Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Tiểu Luận.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.2 KB, 44 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Việc hồn thiện thủ tục tố tụng tư pháp dân sự nói chung và việc xác định giá
trị tài sản nói riêng trong tố tụng dân sự là một đòi hỏi khách quan trong bối cảnh
hội nhập kinh tế hiện nay. Để đảm bảo việc giải quyết các tranh chấp dân sự tại Tịa
án được tiến hành một cách nhanh chóng và hiệu quả, công minh và đúng pháp
luật, ngày 25/11/2015, Quốc hội khóa XIII, tại kỳ họp thứ 10 đã thơng qua bộ luật
tố tụng dân sự 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2015 thay thế Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011). Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có
nhiều sửa đổ bổ sung quan trọng trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của luật cũ và
khắc phục những hạn chế cũng như tiếp thu có chọn lọc một số kinh nghiệm của
các nước có sự tương đồng về văn hóa trên Thế giới tạo cơ sở pháp lý quan trọng,
cơ sở lý luận của các quy định cũng như mối liên hệ giữa chúng với các văn bản
pháp luật có liên quan nhằm góp phần cho việc nhận thức và áp dụng pháp luật tố
tụng được đúng đắn và thống nhất giúp các chủ thể có quyền lợi bị xâm phạm hay
có tranh chấp có thể tự bảo vệ mình trước Tịa án. Một trong những quy định khơng
kém phần quan trọng trong tố tụng dân sự 2015 đó là quy định "tự thỏa thuận giá trị
tài sản"; "định giá tài sản" trong tố tụng dân sự. Bởi lẽ, định giá trong tố tụng dân
sự là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án, nhằm xác định
giá trị đích thực của tài sản và cũng là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét giải
quyết các vụ án dân sự mà Tịa án đang có nhiệm vụ thụ lý và giải quyết, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự cho thấy có một số lượng
nhỏ trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về giá trị của tài sản, cịn
lại đa số các trường hợp khác thì các đương sự không thỏa thuận được với nhau về
giá trị tài sản hoặc thỏa thuận được với nhau về giá trị tài sản nhưng giá trị thỏa
thuận lại thấp hơn nhiều so với giá trị thực tế. Hoặc nhằm trốn tránh một nghĩa vụ


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự


khác. Trong khi, giải quyết tranh chấp tài sản cho các đương sự nếu không tự thỏa
thuận được thì thường hay khiếu nại kết quả định giá gây ảnh hưởng đến thời hạn
giải quyết vụ án hoặc gây thiệt hại quyền lợi cho các đương sự khác. Đây cũng là
một trong những nguyên nhân gây bức xúc kéo dài. Bên cạnh đó việc định giá
đúng tài sản có ý nghĩa quan trọng trong việc khắc phục tình trạng đương sự trốn
tránh một phần nghĩa vụ đối với Nhà nước đối với người thứ ba hoặc là vi phạm
pháp luật trong tiến hành định giá dẫn đến phải định giá lại tài sản. Do đó, định giá
tài sản đúng chính xác giá trị tài sản đóng góp vào việc nâng cao chất lượng xét xử,
giải quyết vụ án một cách khách quan, trung thực đúng pháp luật, đảm bảo quyền
lợi hợp pháp của các đương sự, đảm bảo cả về mặt thời gian, hạn chế việc khiếu
nại của công dân, đảm bảo các bản án khi ban hành là sản phẩm kết tinh xâu chuỗi
trong quá trình tiến hành tố tụng của người tiến hành tố tụng giải quyết vụ án đúng
theo quy định của pháp luật nhằm ngày một nâng cao vị trí, vai trị của Tịa án
trong giai đoạn hội nhập quốc tế nói chung và sự phát triển tất yếu hiện nay của đất
nước nói riêng.
Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của định giá tài sản, nên tác giả chọn
đề tài “Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân
sự” để đánh giá thực trạng áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong thời
gian qua và đề ra giải pháp khắc phục trong thời gian tới nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả trong quá trình xét xử các vụ án dân sự nói riêng và bảo đảm một cách tốt
nhất quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu:
Trong những năm gần đây, có một số cơng trình nghiên cứu khoa học liên
quan đến hoạt động định giá hoặc thẩm định giá tài sản. Tuy nhiên, các cơng trình
nghiên cứu đó thường chỉ tập trung vào một vấn đề nhất định như thẩm định giá tài
sản là bất động sản, động sản của Ngân hàng, doanh nghiệp nào đó; hoặc nghiên
cứu về định giá tài sản để thi hành án, chứ chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về
2



Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự. Do vậy
tiểu luận này sẽ phân tích ở góc nhìn sâu sắc, tồn diện về lý luận và thực tiễn hoạt
động định giá tài sản trong các vụ việc dân sự.
3. Những đóng góp cụ thể của đề tài tiểu luận:
Đề tài nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống mang tính khoa học về áp
dụng pháp luật trong hoạt động định giá tài sản, đề tài có một số đóng góp như sau:
Về phương diện lý luận: Làm sáng tỏ một số vấn đề về áp dụng pháp luật,
xác định những vấn đề lý luận của việc áp dụng pháp luật khi định giá tài sản trong
việc giải quyết vụ việc dân sự.
Về phương diện thực tiễn: Đề tài đánh giá khách quan về thực trạng, chỉ rõ
nguyên nhân của ưu, khuyết điểm và những tồn tại, thiếu sót, đồng thời đề ra
những giải pháp, kiến nghị các giải pháp khắc phục những tồn tại, bất cập trong
hoạt động định giá tài sản nhằm đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng giải
quyết các vụ việc dân sự.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM ĐỊNH GIÁ VÀ KHÁI QUÁT CÁC QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN QUA CÁC THỜI KỲ

