Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Báo cáo biện pháp thi giáo viên giỏi môn ngữ văn 7 biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh qua tiết nói và nghe môn ngữ văn lớp 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (945.15 KB, 11 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÁO CÁO TĨM TẮT
Biện pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác giảng dạy
"Rèn kĩ năng nói cho học sinh qua tiết Nói và nghe
mơn Ngữ văn lớp 7")

I. Thực trạng
Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 khẳng định rõ về mục tiêu
của bộ môn Ngữ văn. Thơng qua hoạt động đọc, viết, nói và nghe góp
phần giúp học sinh phát triển những phẩm chất cao đẹp như: tình yêu đối
với thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất nước; ý thức đối với cội nguồn, tự
hào về lịch sử dân tộc; lòng nhân ái, vị tha; u thích cái đẹp, cái thiện và
có cảm xúc lành mạnh; có hứng thú học tập, ham thích lao động; có tinh
thần tự học và ý thức nghề nghiệp; trung thực và có trách nhiệm, có ý thức
cơng dân, tơn trọng pháp luật, góp phần giữ gìn, phát huy các giá trị văn
hóa Việt Nam. Kĩ năng nói liên quan mật thiết với việc hình thành và phát
triển các kĩ năng nghe, đọc, viết. Nói tốt khơng chỉ góp phần rèn luyện tư
duy mà còn giúp viết tốt. Muốn nói và viết tốt, người nói cần phải có kĩ
năng tiếp nhận thông tin. Những kĩ năng này luôn đi cùng nhau, hỗ trợ cho
nhau, không thể tách rời. Trong đó, nói là một trong những kĩ năng rất
quan trọng trong giao tiếp hàng ngày.
1. Thuận lợi
Ban giám hiệu trường TH&THCS Võ Thị Sáu luôn quan tâm tạo
điều kiện tốt nhất để học sinh được phát triển toàn diện cả về trí tuệ lẫn thể
chất. Nhà trường có nhiều văn bản chỉ đạo và biện pháp thực hiện để nâng
cao chất lượng học sinh.
Tổ chun mơn có những chun đề trao đổi thảo luận, dự giờ đóng
góp ý kiến nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy, qua đó nâng cao chất lượng
học sinh.
Bản thân tôi là giáo viên công tác lâu năm có trình độ chun mơn,


có tinh thần trách nhiệm trong cơng tác, có nhiều kinh nghiệm trong cơng
tác nâng cao chất lượng dạy học bộ mơn Ngữ văn.
Có sự phối kết hợp với giáo viên chủ nhiệm, phụ huynh học sinh
trong quá trình giáo dục học sinh.
1


Đa số các em học sinh đều ngoan ngoãn, lễ phép, có ý thức học tập,
có nền tảng kiến thức cơ bản từ lớp dưới, nhiệt tình hợp tác trong giờ học.
2. Khó khăn
- Cơ sở vật chất nhà trường cơ bản đáp ứng được hoạt động dạy và
học nhưng còn hạn chế, chưa đồng bộ. Nguồn tài liệu, sách tham khảo của
nhà trường, của lớp học còn chưa phong phú.
- Bản thân tơi là giáo viên tuy đã có kinh nghiệm nhưng cịn thiếu
sót trong đổi mới phương pháp, tổ chức giờ dạy lôi cuốn và chất lượng.
- Chất lượng học sinh lớp được phân công giảng dạy không đồng
đều, còn một số học sinh đạt kết quả chưa cao.
- Đa số các em học sinh còn rụt rè, nhút nhát, kĩ năng nói, kĩ năng giao
tiếp yếu.
Trên thực tế giảng dạy, tôi thấy nhiều học sinh lớp 7 trường THCS
Võ Thị Sáu còn e ngại trong giao tiếp, rụt rè khi được gọi trình bày một
vấn đề. Bên cạnh đó có những em mạnh dạn nhưng lại trình bày lan man,
thiếu trọng tâm, khơng ít em nói cộc lốc, phát âm chưa chuẩn… Thời gian
đối với phần “nói và nghe” rất ít so với các phần khác của chương trình mà
học sinh lại khơng có kĩ năng nói thì hiệu quả của tiết học sẽ rất hạn chế
khơng thể đạt được mục tiêu đề ra. Vì những lí do trên tơi lựa chọn biện
pháp "Rèn kĩ năng nói cho học sinh qua tiết Nói và nghe mơn Ngữ văn
lớp 7" nhằm nâng cao kĩ năng nói, kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 7
trường TH&THCS Võ Thị Sáu.
II. Nội dung giải pháp

