Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tiểu luận cao học lịch sử xây dựng đảng cộng sản vn đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.28 KB, 32 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài :
ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


Contents
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................................1
Chương 1................................................................................................................................................4
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG...................................................................4
ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC...............................................................................................................................4
Quan điểm về phương thức lãnh đạo của Đảng trong hệ thống lý luận nền thảng tư tưởng của
Đảng...................................................................................................................................................4
Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước...................................................................................................................................................8
Chương 2..............................................................................................................................................13
THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC HIỆN NAY.........13
Khái quát thực trạng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan nhà nước hiện nay.
.........................................................................................................................................................13
Những tồn tại, hạn chế, bất cập trong thực hiện phương thức lãnh đạo của Đảng trong các cơ quan
nhà nước..........................................................................................................................................15
Nguyên nhân....................................................................................................................................18
Nguyên nhân khách quan:............................................................................................................18
Nguyên nhân chủ quan:................................................................................................................19
Chương 3..............................................................................................................................................21
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP VỀ VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI NHÀ NƯỚC....................................................................................................................................21
Những thách thức đối với việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong cơ quan nhà
nước.................................................................................................................................................21
Một số giải pháp tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thong thời


gian tới.............................................................................................................................................22
KẾT LUẬN..............................................................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................................................29


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện; là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện
chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Trong hệ thống tổ chức của Đảng,
các tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị lãnh đạo mọi
mặt đời sống xã hội ở đơn vị cơ sở.
Khi chưa giành được chính quyền thì sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu trên
một số lĩnh vực như chính trị, quân sự, ngoại giao; sau khi Đảng giành được
chính quyền thì sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như:
kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học...Đặc biệt, sau khi thành lập Nhà nước đòi hỏi
Đảng phải xác định được vai trò, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội.
Với vai trò, sứ mệnh của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trị chủ
thể lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội với mục tiêu cao nhất là xây dựng thành
công Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Quyền lực chính trị
của đảng cầm quyền và quyền lực nhà nước có liên quan mật thiết với nhau
nhưng khơng đồng nhất. Quyền lực chính trị của Đảng chính là quyền định
hướng, hoạch định quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách lớn; quyền sử
dụng bộ máy nhà nước để thực hiện các mục tiêu chính trị của mình. Trong đó,

năng lực cầm quyền của Đảng gắn liền với năng lực hoạch định, đề ra đường lối
chính trị; năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên được Đảng giới thiệu để bầu
cử hoặc bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý trong các tổ chức của hệ thống
chính trị, đặc biệt là bộ máy của Nhà nước và năng lực kiểm tra, giám sát, kiểm
soát việc thực hiện đường lối chính trị của Đảng trong hoạt động Nhà nước. Vì


2

vậy, để thực hiện được vai trò cầm quyền của mình, địi hỏi Đảng cần nâng cao
tầm trí tuệ và tập trung xây dựng bộ máy thực hiện tốt ba khâu công tác, gồm:
Xây dựng và quyết định đường lối chính trị; giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ
đủ năng lực, trình độ và uy tín để thực hiện có hiệu quả đường lối chính trị của
Đảng thơng qua các hoạt động của nhà nước; kiểm tra, giám sát được q trình
thực hiện đường lối chính trị trong thực tiễn. Để đạt được mục tiêu, yêu cầu, các
nội dung đó, cần phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua tổ
chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước
Vì thế, em đã chọn đề tài: “Đối mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước ở Việt Nam hiện nay” là đề tài tiểu luận.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ
2.1.

Mục tiêu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước, qua đó đánh giá được thực trạng đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
2.2.

Nhiệm vụ


Tìm hiểu cơ sở lý luận về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, sua đó phân tích những thành tựu và hạn chế và đề ra giải pháp về việc
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Đổi mới Phương thức lãnh đạo của Đảng
3.2.

Phạm vi nghiên cứu

Đề tài đi sâu nghiên cứu phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1.

Cơ sở lý luận


3

Tiểu luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối và các văn kiện của Đảng.
4.2.

Phương pháp nghiên cứu


Tiểu luận sử dụng phương pháp lịch sử, so sánh, nghiên cứu tài liệu để
giải quyết những vấn đề của đề tài đặt ra.
5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mực danh tài liệu tham khảo, tiểu luận còn
được kết cấu thành 3 chương.