1.1 Khái niệm định giá và định giá tài sản theo tố tụng dân sự:
Về khái niệm “định giá” tuy có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng đều chung
một nội dung là xác định giá trị tài sản cần định giá. Theo từ điển bách khoa toàn
thư mở Wikiedia có định nghĩa về giá trị trong lĩnh vực tài chính, theo đó “định
giá” được hiểu là “q trình ước tính giá trị một cái gì đó”. Trong khoa học pháp lý
thì định giá cũng được định nghĩa cụ thể tại, tại khoản 5 Điều 4 Luật giá 2012 phần
giải thích từ ngữ có nêu định giá là: “Việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc
tổ chức cá nhân sản xuất kinh doanh quy định giá cho hàng hóa dịch vụ”.

3



Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

Do đó, có thể hiểu định giá là việc quy định giá hay ước tính giá trị cho hàng
hóa, dịch vụ để phục vụ mục đích nhất định trong đời sống kinh tế xã hội. Định giá
là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức cá nhân sản xuất kinh doanh
quy định giá cho hàng hóa dịch vụ, giá thể hiện ý chí của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hoặc tổ chức cá nhân sản xuất kinh doanh quy định cho hàng hóa. Mặt
khác, Định giá tài sản là một biện pháp thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật tố
tụng dân sự 2015 các bên đương sự có quyền cung cấp giá tài sản đang tranh chấp
hoặc tự thỏa thuận về việc xác định gía tài sản, đồng thời đương sự có quyền lựa
chọn tổ chức thẩm định giá tài sản để thực hiện việc thẩm định giá tài sản và cung
cấp cho Tịa án.
Khi có một trong các bên có u cầu tổ chức thẩm định giá thì Tịa án yêu
cầu tổ chức thẩm định giá tài sản tiến hành thẩm định giá. Việc thẩm định giá tiến
hành theo quy định pháp luật về thẩm định giá tài sản kết quả thẩm định gía tài sản
được coi là chứng cứ; nếu việc thẩm định giá được tiến hành theo đúng quy định
pháp luật.
Đây là một quy định đề cao sự tự thỏa thuận của các bên đương sự, phù hợp
nguyên tắc về quyền tự định đoạt và nghĩa vụ chứng minh, cung cấp chứng cứ của
các đương sự. Tòa án chỉ quyết định định giá tài sản và thực hiện việc định giá tài
sản trong các trường hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật tố tụng dân
sự 2015 là:
- Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;
- Các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định gía tài sản
hoặc đưa ra giá tài sản khác nhau hoặc không thỏa thuận được giá tài sản;
- Các bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá tài sản theo
mức giá thấp so với gía thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm định giá


4


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc với người thứ ba hoặc có căn cứ cho
thấy tổ chức thẩm định giá tài sản đã vi phạm pháp luật Luật giá.
Đương sự phải nộp đủ tiền tạm ứng chi phí định giá theo yêu cầu Tòa án đã
ấn định theo quy định tại các Điều 163 và 164 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
1.2 Hệ thống các quy định pháp luật về định giá tài sản qua các thời kỳ
1.2.1. Trước năm 1989:
Giai đoạn này thì nhà hoạch định chính sách pháp luật về định giá tài sản
chưa được chú trọng, quy định còn sơ khai, các văn bản tố tụng dân sự tại thời
điểm đó cịn ít. Để hướng dẫn pháp luật tố tụng dân sự về định gía tài sản tại điểm
4 mục III Thông tư số 6-TATC ngày 25/2/1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn việc điều tra trong tố tụng dân sự hướng dẫn về cử Hội đồng định giá như sau:
Nếu cần phải định giá đồ vật tài sản, Tòa án nhân dân cần cử Hội đồng định gía
gồm có đại diện chính quyền địa phương, đại diện các cơ quan thương nghiệp, xí
nghiệp, hợp tác xã có liên quan và nếu xét thấy cần thiết cũng có cả đại diện đồn
thể nhân dân. Khi Hội đồng định giá làm việc cần phải triệu tập các đương sự có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến đồ vật hoặc tài sản để nghe họ phát biểu ý kiến về
định giá cả đối với đồ vật, tài sản được đưa ra định giá, Hội đồng định giá sẽ thảo
luận và quyết định. Với các quy định trên thì pháp luật về định giá tài sản chưa quy
định rõ chủ thể nào là Chủ tịch Hội đồng định giá, trình tự, thủ tục định giá, quyền
nghĩa vụ của các đương sự trong định giá...,. Do đó, chưa đáp ứng được yêu cầu
của thực tiễn đề ra cũng như chưa bắt nhịp với xu thế phát triển của xã hội.
1.2.2 Từ năm 1989 đến năm 2004.
Giai đoạn này, hoạt động định gía tài sản được quy định chủ yếu trong 03
pháp lệnh đó là:

- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989;
- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994;
5


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996.
Tuy nhiên, theo các Pháp lệnh trên thì chỉ quy định chung là trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử; nếu thấy cần thiết Tịa án có thể tiến hành hoặc ủy thác cho Tòa án
khác tiến hành yêu cầu cơ quan chuyên mơn định giá hoặc hoặc lập Hội đồng định
gía tài sản khi có tranh chấp, mà khơng quy định cụ thể trình tự, thủ tục định giá,
quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình định giá tài sản cũng như thành phần
định giá tài sản…; Điều này đã gây nhiều khó khăn cho việc áp dụng pháp luật. Bởi
lẽ, Tịa án nói chung hay những người tiến hành tố tụng nói riêng thì chỉ được thực
hiện những hành vi tố tụng trên cơ sở quy định của pháp luật, nhiều khó khăn
vướng mắc trong q trình giải quyết các vụ việc dân sự liên quan đến định giá tài
sản đã phát sinh. Tòa án nhân dân tối cao đã giải đáp các vướng mắc bằng hình
thức hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật đã phần nào giải quyết những khó
khăn vướng mắc liên quan trong q trình giải quyết vụ án dân sự cần định giá tài
sản. Tuy nhiên, các văn bản này chưa được pháp điển hóa bằng các văn bản quy
phạm pháp luật nên chưa có giá trị pháp lý cao. Cụ thể là:
- Kết luận của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại hội nghị tổng kết
ngành Tòa án nhân dân năm 1995 hướng dẫn như sau:
Khi cần định giá tài sản có tranh chấp, Tịa án chủ động triệu tập Hội đồng
định giá, nhưng đại diện của Tòa án, Viện kiểm sát dự cuộc họp của Hội đồng định
giá với vai trị giám sát, chứ khơng phải thành viên Hội đồng định giá, không tham
gia biểu quyết về giá việc biểu quyết về giá là tài sản tranh chấp hoàn toàn thuộc
quyền của các thành viên Hội đồng định giá bao gồm đại diện của cơ quan tài
chính, vật giá; các cơ quan chức năng khác và bắt buộc phải có mặt các bên đương

sự. Các đương sự có quyền phát biểu ý kiến về việc định giá nêu ra những quyền
quyết định cuối cùng về giá lại thuộc Hội đồng định giá. Các bên đương sự phải
chịu chi phí cho việc định giá tương ứng với phần tài sản định phân chia. Nếu
đương sự yêu cầu định giá bổ sung hoặc định giá lại tài sản tranh chấp thì người
6


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

yêu cầu phải nộp tạm ứng trước tiền định giá. Tòa án sẽ quyết định ai phải thanh
tốn tiền định giá tài sản đó tùy thuộc vào kết quả của việc xét xử. Trong trường
hợp Tịa án u cầu định giá lại, thì Tịa án ứng trước khoản chi phí định giá, sau
đó buộc bên thua kiện phải chịu phần chi phí định giá.
- Cơng văn số 16/1999/KHXX ngày 01/9/1999 của Tòa án nhân dân tối cao
giải đáp, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật đối với một số vấn đề về hình
sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng; theo đó Tịa án nhân dân tối
cao hướng dẫn một số vấn đề về định giá tài sản trong tố tụng dân sự như sau:
Thứ nhất: Về vấn đề cơ quan thu chi tiền tạm ứng chi phí định giá, cần phân
biệt; Nếu các đương sự tự thỏa thuận với nhau yêu cầu cá nhân hoặc cơ quan thực
hiện việc định giá thì họ trực tiếp nộp tiền tạm ứng chi phí định giá cho các cá
nhân, cơ quan tiến hành việc định giá theo yêu cầu của cá nhân hoặc cơ quan đó.
Nếu việc định giá do Tịa án quyết định thì trên cơ sở dự báo của cơ quan định giá,
Tịa án thu tiền tạm ứng chi phí định giá và chi trả cho cơ quan định giá và phải
thanh quyết toán với đương sự sau khi việc định gía đã thực hiện xong. Trong Bản
án, Quyết định, Tịa án phải quyết định người phải chịu chi phí định giá và số tiền
chi phí định gía phải nộp.
Thứ hai: Về vấn đề định giá tài sản là quyền sử dụng đất thì theo tinh thần
quy định tại Điều 172 và Phần V của Bộ luật dân sự thì quyền sử dụng đất cũng là
tài sản. Do đó, việc định giá quyền sử dụng đất về nguyên tắc chung cũng được
thực hiện như việc định gía đối với các tài sản khác. Tuy nhiên, quyền sử dụng đất

là loại tài sản đặc biệt cho nên việc định giá quyền sử dụng đất không phải theo giá
thị trường như đối với các tài sản khác mà phải thực hiện đúng quy định của nhà
nước; cụ thể là Nghị định số 87/CP ngày 17 tháng 8 năm 1994 của Chính phủ quy
định khung giá các loại đất và Nghị định số 17/1998/NĐ-CP ngày 21 tháng 3 năm
1998 của Chính phủ về việc sửa đổi bổ sung khoản 2 Điều 4 của Nghị định 87/CP
ngày 17 tháng 8 năm 1994 của Chính phủ quy định khung giá các loại đất.
7


