXHD là 50%, thái độ đúng là 57%, thực hành
đúng chỉ chiếm 26% . Tỉ lệ học sinh có kiến thức, thái độ và thực hành đúng
trong phòng chống sốt xuất huyết trước khi triển khai dự án can thiệp tương
ứng là 58,6%; 75,9%; 48,7%, sau can thiệp tăng lên tương ứng 93,2%; 82,2%;
80,1% . Tuy nhiên các nghiên cứu này mới tập trung chủ yếu vào đối tượng là
người dân, học sinh mà ít có các nghiên cứu về kiến thức và thực hành phát



3

hiện và đáp ứng phòng chống SXHD của cán bộ Y tế cơ sở, nhất là cán bộ y tế
tại tuyến xã.
Theo quy định của Bộ Y tế, vai trò của cán bộ y tế Trạm Y tế xã,
phường trong cơng tác giám sát phát hiện và đáp ứng phịng chống bệnh truyền
nhiễm nói chung và bệnh SXHD nói riêng là vô cùng quan trọng. Cán bộ y tế
xã, phường là đầu mối nhận thông tin về dịch bệnh từ người dân, cộng tác viên
y tế báo lên và từ các Trung tâm Y tế báo về, đồng thời cán bộ y tế xã, phường
cũng là người trực tiếp triển khai điều tra và tổ chức các biện pháp chống dịch
tại cộng đồng . Nhưng cho đến nay vẫn chưa có một đánh giá nào về thực trạng
kiến thức và thực hành về phòng chống SXHD của cán bộ y tế tuyến xã,
phường tại Hà Nội nhất là tại các địa bàn trọng điểm về SXHD, nên câu hỏi
nghiên cứu được đặt ra là: Kiến thức, kỹ năng thực hành về phòng chống
SXHD của cán bộ y tế tại địa bàn hiện nay ra sao? Kiến thức, thực hành của
cán bộ y tế tại các phường trọng điểm có tốt hơn các phường còn lại? Do vậy,
trước những yêu cầu trên, chúng tôi thực hiện đề tài “Kiến thức và thực hành
trong phát hiện và đáp ứng phòng chống sốt xuất huyết Dengue của cán
bộ y tế tại quận Đống Đa thành phố Hà Nội năm 2012”, gồm các mục tiêu
sau:
1.

2.

3.

Mô tả kiến thức trong phát hiện và đáp ứng phòng chống bệnh sốt xuất
huyết Dengue của cán bộ y tế tuyến phường tại quận Đống Đa thành
phố Hà Nội năm 2012.
Mô tả thực hành phát hiện và đáp ứng phòng chống bệnh sốt xuất huyết

Dengue của cán bộ y tế tuyến phường tại quận Đống Đa thành phố Hà
Nội năm 2012.
So sánh kiến thức, thực hành trong phát hiện và đáp ứng phòng chống
bệnh sốt xuất huyết Dengue của cán bộ y tế phường trọng điểm về sốt
xuất huyết Dengue với các phường còn lại tại quận Đống Đa thành phố
Hà Nội năm 2012.


4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm bệnh SXHD
SXHD là bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm B theo phân loại bệnh truyền
nhiễm của Bộ Y tế .
1.1.1. Tác nhân gây bệnh
Bệnh SXHD do vi rút Dengue thuộc giống Flaviviridae, họ Togaviridae
gây nên. Vi rút Dengue có 3 ổ chứa là người, muỗi và một số động vật thuộc
nhóm linh trưởng như vượn, hắc tinh tinh. Có 4 típ huyết thanh là DEN-1,
DEN-2, DEN-3, DEN-4. Nếu nhiễm một trong 4 típ này, sẽ tạo được miễn dịch
suốt đời với vi rút có típ huyết thanh đó. Mặc dù cả 4 típ huyết thanh có kháng
nguyên chung là đặc hiệu nhóm, song chỉ tạo ra việc bảo vệ chéo được một vài
tháng sau khi nhiễm trùng với bất kỳ típ huyết thanh nào. Ở Việt Nam đã phân
lập được cả 4 týp vi rút Dengue .
1.1.2. Véc tơ truyền bệnh
Bệnh SXHD do muỗi Aedes cái truyền. Ở khu vực Đông Nam Á,
muỗi Aedes aegypti (Ae.aegypti) là véc tơ chính trong các vụ dịch SXHD.
Muỗi Aedes albopictus (Ae.albopictus) được xác định là véc tơ thứ hai
nhưng cũng là nguồn duy trì vi rút quan trọng . Tuy nhiên tại Việt Nam,
muỗi Ae.albopictus chỉ có mặt trong một số ít các vụ dịch với chỉ số mật độ

rất thấp và cũng chưa có kết quả phân lập vi rút Dengue dương tính từ
Ae.albopictus .
Aedes aegypti có vịng đời biến thái hoàn toàn với ấu trùng sống trong
nước, chu kỳ phát triển gồm 4 giai đoạn: trứng, bọ gậy, quăng và muỗi trưởng
thành, trong đó chỉ có giai đoạn trưởng thành liên quan trực tiếp với việc