4

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là hệ thống các phương
pháp, các hình thức, các biện pháp mà Đảng tác động vào Nhà nước để hiện
thực hóa ý chí và mục tiêu của Đảng. Về nguyên tắc, mục tiêu cao nhất của
Đảng lãnh đạo Nhà nước là tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Nhà
nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân bằng Nhà nước, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của Nhà nước trong quá trình xây dựng xã hội mới, nhằm làm cho mục
tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng nói chung, của từng thời kỳ nói riêng
được thực hiện có hiệu quả cao. Theo đó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước bị quy định bởi đặc tính khách quan và chức năng cơ bản của hệ
thống tổ chức nhà nước và tính chất lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phản ánh mối quan
hệ giữa mục tiêu và phương tiện, điều kiện đạt mục tiêu, hay nói rộng ra, đó là
mối quan hệ giữa chức năng của hệ thống và cơ chế thực hiện. Vì vậy, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước xuất phát từ những cơ sở lý
luận và thực tiễn sau:
Quan điểm về phương thức lãnh đạo của Đảng trong hệ thống lý luận nền
thảng tư tưởng của Đảng.
C. Mác và Ph. Ăngnghen đã dành cả cuộc đời để xây dựng hệ thống lý

luận cách mạng và truyền bá, trang bị cho giai cấp cơng nhân những tri thức
chính trị cần thiết để tự giải phóng mình và giải phóng xã hội. Dù các ông chưa
đề cập cụ thể về phương thức lãnh đạo của Đảng, nhưng nhiều luận điểm quan
trọng về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với sự nghiệp cách mạng vô
sản đã được đề cập khá cụ thể, gợi ý cho hậu thế tiếp tục nghiên cứu làm phong
phú thêm các phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Qua các tác phẩm
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, “ Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 - 1850”,


5

“Ngày mười tám tháng sương mù của Louis Bonaparte”, “Nội chiến ở Pháp”
chúng ta có thể lĩnh hội những bài học sâu sắc đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng như sau:



Thứ nhất; về mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp vô sản.
C. Mác và Ph. Ăngnghen nhận định: giai cấp vô sản phải tự tổ chức thành

chính Đảng, đó là tổ chức tập hợp những người triệt để cách mạng nhất, ưu tú
nhất của giai cấp, để đại diện cho quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Đảng Cộng sản là bộ phận không thể tách rời của giai cấp vô sản, sự
ra đời của Đảng là phục vụ cho việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp,
đồng thời đánh đấu bước trưởng thành của phong trào công nhân. Những người
Cộng sản “Họ tuyệt nhiên khơng có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của tồn thể
giai cấp vơ sản”(1). Vì vậy, họ phải lựa chọn những đại biểu tiêu biểu nhất của
giai cấp, để làm tốt chức năng đại diện trung thành với lợi ích của giai cấp.




Thứ hai, khẳng định vai trò tiên phong của Đảng Cộng sản đối với giai
cấp.
Một mặt, C. Mác và Ph. Ăngnghen khẳng định tính thống nhất giữa Đảng

và giai cấp, nhưng sẽ là sai lầm nếu xem Đảng và giai cấp là một. Sự khác nhau
giữa Đảng và giai cấp là vai trò tiên phong của Đảng Cộng sản đối với giai cấp:
“Những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công nhân ở
tất cả các nước, là bộ phận cổ vũ tất cả những bộ phận khác: Về mặt lý luận, họ
hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến
trình và kết quả chung của phong trào vơ sản”(2). Vì thế, Đảng phải trở thành
lãnh tụ của phong trào, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp, đưa các tư tưởng xã
hội chủ nghĩa vào giai cấp; định hướng phong trào bằng đường lối chính trị, xác
định mục tiêu, nhiệm vụ, phương pháp cách mạng; năng lực tổ chức các cuộc
đấu tranh để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân. Đó cũng là
phương thức để Đảng làm tốt vai trò lãnh đạo của mình. Ngược lại, sự trưởng
thành của giai cấp cơng nhân không chỉ dừng lại ở sự ra đời của Đảng Cộng sản,


6

mà còn thể hiện sự trưởng thành trong nhận thức và hành động phải chấp hành
sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp.
Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi lãnh đạo quá trình thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam, Người đã rất kỳ công và dành nhiều tâm sức để lựa chọn
nhân sự từ những nhân tố tinh hoa của giai cấp và dân tộc vào bộ máy lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước. Nhiều người trong số họ trở thành lãnh đạo xuất sắc của
Đảng, có sức ảnh hưởng lớn trong quần chúng, làm cho cuộc cách mạng sớm
thành cơng và ít tổn thất hơn.