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

Thứ ba: Về vấn đề đại diện của Tịa án khơng phải là thành viên của Hội
đồng định giá. Do vậy, khi Hội đồng định gía chỉ có hai thành viên (một của cơ
quan tài chính, một của cơ quan khác) nên khi biểu quyết về giá mà có ý kiến trái
ngược nhau thì Tịa án căn cứ vào đâu để giải quyết ? vấn đề này, Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn là Quyết định cuối cùng về giá thuộc về Hội đồng định giá. Như
vậy, trong trường hợp Hội đồng định giá chỉ có hai thành viên mà khi biểu quyết
về giá có các ý kiến trái ngược nhau, thì việc định giá được coi là chưa thành và
phải tiến hành định giá lại để có được quyết định cuối cùng của Hội đồng định giá
về giá. Tuy nhiên, để tránh xảy ra trường hợp tương tự thì khi thành lập Hội đồng
định giá, ngồi đại diện của cơ quan tài chính còn tùy vào tài sản cần định giá mà
Tòa án cần mời thêm đại diện của các cơ quan chức năng khác.
- Công văn số 92/2000/KHXX ngày 21 tháng 7 năm 2000 của Tòa án nhân
dân tối cao gửi Tòa án nhân dân các địa phương “hướng dẫn việc xác định gía
quyền sử dụng đất”. Cụ thể: Khi giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế có
liên quan đến việc xác định giá quyền sử dụng đất, thì Tịa án chấp nhận giá do các
bên đương sự thỏa thuận được với nhau, nếu sự thỏa thuận đó không trái với
nguyên tắc quy định tại Điều 7 Bộ luật dân sự. Trong trường hợp các bên đương sự
không thỏa thuận được với nhau, thì giá quyền sử dụng đất được xác định theo giá
thực tế chuyển nhượng tại địa phương nơi có đất tranh chấp đối với từng loại đất

vào thời điểm xét xử sơ thẩm.
Việc xác định giá quyền sử dụng đất như hướng dẫn tại Công văn số
92/2000/KHXX ngày 21 tháng 7 năm 2000. Đối với việc định giá nhà thì tùy từng
trường hợp cụ thể mà việc định gía nhà được tiến hành như sau: Nhà được xây
dựng hợp pháp thì nguyên tắc chung là Tòa án chấp nhận giá nhà do các đương sự
thỏa thuận. Trong trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau về giá
nhà thì Tịa án u cầu cơ quan chuyên môn định giá nhà hoặc ra quyết định trưng
cầu Hội đồng định giá để xác định giá nhà theo giá thực tế.
8


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

Đối với nhà do bên thuê, bên mượn nhà tự ý làm thêm diện tích, xây dựng
nhà ở mới mà không được chủ sở hữu nhà đồng ý bằng văn bản, nếu chủ sở hữu
nhà phải thanh tốn giá trị diện tích nhà làm thêm, xây dựng mới này, thì Tịa án
xác định giá trị đầu tư cịn lại đối với diện tích làm thêm, xây dựng mới này trên cơ
sở xác định giá nguyên vật liệu xây dựng cộng với tiền công xây dựng theo giá thị
trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm khấu trừ đi phần đã sử dụng.
Trong trường hợp nhà bị giải tỏa theo quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và được đền bù theo quy định thì giá nhà được tính theo giá tiền mà
nhà nước đền bù tương ứng cho từng loại nhà bị giải tỏa
1.3 Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đến trước
khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
1.3.1 Từ năm 2004 đến năm 2012:
Trong giai đoạn này Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã quy định rõ quyền
của đương sự được yêu cầu Tòa án định giá tài sản tại Điều 58, quyền của Tòa án
quyết định định giá tài sản nhằm thu thập chứng cứ giải quyết vụ án tại Điều 85 và
dành riêng Điều 92 để quy định về định giá tài sản. Cụ thể:
1. Tòa án ra quyết định định giá tài sản đang tranh chấp trong các trường

hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;
b) Các bên thỏa thuận theo mức giá thấp nhằm mục đích trốn thuế hoặc
giảm mức đóng án phí.
2. Hội đồng định giá do Tịa án quyết định thành lập gồm Chủ tịch Hội đồng
và các thành viên là đại diện cơ quan Tài chính và các cơ quan chun mơn có liên
quan. Hội đồng định giá chỉ tiến hành định giá khi có mặt đầy đủ các thành viên
của Hội đồng. Trong trường hợp cần thiết, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có
tài sản định giá được mời để chứng kiến việc định giá. Các đương sự được thông
9


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

báo trước về thời gian định giá, địa điểm tiến hành định giá, có quyền tham dự và
phát biểu ý kiến về việc định giá. Quyền quyết định về giá đối với tài sản định gía
thuộc Hội đồng định giá.
3. Cơ quan Tài chính và cơ quan chun mơn có liên quan có trách nhiệm cử
người tham gia Hội đồng định giá và tạo điều kiện để họ làm nhiệm vụ. Người
được cử tham gia làm thành viên hội đồng định gía có trách nhiệm tham gia đầy đủ
vào việc định giá.
4. Việc đinh giá phải được ghi thành lập biên bản, trong đó ghi rõ ý kiến của
từng thành viên hội đồng định giá và của đương sự nếu họ tham dự. Quyết định
của Hội đồng định giá phải được quá nửa tổng số thành viên Hội đồng định giá
biểu quyết tán thành. Các thành viên hội đồng định giá, đương sự, người chứng
kiến ký tên vào biên bản.
Tại mục 7 phần IV Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17 tháng 9 năm
2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự về “chứng minh và chứng cứ” đã hướng dẫn thi hành
Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự như sau:

7.1 Tịa án ra quyết định định gía tài sản đang tranh chấp trong các trường
hợp sau:
a) Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự vì lý do các bên không thỏa
thuận được về giá của tài sản đang tranh chấp;
b) Các bên đương sự thỏa thuận về giá của tài sản đang tranh chấp, nhưng có
căn cứ rõ ràng để chứng minh rằng mức giá mà các bên thỏa thuận thấp hơn giá thị
trường tại địa phương nơi có tài sản đang tranh chấp hoặc thấp hơn khung giá do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định đối với tài sản cùng loại, nhằm mục
đích trốn thuế hoặc giảm mức đóng án phí.

10


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

Trong trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm, Tòa án cấp giám đốc thẩm, tái
thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại thì việc định giá tài sản chỉ được
thực hiện khi một hoặc các bên đương sự có yêu cầu. Việc định giá tài sản lại được
thực hiện theo thủ tục chung.
7.2 Tòa án phải xem xét tài sản cần định giá là loại tài sản gì và nó liên
quan đến cơ quan chuyên môn nào. Hội đồng định giá cần phải có bao nhiêu thành
viên và trong trường hợp cụ thể này cần cử đại diện cơ quan nào làm chủ tịch Hội
đồng định giá. Trên cơ sở đó Tịa án có cơng văn nêu rõ tài sản cần định giá và yêu
cầu cụ thể đối với Chủ tịch, ủy viên Hội đồng định giá và thời hạn cơ quan chun
mơn có cơng văn trả lời cho Tịa án biết việc cử người tham gia Hội đồng định giá.
7.3 Sau khi Tịa án nhận được cơng văn trả lời của các cơ quan chyên môn
về việc cử người làm Chủ tịch Hội đồng định giá và ủy viên Hội đồng định giá thì
thẩm phán phải kiểm tra những người được cử có đáp ứng các yêu cầu cụ thể mà
Tịa án nêu trong cơng văn hay khơng và có ai trong số họ là người thân thích với
đương sự trong vụ án hay khơng. Nếu có người chưa đáp ứng các yêu cầu cụ thể

hay là người thân thích với đương sự trong vụ án thì đề nghị cơ quan chun mơn
đã cử người đó để cử người khác thay thế.
7.4. Căn cứ vào Điều 92 của BLTTDS, Thẩm phán ra quyết định định giá.
Quyết định định giá phải có các nội dung chính sau đây:
a. Ngày, tháng, năm ra quyết định và tên của Tòa án ra quyết định;
b. Tài sản cần định giá;
c. Họ, tên, cơ quan công tác của Chủ tịch và các thành viên Hội đồng định giá;
d. Nhiệm vụ của Hội đồng định giá;
đ. Thời gian, địa điểm tiến hành định giá.
Để việc định giá tiến hành đúng thời gian, địa điểm ghi trong Quyết định định
giá, Tòa án cần liên hệ trước với các thành viên Hội đồng định giá để họ biết, sắp xếp
11


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

lịch công tác và tham gia định giá. Trong trường hợp việc định giá không được tiến
hành đúng thời gian ghi trong Quyết định định giá, thì Tịa án phải thơng báo thời gian
tiến hành định giá cho các thành viên Hội đồng định giá và những người có liên quan
biết.
7.5. Tịa án có thể cử một Thư ký Tòa án để giúp việc cho Hội đồng định giá
ghi biên bản về việc định giá.
7.6. Trong trường hợp có người cản trở việc tiến hành định giá, thì việc xử lý
được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 5.5 mục 5 Phần IV của Nghị quyết này”
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được ban hành thể hiện sự tiến bộ trong
lĩnh vực lập pháp, là kết quả của công tác pháp điển hóa những quy định về pháp
luật tố tụng trong các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động với những quy định được
kế thừa từ những hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao nhưng hoàn thiện hơn
phù hợp và đáp ứng yêu cầu của đời sống kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, với thực tiển
phức tạp của công tác định gía tài sản trong tố tụng dân sự thì những quy định này

của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn và
Hệ thống Tịa án vẫn gặp khó khăn trong công tác tiến hành định giá.
1.3.2 Từ năm 2012 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Sau 06 năm thi hành, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi bổ
sung theo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011.
Trong đó, đã sửa đổi Điều 92 quy định về định giá tài sản; cụ thể:
1. Các bên có quyền tự thỏa thuận về việc xác định giá tài sản, lựa chọn tổ
chức thẩm định giá tài sản. Tòa án ra quyết định định giá tài sản đang tranh chấp
trong các trường hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;
b) Các bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá theo mức giá
thấp nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước.
12