5

truyền bệnh. Thời gian trung bình từ trứng đến muỗi trưởng thành trong điều
kiện thí nghiệm là 8,35 ngày, dài nhất 10 ngày, ngắn nhất 7 ngày .
Muỗi trưởng thành có mầu đen hoặc nâu đen với nhiều đốm trắng bạc ở
thân và chân. Muỗi cái trưởng thành có thể giao phối trong không gian hẹp, hút
máu người hoặc động vật, nhưng thích hút máu người nhiều hơn, thời gian
hoạt động chủ yếu vào buổi sáng sớm và chiều tối. Muỗi cái thường sống trong
nhà, nơi kín gió, trú đậu ở cả nơi tối và sáng, đặc biệt ở nơi treo các loại quần
áo đang mặc dở, chăn màn (68-71%) . Do đó biện pháp phun hố chất tồn lưu
trên tường để diệt Aedes aegypti trong các vụ dịch đã khơng được áp dụng vì
rất ít hiệu quả. Muỗi Aedes chỉ đẻ trứng ở những nơi chứa nước sạch như bể,
chum vại, các dụng cụ phế thải. Vì vậy việc cọ rửa các dụng cụ chứa nước và
thu dọn phế thải là biện pháp hữu hiệu để phòng chống bệnh SXHD.
1.1.3. Nguồn bệnh và khối cảm thụ
Tất cả mọi người đều có khả năng mắc bệnh SXHD và người là vật chủ
duy nhất với sự nhiễm đa dạng, từ nhiễm thể ẩn khơng triệu chứng đến có biểu
hiện lâm sàng nhẹ hoặc tình trạng xuất huyết nặng, sốc và tử vong .
Sau khi nhiễm với típ Dengue nào thì có miễn dịch lâu dài với típ
Dengue đó nhưng chỉ bảo vệ được một phần và tạm thời với 3 típ còn lại. Sau
thời kỳ ủ bệnh (thường kéo dài từ 3 đến 14 ngày), bệnh khởi phát đột ngột với
sốt cao kèm theo các triệu chứng không đặc hiệu như đau đầu, đau hốc mắt,
mỏi cơ khớp, mệt mỏi, phát ban. Sau đó các dấu hiệu xuất huyết như dấu hiệu

dây thắt dương tính, chấm, mảng xuất huyết, chảy máu chân răng, chảy máu
cam, kinh nguyệt kéo dài hoặc xuất hiện sớm, ỉa phân đen…Giai đoạn sốt cấp
tính có thể kéo dài từ 2 – 7 ngày. Khả năng truyền vi rút sang người lành được
thực hiện khi muỗi hút máu bệnh nhân ở giai đoạn vi rút huyết (từ 6-18 giờ
trước đến khoảng 5 ngày sau khi bệnh khởi phát). Như vậy bệnh nhân là nguồn
lây ngay trước thời kỳ sốt cho đến cuối giai đoạn sốt, trung bình thời gian lây


6

là 6 -7 ngày. Bên cạnh bệnh nhân, những người nhiễm vi rút nhưng khơng có
biểu hiện lâm sàng cũng là một nguồn lây bệnh đáng chú ý .
1.1.4. Diễn biến của bệnh SXHD
Bệnh SXHD có biểu hiện lâm sàng đa dạng, diễn biến nhanh chóng từ
nhẹ đến nặng. Bệnh thường khởi phát đột ngột và diễn biến qua ba giai đoạn:
giai đoạn sốt, giai đoạn nguy hiểm và giai đoạn hồi phục. Phát hiện sớm bệnh
và hiểu rõ những vấn đề lâm sàng trong từng giai đoạn của bệnh giúp chẩn
đoán sớm, điều trị đúng và kịp thời, nhằm cứu sống người bệnh.
Giai đoạn sốt bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng: Sốt cao đột ngột, liên tục,
nhức đầu, chán ăn, buồn nôn, da xung huyết, đau cơ, đau khớp, nhức hai hố
mắt, nghiệm pháp dây thắt dương tính, thường có chấm xuất huyết ở dưới da,
chảy máu chân răng hoặc chảy máu cam.
Giai đoạn nguy hiểm: Thường vào ngày thứ 3-7 của bệnh, người bệnh có thể
cịn sốt hoặc đã giảm sốt và có thể các biểu hiện sau:
- Biểu hiện thốt huyết tương do tăng tính thấm thành mạch (thường kéo dài
24-48 giờ):
+ Tràn dịch màng phổi, mơ kẽ, màng bụng, nề mi mắt, gan to, có thể
đau.
+ Nếu thoát huyết tương nhiều sẽ dẫn đến sốc với các biểu hiện vật vã,
bứt rứt hoặc li bì, lạnh đầu chi, da lạnh ẩm, mạch nhanh nhỏ, huyết áp kẹt (hiệu

số huyết áp tối đa và tối thiểu ≤ 20 mmHg), tụt huyết áp hoặc không đo được
huyết áp, tiểu ít.
- Xuất huyết:
+ Xuất huyết dưới da: Nốt xuất huyết rải rác hoặc chấm xuất huyết
thường ở mặt trước hai cẳng chân và mặt trong hai cánh tay, bụng, đùi, mạng
sườn hoặc mảng bầm tím.