* Mục đích của biện pháp
Thứ nhất, giúp học sinh có thể đọc và nói đúng tiếng Việt.
Thứ hai, giúp học sinh giao tiếp tốt bằng lời nói. Tức là học sinh có
thể giao tiếp với từng đối tượng bằng những lời lẽ phù hợp
Thứ ba, giúp học sinh tự tin, mạnh dạn trình bày điều mình muốn
nói. Điều này thể hiện ở 3 cấp độ: học sinh đủ tự tin và mạnh dạn để nói,
để phát biểu chứ không rụt rè, nhút nhát, bởi đã được làm quen, được rèn
luyện với việc phát biểu.
1. Biện pháp cụ thể
Biện pháp thứ nhất: Rà soát, khảo sát, phân loại đối tượng học
sinh
Qua quan sát thực tế và khảo sát, có thể phân loại các đối tượng học
sinh theo nhóm đối tượng.
Nhóm 1: Học sinh mạnh dạn, tự tin, biết nói đúng trọng tâm
2


- Khích lệ để học sinh ln được thể hiện mình, biết nói hay, nói
thuyết phục, nói kết hợp với những hành động cử chỉ phù hợp.
- Giao cho nhóm học sinh này chia sẻ, hướng dẫn nhóm có kĩ năng yếu
hơn.
- Tập viết, dàn dựng tiểu phẩm để thể hiện kĩ năng nói.
- Khuyến khích HS tham gia vào các hoạt động ngồi giờ lên lớp có
liên quan đến thuyết trình để thể hiện bản thân.

Học sinh thảo luận dàn dựng tiểu phẩm trước khi nói.
Nhóm 2: Học sinh tương đối mạnh dạn, tự tin và nói chưa đúng
trọng tâm
- Giáo viên cần điều chỉnh kịp thời khi học sinh nói khơng đúng
trọng tâm.

- u cầu HS chuẩn bị thật chu đáo nội dung để tập nói theo ý chính.
- u cầu nói theo nội dung đã chuẩn bị: Có thể chuẩn bị theo dạng
sơ đồ tư duy, chuẩn bị kĩ theo phiếu học tập.
- Nhắc HS tự rèn luyện để nói đúng, nói chuẩn kể cả trong những tiết
học khác.

3


Học sinh trình bày bài nói trên lớp thơng qua Powerpoint tự làm
Nhóm 3: Học sinh thiếu tự tin, kĩ năng nói yếu (nói ngọng, nói
lắp, nói nhỏ..)
- Giáo viên cần quan tâm tạo hứng thú cho đối tượng này. Theo quy
tắc 3-2-1 (3 khen, 2 góp ý, 1 thắc mắc)
- Ln có những khích lệ động viên kịp thời. Cần khen ngợi và ghi
nhận những tiến bộ nhỏ nhất của học sinh.
- Gần gũi, chia sẻ giúp học sinh thoải mái tự tin hơn.
- Nghiêm khắc với những học sinh có hành động chê cười khi bạn
nói lắp nói ngọng

Giáo viên quan tâm đến đối tượng học sinh yếu
Nhóm 4: Học sinh nhút nhát, không chịu giao tiếp
4