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

2. Hội đồng định gía do Tòa án thành lập gồm Chủ tịch Hội đồng định giá
là đại diện cơ quan tài chính và thành viên là đại diện các cơ quan chun mơn có
liên quan. Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó, người quy định tại các khoản
1, 2 và khoản 3 Điều 46 của Bộ luật này không được tham gia Hơi đồng định gía.
Hội đồng định gía chỉ được tiến hành định giá khi có mặt đầy đủ các thành
viên Hội đồng. Trong trường hợp cần thiết, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có
tài sản định gía được mời chứng kiến việc định gía. Các đương sự được thông báo
trước thời gian, địa điểm tiến hành định giá, có quyền tham dự và phát biểu ý kiến
về việc định gía. Quyền quyết định về gía thuộc Hội đồng định gía.
3. Cơ quan Tài chính và các cơ quan chun mơn có liên quan có trách
nhiệm cử người tham gia Hội đồng định giá và tạo điều kiện để họ làm nhiệm vụ.
Người được cử làm thành viên Hội đồng định giá có trách nhiệm gia gia đầy đủ
vào việc định gía. Trường hợp cơ quan Tài chính và các cơ quan chun mơn

khơng cử người tham gia Hội đồng định giá; người được cử tham gia Hội đồng
định gía khơng tham gia mà khơng có lý do chính đáng thì tùy theo mức độ vi
phạm bị xử lý theo quy định pháp luật.
4. Việc định gía phải được lập thành biên bản; trong đó ghi rõ ý kiến của
từng thành viên hội đồng định giá và của đương sự nếu họ tham dự. Quyết định
của hội đồng định gía phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.
Các thành viên hội đồng định gía, đương sự, người chứng kiến ký tên vào biên
bản.
5. Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Tòa án yêu cầu tổ chức
thẩm định giá tiến hành thẩm định giá. Việc thẩm định giá tài sản được thưc hiện
theo quy định của pháp luật về thẩm định gía tài sản. Kết quả thẩm định giá tài sản
được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định gía được tiến hành đúng theo quy định
pháp luật.

13


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

6. Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy định chi tiết và hướng dân thi hành
Điều này.
Quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011 phần
nào khắc phục một số vướng mắc so với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004, cụ thể:
- Pháp luật tố tụng dân sự đã chính thức ghi nhận việc xác định gía tài sản
thơng qua tổ chức thẩm định giá. Theo yêu cầu của một hoặc các bên Tòa án yêu
cầu tổ chức thẩm định giá tài sản tiến hành thẩm định giá, tôn trọng sự quyết định
của các đương sự trong việc định giá tài sản.
- Pháp luật tố tụng dân sự đã có quy định chủ thể tham gia với tư cách Chủ

tịch hội đồng định giá bắt buộc là đại diện của cơ quan Tài chính. Quy định này tạo
điều kiện thuận lợi hơn khi thành lập Hội đồng định giá, tránh việc các cơ quan
đùn đẩy trách nhiệm tham gia Hội đồng định giá với tư cách Chủ tịch hội đồng;
đồng thời quy định quyền nghĩa vụ của Hội đồng định giá và của các thành viên
hội đồng định giá, của các đương sự khi tham gia định giá.
- Để bảo đảm sự vô tư, khách quan của các thành viên trong quá trình định
giá tài sản, pháp luật tố tụng dân sự đã quy định cụ thể những trường hợp không
được tham gia Hội đồng định giá.
- Quy định rõ trách nhiệm của thành viên và cơ quan quản lý của thành viên
Hội đồng định giá, phải tạo điều kiện để họ tham gia đầy đủ, người được cử làm
thành viên Hội đồng định giá có trách nhiệm tham gia đầy đủ vào việc định giá.
Trường hợp cơ quan Tài chính, các cơ quan chun mơn không cử người tham gia
Hội đồng định giá; người được cử tham gia Hội đồng định giá không tham gia mà
khơng có lý do chính đáng, thì tùy theo mức độ vi phạm bị xử lý theo quy định của
pháp luật”. Quy định này là hết sức cần thiết, nhằm đảm bảo sự phối hợp và tơn
trọng Tồ án trong việc giải quyết nhanh vụ án, tránh trường hợp các cơ quan này
14


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

từ chối cử người tham gia Hội đồng định giá tài sản, cũng như cá nhân người được
cử làm thành viên Hội đồng định giá tài sản nhưng khơng tham gia, gây khó khăn,
tốn kém tiền bạc cũng như thời gian của các đương sự và Tồ án mà trước đây
khơng có bất cứ một chế tài nào đối với cơ quan, cá nhân đó.
- Quy định rõ căn cứ định giá phải dựa trên các tiêu chuẩn kỹ thuật, thực
trạng tài sản, phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản tại thời điểm định giá; việc
định gía phải trung thực, khách quan, cơng khai, đúng quy định; giá tài sản được
tính bằng đồng Việt Nam. Trường hợp tài sản định giá không cịn thì căn cứ vào tài
liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc hoặc tham khảo giá của tài sản cùng chủng

loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật để xác định
- Đã có hướng dẫn xử lý trong trường hợp đương sự có hành vi cản trở Hội
đồng định giá tiến hành định giá tài sản: Trường hợp có hành vi cản trở Hội đồng
định giá tiến hành định giá tài sản thì Chủ tịch Hội đồng định giá yêu cầu đại diện
Ủy ban nhân dân xã, cơ quan công an và các cơ quan chức năng khác can thiệp, hỗ
trợ kịp thời. Tùy theo tính chất mức độ của hành vi cản trở mà người có hành vi
cản trở Hội đồng định giá bị xử lý theo quy định pháp luật. Trường hợp khơng thể
tiến hành định gía tài sản, Hội đồng định giá lập biên bản về việc không thể tiến
hành định giá tài sản do hành vi cản trở và lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự.
- Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNHTC-BTP-BTC
ngày 28 tháng 3 năm 2014 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ tư pháp, Bộ tài chính hướng dẫn thi hành Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự
đã được sửa đổi bổ sung theo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng
dân sự về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản. Trong nội dung Thông tư liên tịch
đã hướng dẫn về nguyên tắc định giá tài sản; thỏa thuận về việc định giá tài sản;
thỏa thuận về việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản; yêu cầu tổ chức thẩm
định gía tài sản; thủ tục thành lập Hội đồng định giá và ra Quyết định định giá tài
sản; quyền và nghĩa vụ của đương sự tham gia phiên họp định giá tài sản; ủy thác
15


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

định giá tài sản; trình tự thủ tục phiên họp của Hội đồng định giá tài sản; xử lý
trong trường hợp hành vi cản trở hội đồng định giá tiến hành định giá tài sản.
1.4 Định giá tài sản theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:
Trong quá trình phát triển của mình, BLTTDS đã có những thay đổi đáng kể
về “Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản”. Nếu như tên gọi của Điều 92 BLTTDS
năm 2004 là “Định giá tài sản” thì đến BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã được sửa
đổi lại là “Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản”. Tên gọi này được giữ nguyên

trong Điều 104 BLTTDS 2015. Theo đó, khoản 1 được quy định mới là “Đương sự
có quyền cung cấp giá tài sản đang tranh chấp; thỏa thuận giá tài sản đang tranh
chấp” và khoản 2 nêu về việc “Các đương sự có quyền thỏa thuận lựa chọn tổ chức
thẩm định giá tài sản để thực hiện việc thẩm định giá tài sản và cung cấp kết quả
thẩm định giá cho Tòa án. Việc thẩm định giá tài sản được thực hiện theo quy định
của pháp luật về thẩm định giá tài sản. Đây là một bước hoàn thiện hệ thống pháp
luật tố tụng dân sự nói chung và pháp luật về định giá tài sản nói riêng.
1.4.1 Các trường hợp thành lập Hội đồng định giá tài sản.
Tại Điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định:
1. Đương sự có quyền cung cấp giá tài sản đang tranh chấp; thỏa thuận về
giá tài sản đang tranh chấp.
2. Các đương sự có quyền thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định gía tài sản
để thực hiện việc định giá tài sản và cung cấp kết quả thẩm định giá cho Tòa án.
Việc thẩm định giá tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về
thẩm định giá tài sản
3. Tòa án ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá khi
thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Theo yêu cầu của một trong các bên đương sự;

16


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

b) Các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản
hoặc đưa ra gía tài sản khác nhau hoặc khơng thỏa thuận được giá tài sản.
c) Các bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định tài sản theo mức
giá thấp hơn so với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm định gía
nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc với người thứ ba hoặc có căn cứ cho
thấy tổ chức thẩm định gía tài sản đã vi phạm pháp luật khi thẩm định giá.

Điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, không chỉ tôn trọng quyền
tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài
sản để thực hiện việc thẩm định giá tài sản, mà cịn giải quyết khó khăn vướng mắc
kéo dài là trong thực tế thời gian qua, ở nhiều địa phương có nhiều vụ án tranh
chấp liên quan đến quyền sử dụng đất nhưng trong quá trình giải quyết, khơng có
đương sự nào u cầu định giá, không thỏa thuận được giá và cũng không thỏa
thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá hoặc đưa ra giá khác nhau, hoặc trường hợp
các đương sự thỏa thuận với nhau giá thấp hơn giá thị trường tại thời điểm tranh
chấp nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với Nhà nước (án phí) hoặc trốn tránh nghĩa vụ
đối với người thứ ba, nhưng tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 không quy
định trường hợp các bên thỏa thuận giá thấp để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ
ba và không quy định rõ về giá thấp là như thế nào nên Tòa án đã chấp nhận giá
thỏa thuận của các đương sự theo giá quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh tại thời
điểm tranh chấp. (Thông thường khung giá đất theo quy định của cơ quan nhà
nước thấp hơn so với giá thị trường).
1.4.2 Trình tự, thủ tục thành lập Hội đồng định giá, định giá tài sản.
Tại điểm a khoản 4 Điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định:
Hội đồng định giá do Tòa án thành lập gồm Chủ tịch Hội đồng định giá là
đại diện cơ quan tài chính và thành viên là đại diện các cơ quan chun mơn có liên
quan. Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó, người thuộc trường hợp phải từ