7

+ Xuất huyết ở niêm mạc: Chảy máu mũi, lợi, tiểu ra máu. Kinh nguyệt
kéo dài hoặc xuất hiện kinh sớm hơn kỳ hạn.
+ Xuất huyết nội tạng như tiêu hóa, phổi, não là biểu hiện nặng.
Một số trường hợp nặng có thể có biểu hiện suy tạng như viêm gan
nặng, viêm não, viêm cơ tim. Những biểu hiện nặng này có thể xảy ra ở một số
người bệnh khơng có dấu hiệu thốt huyết tương rõ hoặc khơng sốc.
Giai đoạn hồi phục: Sau 24-48 giờ của giai đoạn nguy hiểm, có hiện tượng tái
hấp thu dần dịch từ mơ kẽ vào bên trong lòng mạch. Giai đoạn này kéo dài 4872 giờ.
- Người bệnh hết sốt, toàn trạng tốt lên, thèm ăn, huyết động ổn định và
tiểu nhiều.
- Có thể có nhịp tim chậm và thay đổi về điện tâm đồ.
- Trong giai đoạn này, nếu truyền dịch quá mức có thể gây ra phù phổi
hoặc suy tim.
1.1.5. Phân loại
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, bệnh SXHD phân thành 3 mức độ :
- SXHD.
- SXHD có dấu hiệu cảnh báo.
- SXHD nặng.
* SXHD
a) Lâm sàng

Sốt cao đột ngột, liên tục từ 2-7 ngày và có ít nhất 2 trong các dấu hiệu sau:
- Biểu hiện xuất huyết có thể như nghiệm pháp dây thắt dương tính,
chấm xuất huyết ở dưới da, chảy máu chân răng hoặc chảy máu cam.
- Nhức đầu, chán ăn, buồn nôn.
- Da xung huyết, phát ban.
- Đau cơ, đau khớp, nhức hai hố mắt.


8

b) Cận lâm sàng
- Hematocrit bình thường (khơng có biểu hiện cô đặc máu) hoặc tăng.
- Số lượng tiểu cầu bình thường hoặc hơi giảm.
- Số lượng bạch cầu thường giảm.
* SXHD có dấu hiệu cảnh báo.
Bao gồm các triệu chứng lâm sàng của SXHD, kèm theo các dấu hiệu cảnh báo
sau:
- Vật vã, lừ đừ, li bì.
- Đau bụng vùng gan hoặc ấn đau vùng gan.
- Gan to > 2 cm.
- Nôn - nhiều.
- Xuất huyết niêm mạc.
- Tiểu ít.
- Xét nghiệm máu:
+ Hematocrit tăng cao.
+ Tiểu cầu giảm nhanh chóng.
Nếu người bệnh có những dấu hiệu cảnh báo trên phải theo dõi sát
mạch, huyết áp, số lượng nước tiểu, làm xét nghiệm hematocrit, tiểu cầu và có
chỉ định truyền dịch kịp thời.
* SXHD nặng

Khi người bệnh có một trong các biểu hiện sau:
- Thoát huyết tương nặng dẫn đến sốc giảm thể tích (Sốc SXHD), ứ dịch
ở khoang màng phổi và ổ bụng nhiều.
- Xuất huyết nặng.
- Suy tạng.
a) Sốc SXHD


9

- Suy tuần hoàn cấp, thưởng xảy ra vào ngày thứ 3-7 của bệnh, biểu hiện
bởi các triệu chứng như vật vã; bứt rứt hoặc li bì; lạnh đầu chi, da lạnh ẩm;
mạch nhanh nhỏ, huyết áp kẹt (hiệu số huyết áp tối đa và tối thiểu ≤ 20 mmHg)
hoặc tụt huyết áp hoặc không đo được huyết áp; tiểu ít.
- Sốc SXHD được chia ra 2 mức độ để điều trị bù dịch:
+ Sốc SXHD: Có dấu hiệu suy tuần hoàn, mạch nhanh nhỏ, huyết áp kẹt
hoặc tụt, kèm theo các triệu chứng như da lạnh, ẩm, bứt rứt hoặc vật vã li bì.
+ Sốc SXHD nặng: Sốc nặng, mạch nhỏ khó bắt, huyết áp khơng đo
được.
- Chú ý: Trong q trình diễn biến, bệnh có thể chuyển từ mức độ nhẹ
sang mức độ nặng, vì vậy khi thăm khám cần phân độ lâm sàng để tiên lượng
bệnh và có kế hoạch xử trí thích hợp.
b) Xuất huyết nặng
- Chảy máu cam nặng (cần nhét gạc vách mũi), rong kinh nặng, xuất
huyết trong cơ và phần mềm, xuất huyết đường tiêu hóa và nội tạng, thường
kèm theo tình trạng sốc nặng, giảm tiểu cầu, thiếu oxy mô và toan chuyển hóa
có thể dẫn đến suy đa phủ tạng và đơng máu nội mạch nặng.
- Xuất huyết nặng cũng có thể xảy ra ở người bệnh dùng các thuốc
kháng viêm như acetylsalicylic acid (aspirin), ibuprofen hoặc dùng corticoid,
tiền sử loét dạ dày, tá tràng, viêm gan mạn.

c) Suy tạng nặng
- Suy gan cấp, men gan AST, ALT ≥ 1000 U/L.
- Suy thận cấp.
- Rối loạn tri giác (Sốt xuất huyết thể não).
- Viêm cơ tim, suy tim, hoặc suy chức năng các cơ quan khác.