Thứ ba, Đảng Cộng sản phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo
để tiếp tục sứ mệnh lãnh đạo giai cấp sau khi đã có chính quyền
Trong Tun ngơn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngnghen chỉ mới

đề cập đến nhiệm vụ trước tiên của giai cấp vô sản phải đập tan, phá bỏ bộ máy
nhà nước của giai cấp thống trị cũ. Nhưng từ thực tiễn của Công xã Pari, các ông
tiếp tục bổ sung vào Tuyên ngôn luận điểm quan trọng: “Sau 20 năm nếu nói cái
gì phải bổ sung thì chính là ngun lý: “giai cấp cơng nhân không thể chỉ nắm
lấy bộ máy nhà nước sẵn có và bắt nó phục vụ mình”(3). Như vậy, khơng chỉ
phải phá bỏ nhà nước cũ mà còn trên cơ sở đó, giai cấp cơng nhân xây dựng bộ
máy nhà nước mới để phục vụ cho mục đích của mình. Từ đây, những người
Cộng sản phải ý thức trọng trách vô cùng nặng nề của một Đảng cầm quyền,
quyết định thắng bại của cả một sự nghiệp, liên quan đến vận mệnh của hàng
triệu triệu người và vận mệnh của nhiều quốc gia, dân tộc. Sau khi giành được
chính quyền, Đảng chính thức trở thành một Đảng cầm quyền, những tri thức
khoa học trong cuộc đấu tranh dành chính quyền ở giai đoạn trước là chưa đủ, tổ
chức Đảng và từng đảng viên phải tự nâng mình, vươn lên làm chủ các tri thức
lý luận về xây dựng nhà nước, thực thi quyền lực nhà nước, điều hành, quản lý
các nguồn lực của xã hội.
V.I. Lênin, Người trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng Tháng Mười Nga, đã
dành nhiều tâm sức để xây dựng một chính Đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân. Không chỉ sắc sảo trong tư duy lý luận, Lênin còn thể hiện lập trường


7

cứng rắn chống lại những lệch lạc về nhận thức chính trị trong hàng ngũ những
người Cộng sản. Đó là bệnh coi thường lý luận, bệnh tả khuynh, hữu khuynh, cơ

hội, cải lương v.v..trong một bộ phận lãnh tụ của Đảng Cộng sản lúc bấy giờ.
Trên lĩnh vực tư tưởng, Lênin đặc biệt nhấn mạnh: “Chủ nghĩa Mác là lý
luận của phong trào giải phóng của giai cấp vơ sản”(4), Người coi đó là vũ khí
lý luận sắc bén của Đảng và: “Chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng
dẫn thì mới có khả năng làm trịn vai trị chiến sĩ tiên phong”(5). Như vậy, làm
tốt cơng tác lý luận bao gồm nghiên cứu, tổng kết, phát triển, truyền bá lý luận
vào quần chúng công nhân; bổ sung, hoàn thiện và bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng theo sát với thực tiễn cách mạng là một phương thức lãnh đạo của Đảng
cầm quyền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng dạy cán bộ: Đảng phải lấy chủ nghĩa
làm cốt, vì “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta
trong công việc thực tế”(6), khơng hiểu lý luận chẳng khác gì người mù đi trong
đêm. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc học tập lý luận, không
được coi thường lý luận nhưng không được lý luận suông, phải gắn học tập lý
luận, vận dụng sáng tạo lý luận với giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Trên phương diện chính trị, từ nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác, Lênin
yêu cầu, các Đảng Cộng sản phải xây dựng được cương lĩnh chính trị, trong đó
xác định đúng đối tượng cách mạng, lực lượng cách mạng, nhiệm vụ cách mạng
và phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn, phù hợp với tích chất và
đặc điểm cũng như hồn cảnh lịch sử cụ thể ở mỗi nước, nhằm triệt để khai thác
mọi cơ hội, mọi nguồn lực, đưa cách mạng từng bước tiến lên. Xây dựng Đảng
vững vàng về chính trị khơng chỉ nói lên tố chất lãnh đạo của một Đảng thực sự
cách mạng, đó cịn là một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng cần quan
tâm nghiên cứu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam là mẫu mực sáng tạo
khi vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh thực tế Việt Nam,
một nước chưa có sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, mang đậm tính đặc thù của