HS giúp đỡ nhóm học sinh có kĩ năng yếu
- Tìm hiểu nguyên nhân, kết hợp với giáo viên chủ nhiệm và gia
đình để động viên khuyến khích. (Theo quy tắc ba khen, hai góp ý, một
thắc mắc)
- Chỉ yêu cầu học sinh đứng trước lớp và chào các bạn bên dưới,

khơng cần u cầu trình bày nội dung.
- Giao cho những học sinh giao tiếp tốt động viên chia sẻ với bạn để
tạo sự gần gũi trong những giờ ra chơi.
- Khi học sinh đã tự tin đứng trước lớp, giáo viên sẽ gợi ý nội dung
nói và nâng cao dần yêu cầu.
- Giáo viên cần chú ý tránh bỏ rơi đối tượng học sinh này trong các
tiết học.
Biện pháp thứ hai: Giao bài cụ thể cho nhóm học sinh
Đây là phần quan trọng quyết định kĩ năng nói của học sinh. Học
sinh có tự tin và nói đúng trọng tâm hay khơng cần phải có sự chuẩn bị
chu đáo, kĩ càng.
+ Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể: có thể thực hiện trên phiếu học
tập.
+ Giao nhiệm vụ sớm: Cần giao trong khoảng thời gian phù hợp để
học sinh có thể chuẩn bị kĩ càng.
+ Giáo viên hướng dẫn cụ thể nội dung nói, hình thức nói để học
sinh chuẩn bị.
+ Giáo viên kiểm tra phần chuẩn bị của học sinh trước tiết học và
hướng dẫn học sinh điều chỉnh nội dung nếu cần. Có thể phối kết hợp với
Giáo viên chủ nhiệm, phụ huynh để điều chỉnh phần chuẩn bị bài của học
sinh.
5


+ Chia nhóm phù hợp để học sinh nói với nhau trước khi vào tiết
học: Giáo viên chia nhóm sao cho thuận tiện nhất để học sinh có thể tranh
thủ nói khi ra chơi, khi ở nhà… Tránh chia những học sinh có kĩ năng yếu
như nhau vào một nhóm.
Biện pháp thứ ba: Giáo viên cần sử dụng thành thạo và linh hoạt
các phương pháp trong tiết học “Nói và nghe”: theo quy tắc ba, hai,

một.
+ Giáo viên cần cho học sinh nắm rõ yêu cầu khi trình bày bài nói
trong sách giáo khoa về tâm thế, về lời nói, cử chỉ điệu bộ.
+ Giáo viên ln quan sát, khích lệ động viên kịp thời để học sinh tự
tin nói trước bạn, trước lớp.
+ Giáo viên gọi học sinh nói tốt lên làm mẫu một lần để những học
sinh khác học tập. Nếu học sinh không làm được, giáo viên có thể định
hướng, làm mẫu hoặc cho xem những đoạn video học sinh trình bày bài
nói hay, hấp dẫn mà giáo viên sưu tầm được.
Biện pháp thứ tư: Giáo viên cần linh hoạt thay đổi hình thức tổ
chức phần “nói” tránh sự nhàm chán cho học sinh
Sau khi đã rèn học sinh có kĩ năng nói trước lớp, giáo viên có thể tổ
chức cho học sinh nói qua cách xây dựng tiểu phẩm, đóng vai hoặc qua
tranh ảnh, video…
Biện pháp thứ năm: Chú ý rèn kĩ năng nói cho học sinh trong
các tiết khác:
Vì thời lượng tiết “Nói và nghe” rất ít nên khơng đủ để học sinh cả
lớp đều được nói, chính vì vậy giáo viên cần lưu ý rèn kĩ năng nói đối với
những đối tượng cịn nhút nhát, thiếu tự tin trong các tiết học khác của bộ
môn bằng cách:
+ Giáo viên cần quan sát và điều chỉnh hành vi nói của học sinh mọi
lúc, mọi nơi: Nếu giáo viên bắt gặp tình huống học sinh nói, giao tiếp chưa
chuẩn mực thì cần có sự điều chỉnh kịp thời, tránh bỏ qua vì cho rằng học
sinh khơng thuộc lớp mình dạy hay khơng trong giờ quản lí của mình.
2. Tính mới của biện pháp
Qua nghiên cứu và thực hiện sáng kiến với năm biện pháp nêu
trên. Sáng kiến đã nêu ra một số biện pháp mang tính mới so với các
biện pháp đã biết và các biện pháp này đã bước đầu mang lại hiệu quả
Biện pháp thứ nhất: “Rà soát, khảo sát, phân loại đối tượng học
sinh”;