10

1.2. Tình hình bệnh SXHD
1.2.1. Tình hình SXHD trên thế giới
Số mắc SXHD trên thế giới có xu hướng ngày càng gia tăng. Giai đoạn
1955-1959 số mắc trung bình hàng năm chỉ là 908 trường hợp, cho đến những
năm 1980-1989 con số này đã tăng vọt lên 295.591 và 884.462 trong giai đoạn
2000-2005 (biểu đồ 1.1). Chỉ tính riêng năm 1998, có tổng số 1,3 triệu ca mắc
SXHD và trên 3600 trường hợp tử vong được báo cáo cho Tổ chức Y tế Thế
giới .
Khoảng thời gian từ 1975 đến 1995 dịch đã xảy ra ở 102 nước thuộc
năm trong sáu khu vực là thành viên của Tổ chức y tế Thế giới, chỉ trừ khu vực
châu Âu, bao gồm 20 nước châu Phi, 4 nước khu vực Địa Trung Hải, 29 nước
khu vực Tây Thái Bình Dương, 42 nước thuộc châu Mỹ, 7 nước khu vực Đông
Nam Á . Cho tới nay, bệnh có tính lưu hành địa phương tại Châu Mỹ, Châu
Phi và Địa Trung Hải. Tại khu vực châu Á bệnh là gánh nặng về y tế tại các
nước có dịch lưu hành .

Biểu đồ 1.1: Xu hướng mắc bệnh SXHD trên thế giới 1955-2007


11


1.2.2. Tình hình SXHD tại Đơng Nam Á và Tây Thái Bình Dương
Tại khu vực Đơng Nam Á, từ năm 2000, dịch SXHD lan rộng đến các
khu vực mới và gia tăng tại các khu vực bệnh lưu hành sẵn có. Trong năm
2003, có 8 quốc gia bao gồm Bangladesh, Ấn Độ, Indonesia, Maldives,
Myanmar, Sri Lanka, Thái Lan và Đông Timor báo cáo các ca bệnh SXHD.
Năm 2004, Bhutan báo cáo bùng nổ dịch lần đầu tiên. Vào tháng 11 năm 2006,
Nepal báo cáo các ca SXHD tại bản địa lần đầu tiên. Cộng hòa dân chủ nhân
dân Triều Tiên là quốc gia duy nhất tại khu vực Đông Nam khơng có báo cáo
về các ca SXHD tại bản địa .
Ước tính trung bình hàng năm tại khu vực Đơng Nam Á, có khoảng
386.000 người mắc bệnh (2001-2010) và khoản 2.162 người tử vong do bệnh,
ước tính chi phí hàng năm cho bệnh là 950 triệu đô la Mỹ, trong đó chi phí trực
tiếp là 451 triệu, gián tiếp là 499 triệu. Indonesia là quốc gia chịu thiệt hại nặng
nhất, tiếp theo là Thái Lan, chi phí trung bình một năm cho 1 người dân trong
toàn khu vực là khoảng 1,65 đô la Mỹ .
Các quốc gia trong khu vực Đơng Nam Á được chia thành 4 khu vực khí
hậu khác biệt với khả năng lan truyền SXHD khác nhau. Tại các quốc gia có
khí hậu nhiệt đới gió mùa, gần xích đạo như Indonesia, Myanmar, Sri Lanka,
Thái Lan và Đông Timor, dịch SXHD là một vấn đề y tế cơng cộng quan
trọng. Muỗi Aedes aeypti có mặt ở cả khu vực thành thị và nông thôn, nhiều
tuýp huyết thanh vi rút Dengue lưu hành tại đây và SXHD là một trong những
nguyên nhân hàng đầu dẫn đến nhập viện và tử vong cho trẻ em. Các quốc gia
có vùng khí hậu khơ và ẩm như Bangladesh, Ấn Độ và Maldives, các dịch
bệnh theo chu kỳ đang gia tăng về tần suất, tỷ lệ và lan rộng về phạm vi địa lý
với sự có mặt của nhiều tuýp huyết thanh của vi rút đang lưu hành. Theo báo
cáo, tỉ lệ tử vong/mắc tại các nước trong khu vực giai đoạn 2000 – 2007 là
dưới 0,2% đến 5%, thấp nhất tại Thái Lan (dưới 0,2%) và cao nhất tại Ấn Độ,