17


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

chối hoặc phải thay đổi người tiến hành tố tụng quy định tại Điều 52 của Bộ luật này
thì khơng được tham gia Hội đồng định giá.
Hội đồng định giá chỉ tiến hành định giá khi có mặt đầy đủ các thành viên
của Hội đồng. Trong trường hợp cần thiết, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có

tài sản định giá được mời chứng kiến việc định giá. Các đương sự được thông báo
trước về thời gian, địa điểm tiến hành định giá, có quyền tham dự và phát biểu ý
kiến về việc định giá. Quyền quyết định về giá đối với tài sản định giá thuộc Hội
đồng định giá.
Theo như quy định trên thì Thẩm phán khơng phải là thành viên của Hội
đồng định giá mà chỉ có quyền thành lập Hội đồng định giá. Hội đồng định giá phải
bao gồm đại diện cơ quan tài chính và các thành viên là đại diện các cơ quan
chun mơn có liên quan đến đối tượng, chủng loại là tài sản cần định giá. Trong
đó, đại diện cơ quan Tài chính là Chủ tịch Hội đồng định giá. Người đã tiến hành tố
tụng trong vụ án đó, người quy định tại Điều 52 Bộ luật tố tụng dân sự đó là họ
đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự, họ đã tham
gia với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ án đó, có căn cứ cho rằng
họ có thể khơng vơ tư khách quan trong khi làm nhiệm vụ thì không được tham gia
Hội đồng định giá.
Luật không quy định cụ thể Hội đồng định giá gồm bao nhiêu thành viên
nhưng để đảm bảo nguyên tắc quá bán nghĩa là quyết định của Hội đồng định giá
phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành, Do đó, Hội đồng định
giá tài sản phải gồm ít nhất 03 thành viên trở lên.
Ngoài chủ tịch Hội đồng định giá tài sản bắt buộc phải là đại diện cơ quan
Tài chính thì các thành viên khác của Hội đồng định giá không quy định bắt buộc là
những cơ quan nào, mà chỉ nêu chung là cơ quan chun mơn có liên quan. Như
vậy, trong mỗi vụ việc dân sự thì tùy theo đặc điểm của từng loại tài sản cần định
18


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

giá mà Thẩm phán sẽ lựa chọn, quyết định cơ quan chuyên môn phù hợp. Ví dụ:
Khi tài sản là cây cảnh thì Thẩm phán nên lựa chọn Hội sinh vật cảnh là thành viên

của Hội đồng định giá; còn tài sản cần định giá là nhà ở và quyền sử dụng đất thì
trong Hội đồng định giá tài sản nên có đại diện của cơ quan Tài nguyên và môi
trường, Cơ quan kinh tế hạ tầng. Đại diện Ủy ban nhân dân xã nơi có tài sản định
gía được mời chứng kiến việc định gía, các đương sự được thơng báo về thời gian
địa điểm tiến hành định giá có quyền tham dự và phát biểu ý kiến về việc định gía.
Thơng tư liên tịch số 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNHTC-BTP-BTC quy
định quyền và nghĩa vụ của Hội đồng định giá cũng như của thành viên Hội đồng
định giá tài sản như sau:
“Điều 11. Quyền và nghĩa vụ của Hội đồng định giá tài sản
Hội đồng định giá tài sản có các quyền sau đây:
a) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, thông tin liên quan
đến tài sản cần định giá; cung cấp văn bản liên quan đến tình trạng, tỷ lệ chất lượng
còn lại của tài sản;
b) Đề nghị Tòa án thuê các dịch vụ cần thiết thực hiện việc định giá tài sản;
c) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Hội đồng định giá tài sản có các nghĩa vụ sau đây:
a) Tuân thủ nguyên tắc, phương pháp, trình tự, thủ tục, nội dung định giá tài
sản theo quy định của pháp luật và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch này;
b) Thực hiện việc định giá tài sản theo đúng thời gian ghi trong Quyết định
định giá tài sản. Trường hợp việc định giá tài sản không thể tiến hành đúng thời
gian ghi trong Quyết định định giá tài sản, thì chậm nhất là ba ngày làm việc, trước
thời hạn định giá ghi trong Quyết định, Chủ tịch Hội đồng định giá phải thơng báo
cho Tịa án biết để Tòa án quyết định về việc thay đổi thời gian định giá;

19


Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong giải quyết các vụ việc dân sự

c) Kết luận về giá trị của tài sản được yêu cầu định giá và chịu trách nhiệm

về kết luận đó;
d) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Điều 12. Quyền và nghĩa vụ của thành viên Hội đồng định giá tài sản
1. Thành viên của Hội đồng định giá tài sản có các quyền sau đây:
a) Được nhận Quyết định định giá tài sản;
b) Đưa ra nhận định, đánh giá về tính chất, đặc điểm của tài sản cần định giá;
về căn cứ, phương pháp định giá và giá trị của tài sản cần định giá;
c) Biểu quyết để xác định giá của tài sản;
d) Được Tịa án thơng báo trước, kịp thời bằng văn bản về nội dung, thành
phần, thời gian, địa điểm mở phiên họp định giá tài sản và các nội dung liên quan;
đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Thành viên của Hội đồng định giá tài sản có các nghĩa vụ sau đây:
a) Thực hiện nhiệm vụ theo Quyết định định giá tài sản và sự phân công của
Chủ tịch Hội đồng định giá;
b) Tham dự phiên họp định giá tài sản đầy đủ, đúng thời gian và địa điểm ghi
trong Quyết định định giá hoặc văn bản thông báo về việc thay đổi thời gian định
giá của Tòa án;
c) Chịu trách nhiệm về nhận định, đánh giá và biểu quyết của mình được
hướng dẫn tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều này;
d) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”.
1.4.3 Trình tự, thủ tục thành lập Hội đồng định giá tài sản
Tại điểm b, c khoản 4 Điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định:

20



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×