6


biện pháp thứ hai: “Giao bài cụ thể cho từng nhóm học sinh” Đây là hai
biện pháp mới nhất và tâm đắc nhất trong năm biện pháp mới mà tôi đã
đưa ra. Việc áp dụng hai giải pháp này đã mang hiệu quả to lớn đối với
học sinh, giáo viên giảng dạy.
- Đối với học sinh
Khích lệ tinh thần của các em rất nhiều, vì việc chia nhóm và giao
bài cụ thể cho học sinh phát huy tính chủ động, tự tin trình bày, trao đổi
thơng tin trong nhóm và trước lớp đặc biệt nhóm học sinh mạnh tự tin có
thể tự làm video, powerpoint làm tiểu phẩm trình bày trước lớp, có thể
giúp đỡ nhóm yếu. Các em học sinh yếu có thể tự tin trình bày ở mức đơn
giản.
- Đối với giáo viên:
Quan tâm động viên, gần gũi học sinh hiểu tâm lý của học sinh từ
đó giúp đỡ học sinh yếu để các em mạnh dạn tự tin học tập và phát biểu
chứ không rụt rè, nhút nhát, bởi được làm quen phát biểu ý kiến trước lớp.
Biện pháp thứ ba: “Giáo viên cần sử dụng thành thạo và linh hoạt
các phương pháp trong tiết học “Nói và nghe”: theo quy tắc ba, hai,
một.”
Biện pháp thứ tư: “Giáo viên cần linh hoạt thay đổi hình thức tổ
chức phần “nói” tránh sự nhàm chán cho học sinh” Biện pháp thứ
năm: “Chú ý rèn kĩ năng nói cho học sinh trong các tiết khác”: đây là
biện pháp đã biết nhưng biện pháp mà tơi đưa ra đã có sự cải tiến. Đó là
thay đổi hình thức dạy học giúp học sinh không nhàm chán trong giờ học.
Mà tôi khéo léo lồng ghép cùng giáo viên bộ môn khác trong các giờ học,
mơn học để các em tích cực học tập hơn, tự tin mạnh dạn.
Biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh qua tiết “Nói và nghe” mơn
Ngữ văn 7 đã áp dụng trong nhà trường năm học 2022-2023 cho đến nay

và có thể áp dụng cho tất cả đối tượng học sinh ở các môn học khác ở các
khối lớp
III. Kết quả đạt được do áp dụng giải pháp
Với sự phối hợp những biện pháp trên một cách hài hồ, linh hoạt, tơi
nhận thấy chất lượng học sinh có sự chuyển biến đáng kể. Cụ thể như sau:
* Trước khi áp dụng giải pháp
Nhóm

HS mạnh
dạn, tự tin,

Học sinh
tương đối
7

Học sinh thiếu
tự tin, kĩ năng

Học sinh
nhút nhát,


biết nói
mạnh dạn,
đúng trọng tự tin và nói
tâm
chưa đúng
trọng tâm
Số lượng
2 HS