12


Indonesia và Myanmar (3-5%). Tại Indonesia, hơn 35% dân số cả nước sống
tại khu vực thành thị, 150.000 ca bệnh được báo cáo vào năm 2007 với hơn
25.000 ca được báo cáo ở Jakarta và phía Tây Java. Tỉ lệ tử vong/mắc xấp xỉ
1%. Từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2007, Myanmar báo cáo có 9.578 ca, tỷ lệ tử
vong/mắc là hơn 1%. Tại Thái Lan, tình hình SXHD được báo cáo ở 4 khu
vực: miền Bắc, miền Trung, vùng Đông Bắc và miền Nam. Tháng 6 năm 2007,
bùng nổ dịch xuất hiện tại các tỉnh Trat, Bangkok, Chiangrai, Phetchabun,
Phitsanulok, Khamkaeng Phet, Nakhon Sawan và Phit Chit. Tổng số 58.836 ca
được báo cáo từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2007. Tỉ lệ tử vong/mắc tại Thái
Lan dưới mức 0.2% .
Tại khu vực Tây Thái Bình Dương, trong thời gian từ năm 2001-2008,
tổng số 1.020.333 ca bệnh được báo cáo tại Campuchia, Malaysia, Philippines
và Việt Nam - 4 quốc gia tại khu vực Tây Thái Bình Dương với số ca mắc và
tử vong cao nhất. Số ca tử vong tại 4 quốc gia này là 4.798 ca (báo cáo chính
thức của các quốc gia). So với các quốc gia khác trong khu vực số ca mắc và tử
vong cao nhất tại Campuchia và Philippine năm 2008 .
1.2.3. Tình hình SXHD tại Việt Nam
Tại Việt Nam, vụ dịch SXHD đầu tiên xảy ra ở miền Bắc vào năm 1958
được Chu Văn Tường và Mihow thông báo vào năm 1959 ở miền Nam vào năm
1960 với 60 bệnh nhân nhi tử vong . Từ đó bệnh trở thành dịch lưu hành địa
phương ở vùng châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long và dọc theo bờ biển miền
Trung. Bệnh không chỉ xuất hiện ở đô thị mà cả ở vùng nông thôn, nơi có muỗi
truyền bệnh SXHD . Trong giai đoạn từ 2009-2011, tại Việt Nam trung bình
hàng năm ghi nhận 101.319 trường hợp mắc, 85 trường hợp tử vong, trong đó
năm 2010 có số mắc cao nhất với 128.710 trường hợp mắc, 109 trường hợp tử
vong. Số mắc và tử vong do SXHD trong các năm chủ yếu xảy ra ở các tỉnh
phía Nam (mắc chiếm 68,6 %, tử vong chiếm 83,5% cả nước) và trẻ em dưới



13

15 tuổi là lứa tuổi mắc SXHD nhiều nhất tại khu vực phía Nam. Số mắc SXHD
gia tăng tại tất cả các khu vực vào thời điểm mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 11.
Chỉ số Breteau và chỉ số mật độ muỗi cao nhất trong thời điểm mùa mưa và
trùng với thời điểm gia tăng số mắc (từ tháng 6 đến tháng 10 hàng năm). Có cả
04 týp vi rút D1, D2, D3, D4 gây SXHD giai đoạn 2009-2011 nhưng chủ yếu
là týp D1, D2 .
Bệnh SXHD ở Việt Nam phát triển theo mùa và cũng có sự khác biệt
giữa miền Bắc và miền Nam. Ở miền Bắc bệnh thường xảy ra từ tháng 4 đến
tháng 11, những tháng khác bệnh ít xảy ra vì thời tiết lạnh, ít mưa, khơng thích
hợp cho sự sinh sản và hoạt động của Ae.aegypti. Bệnh phát triển nhiều hơn từ
tháng 6 đến tháng 10 và đỉnh cao vào tháng 7, tháng 8, tháng 9 và tháng 10. Ở
miền Nam và nam Trung bộ bệnh SXHD xuất hiện trong suốt năm với tần số
mắc nhiều hơn vào tháng 4 đến tháng 11, đỉnh cao cũng vào những tháng
7,tháng 8, tháng 9 và tháng 10 .


14

Bảng 1.1: Tình hình mắc và chết SXHD ở Việt Nam, 2000 - 2011
(Nguồn: Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống SXHD)
Tỷ lệ mắc