8


một nước thuộc địa nửa phong kiến. Đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo
của Đảng đã làm nên thắng lợi cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt
Nam hồ vào dịng chảy của cách mạng thế giới.
Trên phương diện xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, Lênin đặc biệt
khẳng định: để làm tốt vai trò chiến sĩ tiên phong, Đảng phải được xây dựng
vững mạnh về tổ chức, “Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền, giai cấp vơ
sản khơng có vũ khí nào khác hơn là sự tổ chức”(7), làm tốt công tác xây dựng
Đảng về tổ chức là một phương thức lãnh đạo của Đảng, nhằm củng cố tổ chức
nội bộ Đảng, trở thành trung tâm đoàn kết giai cấp và dân tộc, nơi đề xuất đường
lối cách mạng và có năng lực tổ chức thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.
Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải không ngừng học tập, rèn
luyện năng lực, trí tuệ, bản lĩnh người cộng sản. Thường xuyên coi đó là nhiệm
vụ, trách nhiệm của cá nhân và các tổ chức của Đảng: Một là học tập, hai là học
tập, ba là học tập mãi. Đảng phải là đại diện cho trí tuệ, danh dự và lương tâm
của thời đại.
Thực tế hiện nay chứng minh nhận định trên vẫn nguyên vẹn giá trị định
hướng của thời đại. Phẩm chất, năng lực, đạo đức, tư cách của từng đảng viên,
tạo nên uy tín và quyết định năng lực cầm quyền của Đảng. Chăm lo phát triển
đội ngũ cán bộ, đảng viên tài cao, đức sáng, vững vàng trên các cương vị lãnh
đạo ở tất cả các lĩnh vực; mỗi đảng viên là mẫu mực về tài năng và nhân cách là
một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện đã có chính
quyền.
Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước.
Đảng cộng sản Việt Nam là một Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn diện đời
sống kinh tế- xã hội, nhưng Đảng lại là một thành viên trong hệ thống chính trị,
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng đường lối chính trị, bằng Chỉ thị, nghị
quyết của Đảng; quyền lực của Đảng khác với quyền lực Nhà nước. Sự khác



9

nhau đó quy định những điểm khác biệt về chức năng, nhiệm vụ, phương thức
và phương pháp hoạt động giữa Đảng và Nhà nước, giữa Đảng với các tổ chức
chính trị - xã hội khác.
Trong nhận thức và hành động cần phân biệt rõ ràng những khác biệt giữa
vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý điều hành của Nhà nước, đặc biệt là
phải kiên quyết, mạnh dạn chuyển từ đổi mới nhận thức sang đổi mới tổ chức và
hoạt động của Đảng và Nhà nước; kiên quyết tránh tình trạng Đảng bao biện làm
thay, ơm việc nhỏ, bỏ việc chính “Hành chính hố hoạt động của Đảng” và
“Hình thức hố hoạt động của Nhà nước” làm cho Đảng làm thay vai trò quản lý
điều hành của Nhà nước thì khơng phát huy được quyền lực của Nhà nước, vừa
thụ động vừa trì trệ, xơ cứng trong quản lý điều hành hoạt động của toàn xã hội,
trong khi đó Đảng cũng khơng phát huy đượcvai trị lãnh đạo của mình. Thước
đo hiệu quả vai trị lãnh đạo của Đảng phải được thể hiện đường lối, chỉ thị, nghị
quyết và được hiện thực hoá ở hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước. Để
đảm bảo hoạt động quản lý, điều hành của minh, Nhà nước phải dùng đến sức
mạnh của tổ chức và hành chính cũng như sức mạnh cưỡng chế của hệ thống
Luật pháp.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể hiện trên một số nội
dung sau:
 Một là: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, Nghị quyết, bằng công
tác tổ chức cán bộ và kiểm tra, giám sát việc Nhà nước triển khai, thực
hiện đường lối, nghị quyết đó? thơng qua các tổ chức của Đảng trong các
cơ quan Nhà nước và thông qua các cơ quan tham mưu, giúp việc của các
cấp uỷ Đảng. Mục tiêu lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là phát huy
vai trò của Nhà nước trong việc thể chế hoá, cụ thể hoá và triển khai tổ
chức thực hiện có hiệu quả những quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với sự
phát triển kinh tế, văn hố, xã hội, an ninh, quốc phịng, đối ngoại.... Mục