5 HS
Tỉ lệ
10.5%
26,3 %

nói yếu

khơng chịu
giao tiếp

11 HS
57,9 %

1 HS
5,2%

Kết quả khảo sát trên cho thấy số lượng học sinh cịn mạnh dạn tự tin
biết nói trước lớp những nội dung cơ bản chiếm tỉ lệ rất khiên tốn. Đa số
học sinh còn rụt rè, thiếu tự tin, kĩ năng nói cịn hạn chế
* Sau khi áp dụng giải pháp
Sau khi áp dụng những giải pháp trên, kết quả kháo sát thu lại được như sau:
Nhóm
HS mạnh
Học sinh
Học sinh thiếu
Học sinh
dạn, tự tin, tương đối
tự tin, kĩ năng
nhút nhát,
biết nói

mạnh dạn,
nói yếu
khơng chịu
đúng trọng tự tin và nói
giao tiếp
tâm
chưa đúng
trọng tâm
Số lượng
5 HS
9 HS
4 HS
1 HS
Tỉ lệ
26,3%
47,4 %
21 %
5,2%
Qua bảng khảo sát trên cho thấy kết quả đã có những chuyển biến rõ
rệt. Số học sinh biết nói và có một số kĩ năng nói đã lên đến 50%. Đặc biệt
đã hộ trợ được 1 em học sinh nhút nhát bước đầu biết đứng để nói trước
lớp. Từ việc giúp học sinh tự tin hơn khi nói và nói đúng trọng tâm đã giúp
cho chất lượng bài kiểm tra cũng tăng lên đáng kể.
IV. Bài học kinh nghiệm
1. Ưu điểm và hạn chế của biện pháp

* Ưu điểm
- Dễ áp dụng và nhân rộng, tận dụng được các nguồn lực vốn có của
trường, lớp.
- Phát huy tính tự giác, tính năng động của học sinh.

- Nâng cao được chất lượng học sinh còn hạn chế về năng lực, từ đó
nâng cao chất lượng bộ mơn.
- Nâng cao thần trách nhiệm của giáo viên trong công tác giảng dạy.
* Hạn chế
8


- Cần nhiều thời gian.
- Đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của học sinh.
- Giáo viên bộ môn cần kiên trì, tận tụy vì học sinh.
2. Phương hướng khắc phục các hạn chế
- Phối hợp linh hoạt các biện pháp trong dạy chính khóa và dạy tăng
cường trong các tiết phụ đạo, bồi dưỡng thêm.
- Kịp thời động viên, khích lệ tinh thần của học sinh và giáo viên.
3. Khả năng triển khai rộng rãi biện pháp
Với những thành công thu được từ sáng kiến trên tôi thiết nghĩ biện
pháp này có thể áp dụng, nhân rộng ở các lớp khác trong trường THCS
Võ Thị Sáu. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, tùy theo đối tượng học
sinh của từng lớp mà giáo viên sẽ có sự điều chỉnh cho phù hợp.
V. Kiến nghị, đề xuất
- Đối với giáo viên: Cần nhiệt tình tâm huyết, dành nhiều thời gian
quan tâm đến đối tượng học sinh còn nhút nhát, kĩ năng nói cịn hạn chế.
- Đối với nhà trường: Chú trọng bồi dưỡng chuyên môn cho giáo
viên; tạo điều kiện thời gian cho giáo viên đầu tư, đổi mới chuyên mơn; có
sự động viên, khuyến khích với giáo viên thực hiện cơng tác có hiệu quả.
- Đối với gia đình: Mỗi bậc phụ huynh cần sát sao hơn nữa, động
viên, khích lệ, tạo điều kiện tốt nhất cho con được nói được chia sẻ những
cảm xúc suy nghĩ của mình. Gia đình cần biết lắng nghe và kịp thời điều
chỉnh hành vi của con.


9


Trên đây là bản báo cáo "Rèn kĩ năng nói cho học sinh qua tiết Nói
và nghe mơn Ngữ văn lớp 7 ".
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của nhà trường
, ngày 30 tháng 11 năm 2022
……………………………
Người viết báo cáo
……………………………
10


……………………………
…………………………….

11



×