Năm

Số mắc

2000


24.434

/100.000 dân
32,11

2001

41.509

2002

Số chết

Tỷ lệ

52

chết/mắc (%)
0,21

51,60

82

0,20

32.031

39,03


53

0,17

2003

49.713

59,56

72

0,14

2004

78.752

92,61

114

0,14

2005

60.982

70,39


53

0,09

2006

77.818

88,6

68

0,09

2007

104.464

122,61

88

0,08

2008

91.930

106,27


90

0,09

2009

105.370

121,80

87

0,08

2010

128.710

148,8

109

0,085

2011

70.999

82,08


61

0,086

1.2.4. Tình hình SXHD tại Hà Nội
Hà Nội là một trong các tỉnh trọng điểm về SXHD của miền Bắc với số mắc
hàng năm từ hàng ngàn đến chục ngàn ca bệnh . Qua nhiều năm theo dõi cho thấy
số mắc bệnh tập trung chủ yếu ở khu vực nội thành và ven nội, nơi có tốc độ đơ
thị hố cao như: Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Hoàng Mai, Đống Đa, Thanh Xn,
Từ Liêm, Thanh Trì và Hà Đơng. Tại khu vực nội thành tình trạng thiếu nước
sạch đã dẫn tới thói quen tích trữ nước sạch của người dân và tạo ra các dụng
cụ chứa nước, tạo điều kiện thuận lợi cho muỗi truyền bệnh SXHD đẻ trứng.
Bên cạnh tình trạng thiếu nước sạch, tại khu vực nội thành tỷ lệ người dân
ngoại tỉnh, ngoại huyện đến thuê trọ sinh sống tạm bợ, ý thức vệ sinh phòng


15

chống dịch bệnh kém cũng là yếu tố lây lan và bùng phát dịch. Tại khu vực các
quận, huyện ven nội nơi có các cơng trường xây dựng kéo dài, tại đây công
nhân sống trong điều kiện tạm bợ, ý thức vệ sinh phòng chống dịch bệnh kém,
vào mùa mưa thường có nhiều dụng cụ chứa nước. Tất cả các yếu tố trên làm
tăng nguy cơ lây lan và bùng phát dịch tại khu vực nội thành và ven nội đặc
biệt là đối tượng học sinh, sinh viên và người lao động tự do chiếm tỷ lệ mắc
bệnh cao trong tổng số mắc toàn thành phố .
Về số mắc bệnh, từ năm 2006 đến 2011, hàng năm đều ghi nhận ca bệnh
SXHD ở mức cao dao động từ khoảng 1.806 đến 16.090 ca và số mắc trung
bình mỗi năm là 5.110 ca. Riêng năm 2009 ghi nhận số mắc cao nhất tới
16.090 ca và cũng là năm có số mắc cao nhất trong vòng 20 năm. Các ca bệnh
chủ yếu ở dạng tản phát hoặc trong các vụ dịch nhỏ (ngoại trừ một số ổ dịch

quy mô vừa vào năm 2009) .
Bảng 1.2: Phân bố ca mắc SXHD tại Hà Nội từ 2006-2011 theo địa dư
Quận, huyện
Hoàn Kiếm
Đống Đa
Thanh Xuân
Hai Bà Trưng
Hồng Mai
Thanh Trì
Từ Liêm
Cộng 7 quận,
huyện
Tổng cộng

Năm

Tổng

2006
114
449
488
493
723
43
41

2007
55
460

645
180
181
61
86

2008
344
344
403
364
277
65
124

2009
624
2.624
1.751
2.727
2.296
653
1.198

2010
95
432
206
719
538

84
224

2011
451
681
266
1.005
853
207
108

1.683
4.990
3.759
5.488
4.868
1.113
1.781

2.351

1.668

1.921

11.873

2.298


3.571

23.682

2.485

1.806

2.353

16.090

3.152

4.779

30.665

(Nguồn số liệu: Tình hình SXHD tại Hà Nội 2006-2011, Trần Như
Dương và cộng sự ).
Bảng 1.2 cho ta thấy số mắc SXHD trong giai đoạn từ 2006 đến 2011
tại Hà Nội chủ yếu tại các quận, huyện nội thành như Hoàn Kiếm, Đống Đa,


16

Thanh Xn, Hai Bà Trưng, Hồng Mai, Thanh Trì và Từ Liêm, chiếm 77,2%
tổng số ca mắc của toàn thành phố. Các huyện ngoại thành có số mắc thấp và
rải rác .
1.3. Các hoạt động phòng chống bệnh SXHD

Các hoạt động phịng chống bệnh SXHD tại miền Bắc chính thức được
thực hiện từ năm 1999 thông qua việc thành lập Dự án phòng chống sốt xuất
huyết khu vực miền Bắc - Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương. Trong 2 năm đầu
tiên chỉ có 10/28 tỉnh, thành phố được triển khai dự án với mơ hình “Huy động
cộng đồng trong phòng chống sốt xuất huyết”. Đến năm 2004, dự án đã triển
khai ra 18 tỉnh thành phía Bắc và từ năm 2005 tồn bộ 28 tỉnh thành phía Bắc
gồm cả các tỉnh Tây Bắc Bắc Bộ đã được triển khai dự án .
Hiện nay SXHD là một trong 28 bệnh truyền nhiễm bắt buộc phải giám
sát và báo cáo trong hệ thống giám sát bệnh truyền nhiễm của Việt Nam, các
hoạt động giám sát phát hiện và đáp ứng với bệnh SXHD được lồng ghép trong
hệ thống giám sát bệnh truyền nhiễm nói chung và được ưu tiên là một trong
các chương trình quốc gia y tế phịng chống các bệnh dịch nguy hiểm cho cộng
đồng , . Với mục tiêu là lớn là giảm tỷ lệ mắc, giảm tỷ lệ chết, khống chế
không để dịch lớn xảy ra các hoạt động phòng chống bệnh SXHD tập trung
vào việc phát hiện sớm bệnh nhân mắc bệnh, các yếu tố nguy cơ bùng phát
dịch và tổ chức các biện pháp đáp ứng chống dịch kịp thời ngay cả khi chưa có
dịch và khi đã có dịch xảy ra.
Hà Nội là tỉnh loại A về SXHD theo phân loại của Bộ Y tế, với tỷ lệ
mắc hằng năm cao nhất trong 28 tỉnh, thành phố miền Bắc . Tại Hà Nội, các
hoạt động phòng chống SXHD được triển khai tại 29/29 quận, huyện, thị xã,
577 xã, phường, thị trấn, với các nội dung hoạt động theo hướng dẫn của
chương trình phịng chống SXHD khu vực miền Bắc và Bộ Y tế, nhưng các
hoạt động ưu tiên như: thành lập mạng lưới cộng tác viên, thực hiện các chiến


17

dịch vệ sinh mơi trường diệt bọ gậy, phun hóa chất chủ động diệt muỗi trưởng
thành chỉ tập trung vào 10 quận, huyện và 60 xã, phường trọng điểm trên tồn
thành phố .

1.3.1. Khi chưa có ổ dịch
Các hoạt động giám sát và chủ động phòng chống SXHD được tiến hành
thường kỳ, thường xuyên ngay từ khi chưa có ổ dịch được thông báo bao gồm:
giám sát dịch tễ học, phòng chống véc tơ chủ động và chuẩn bị sẵn sàng thuốc
hóa chất phương tiện, nhân lực phục vụ chống dịch khi có dịch xảy ra .
Giám sát dịch tễ: Bao gồm giám sát véc tơ (muỗi, bọ gậy) và giám sát
tính nhạy cảm của véc tơ với các hóa chất diệt côn trùng, giám sát bệnh nhân,
giám sát huyết thanh và vi rút. Theo dõi diễn biến thời tiết, mơi trường và kết
quả biện pháp phịng chống chủ động. Giám sát véc tơ nhằm xác định nguồn
sinh sản chủ yếu của muỗi truyền bệnh, sự biến động của véc tơ, tính nhạy cảm
của véc tơ với các hóa chất diệt cơn trùng và đánh giá hoạt động phịng chống
véc tơ tại cộng đồng. Điểm giám sát véc tơ được lựa chọn tại xã điểm và hai
điểm không thuộc xã điểm . Giám sát muỗi trưởng thành bằng phương pháp
soi bắt muỗi đậu nghỉ trong nhà bằng ống tuýp hoặc máy hút cầm tay. Giám
sát bọ gậy thường xuyên: 1 tháng 1 lần cùng với giám sát muỗi trưởng thành.
Sau khi bắt muỗi, tiến hành điều tra bọ gậy bằng quan sát, ghi nhận ở toàn bộ
dụng cụ chứa nước trong và quanh nhà. Giám sát ổ bọ gậy nguồn: Phương
pháp này dựa vào kết quả đếm toàn bộ số lượng bọ gậy Aedes trong các chủng
loại dụng cụ chứa nước khác nhau để xác định nguồn phát sinh muỗi Aedes
chủ yếu của từng địa phương theo mùa trong năm hoặc theo từng giai đoạn để
điều chỉnh, bổ sung các biện pháp tun truyền và phịng chống véc tơ thích
hợp. Giám sát độ nhạy cảm và thử sinh học của muỗi Aedes aegypti, Aedes
albopictus đối với các hóa chất diệt côn trùng trước mùa dịch


18

Phòng chống véc tơ chủ động: Thực hiện thường xuyên ngay từ khi
chưa có dịch, bao gồm: tuyên truyền nâng cao nhận thức về SXHD và huy
động sự tham gia của cộng đồng phát hiện loại bỏ ổ bọ gậy: loại bỏ các vật

dụng phế thải, sử dụng tác nhân sinh học diệt bọ gậy (thả cá, thả mesocyclops,
tập huấn cho lãnh đạo chính quyền, các ban ngành đồn thể, mạng lưới y tế,
cộng tác viên, giáo viên, học sinh nhà trường về bệnh SXHD, các hoạt động cụ
thể loại trừ nơi sinh sản của véc tơ, điều tra xác định ổ bọ gậy nguồn tại địa
phương và biện pháp xử lý thích hợp cho từng chủng loại ổ bọ gậy, tổ chức các
hoạt động diệt bọ gậy thường xuyên đến từng hộ gia đình thơng qua hoạt động
của cộng tác viên y tế, học sinh và các tổ chức quần chúng (thả cá, thả
mesocyclops, đậy nắp, loại bỏ vật dụng phế thải, phun chủ động hóa chất diệt
muỗi tại những nơi có nguy cơ cao.
Giám sát bệnh nhân SXHD:
Ca bệnh giám sát:
Người sống hoặc đến từ vùng có ổ dịch hoặc lưu hành SXHD trong
vịng 14 ngày có biểu hiện sốt cao đột ngột, liên tục từ 2-7 ngày và có ít nhất 2
trong các dấu hiệu sau:
- Biểu hiện xuất huyết có thể ở nhiều mức độ khác nhau như: nghiệm
pháp dây thắt dương tính, chấm/mảng xuất huyết ở dưới da, chảy máu chân
răng hoặc chảy máu cam.
+ Nhức đầu, chán ăn, buồn nôn, nôn.
+ Da xung huyết, phát ban.
+ Đau cơ, đau khớp, nhức hai hố mắt.
+ Vật vã, li bì.
+ Đau bụng vùng gan hoặc ấn đau vùng gan.
Ca bệnh xác định:


19

Là ca bệnh được chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm (bằng các kỹ
thuật: Mac - Elisa, PCR, NS1 hoặc phân lập vi rút).
Giám sát huyết thanh và vi rút Dengue: Thu thập bệnh phẩm của

bệnh nhân trong diện giám sát để xét nghiệm huyết thanh và vi rút học. Những
mẫu máu trong vòng 5 ngày kể từ ngày khởi phát dùng để chẩn đốn xác định
và định típ vi rút Dengue bằng phân lập vi rút và xác định vật liệu di truyền
hoặc kháng nguyên. Những mẫu máu sau 5 ngày kể từ ngày khởi phát dùng để
chẩn đoán xác định nhiễm vi rút Dengue bằng phát hiện kháng thể IgM.
Tổ chức sẵn sàng chống dịch: Xây dựng kế hoạch phòng chống SXHD
hàng năm của các cấp, chuẩn bị sẵn sàng nhân lực bao gồm đội chống dịch cơ
động gồm: cán bộ điều trị, dịch tễ, côn trùng được trang bị đủ hóa chất, máy
móc, phương tiện.
1.3.2. Khi có ổ dịch
Khi có ổ dịch SXHD cùng với việc điều trị cấp cứu bệnh nhân mắc bệnh
cần thực hiện các biện pháp đáp ứng phòng chống dịch lây lan, bao gồm: Phun
hóa chất diệt muỗi, giám sát phát hiện bệnh nhân mới và giám sát véc tơ, tuyên
truyền huy động cộng đồng tham gia phòng chống dịch, tổ chức các chiến dịch
vệ sinh môi trường diệt bọ gậy .
1.3.3. Hệ thống thông tin, báo cáo bệnh SXHD
Hệ thống thông tin báo cáo bệnh SXHD nằm trong hệ thống thông tin
báo cáo bệnh truyền nhiễm của Bộ Y tế và được tăng cường bởi các hoạt động
của chương trình mục tiêu quốc gia về y tế phòng chống bệnh sốt xuất huyết.
Hệ thống này bao gồm toàn bộ tổ chức của hệ thống y tế dự phòng: cán bộ
nhân viên y tế thôn bản, cộng tác viên đến trạm Y tế, xã, phường, Trung tâm Y
tế quận, huyện, Trung tâm Y tế dự phòng, các Viện Vệ sinh Dịch tễ trung ương
và Bộ Y tế, cùng sự tham gia của hệ thống phòng khám đa khoa, bệnh viện các
tuyến trong giám sát phát hiện bệnh nhân. Chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các


20

thành phần được quy định cụ thể như sau:
- Y tế thơn/bản, cộng tác viên và các phịng khám chun khoa tư nhân có

trách nhiệm thu thập, tổng hợp, báo cáo số liệu cho Trạm Y tế (TYT)
xã, phường, thị trấn.
- TYT xã có trách nhiệm tổng hợp, xác minh và báo cáo số liệu BTN
trong địa bàn xã cho Trung tâm Y tế (TTYT) quận, huyện, thị xã, đồng
thời thực hiện việc phản hồi thông tin cho các đơn vị thuộc địa bàn phụ
trách.
- Đơn vị y tế tại các cơng nơng trường, xí nghiệp, nhà máy, cơ quan,
trường học, bệnh viện huyện, các phòng khám đa khoa (PKĐK) tư nhân
có trách nhiệm tổng hợp, xác minh và báo cáo số liệu tại cơ sở mình cho
TTYT huyện.
- TTYT huyện có trách nhiệm phân tích, báo cáo số liệu BTN trong địa
bàn huyện cho Trung tâm Y tế dự phòng (TTYTDP) thành phố, đồng
thời thực hiện việc phản hồi thông tin cho các đơn vị thuộc địa bàn phụ
trách.
- TTYTDP thành phố có trách nhiệm tổng hợp, báo cáo thơng tin BTN tại
cơ sở mình cho Sở Y tế, Cục Y tế dự phòng, các Viện dịch tễ phụ trách
khu vực và thông tin bệnh về bệnh sốt rét, bệnh do ký sinh trùng, côn
trùng cho các Viện Sốt rét phụ trách khu vực, đồng thời thực hiện việc
phản hồi thông tin cho các đơn vị thuộc địa bàn phụ trách.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×