tiêu quản lý của Nhà nước là biến toàn bộ những quan điểm, đường lối,


10

nghị quyết của Đảng trở thành hiện thực và có hiệu quả trong đời sống xã
hội.
 Hai là: Mục tiêu lãnh đạo của Đảng và mục tiêu quản lý của Nhà nước có
nội dung tương tự như nhau, nhưng nội dung phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và nội dung quản lý của Nhà nước nhằm đạt mục
tiêu đó lại có nhiều điểm khác nhau. Đảng khơng trực tiếp giải quyết các
công việc của Nhà nước. Nhà nước bằng quyền lực của mình có nhiệm vụ
“bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân
dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân
dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn
diện”.
 Ba là: Hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng khác với hệ thống tổ chức bộ
máy của Nhà nước. Hiện nay, cả hai hệ thống này đều đang đứng trước
yêu cầu cấp bách là phải đổi mới theo hướng phát huy dân chủ- Đảng cầm
quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa (XHCN) “của
dân, do dân và vì dân”; trong sạch, vững mạnh, chống quan liêu, tham
nhũng, lãnh phí có hiệu quả. Đảng đổi mới phương thức lãnh đạo của
mình đối với Nhà nước trên cơ sở Đảng tự chỉnh đốn Đảng, phát huy dân
chủ trong Đảng, “Phải kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng ở tất cả các cấp
từ Trung ương đến cơ sở” theo hướng tinh gọn và hoạt động có hiệu quả
cao, thể hiện thật rõ tính đặc thù của lãnh đạo chính trị. Sử dụng các
chun gia giỏi vào cơng việc được chun mơn hố là một trong những
cách tốt nhất để khắc phục tình trạng bộ máy cồng kềnh- “thừa” cán bộ
mà lại “thiếu” người làm việc, như tình hình đang diễn ra hiện nay.

 Bốn là: Đòi hỏi cấp bách hiện nay đối với Nhà nước trên con đường xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là xây dựng một hệ thống
pháp luật đồng bộ, đẩy nhanh việc cải cách nền hành chính Nhà nước bảo
đảm một bộ máy trong sạch, vững mạnh, hiệu lực và hiệu quả với đội ngũ
công chức được đào tạo cơ bản, tinh thông chuyên môn nghiệp vụ, tận tuỵ


11

mẫn cán, am hiểu và tơn trọng pháp luật, có chế độ công vụ, kỷ luật và
đạo đức nghề nghiệp được đề cao, hết lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ
nhân dân.
 Năm là: Để bảo đảm thực hiện có hiệu quả phương thức lãnh đạo, Đảng
cần đổi mới về tổ chức bộ máy Đảng và Nhà nước cùng đội ngũ cán bộ,
đảng viên, công chức; nâng cao mặt bằng dân trí, nhất là tri thức Pháp
luật; nâng cao vai trị của các cơ quan chức năng, có năng lực thể chế hoá
đường lối, quan điểm của Đảng, tổ chức thực hiện pháp luật; nâng cao
chất lượng của các Ban xây dựng Đảng, nâng cao năng lực tham mưu, tư
vấn trong việc lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với các cơ quan Nhà nước
tương ứng.
 Sáu là: Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, những quan hệ
cơ bản, nhất là quan hệ lãnh đạo và quản lý, phải được thể chế hoá - cả về
quyền hạn lẫn trách nhiệm. Đảng vừa là người lãnh đạo hệ thống chính trị
vừa là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị đó. Đảng là người
lãnh đạo xây dựng Hiến pháp và Pháp luật nhưng Đảng cũng là một tổ
chức chính trị, một bộ phận hữu cơ của xã hội, do đó, trong tổ chức và
hoạt động của mình, Đảng phải tuân thủ đúng Hiến pháp và Pháp luật;
đảng viên và các tổ chức của Đảng không được đứng trên, đứng ngoài
Pháp luật. Hơn nữa, sự hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên
không phải chỉ chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước mà còn chịu sự

kiểm tra, giám sát của quần chúng nhân dân và các tổ chức chính trị- xã
hội.
Nhu cầu thể chế hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
nói chung và hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước nói riêng xuất phát từ địi hỏi
khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xã hội ngày
càng phát triển, tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước ngày càng trở nên
chuyên nghiệp, hiện đại, nhu cầu dân chủ hoá đời sống xã hội ngày càng cao...
Thể chế hố vai trị và phương thức lãnh đạo của Đảng cịn có ý nghĩa đề cao
trách nhiệm của Đảng bằng Pháp luật trước nhân dân. Nhưng hiện nay, trong


12

Hiến pháp chỉ mới ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội nói chung. Do đó, các quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng về tổ chức bộ
máy, nội dung và mục tiêu căn bản trong hoạt động Nhà nước cần phải được thể
chế hố, cơng khai hố và triển khai thực hiện theo hệ chuẩn pháp luật đã xác
định. Hệ thống quy phạm đó phải xác định rõ thẩm quyền, phạm vi và trách
nhiệm cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng, nhiệm vụ của Nhà nước trong việc
triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng.


13

Chương 2
THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
Khái quát thực trạng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cơ
quan nhà nước hiện nay.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị

tiếp tục được tăng cường, nhất là với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
đồng thời phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước.
Về phương thức, Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước thông qua đề ra
những định hướng, nguyên tắc, quan điểm, chủ trương, giải pháp lớn, từ đó các
cơ quan của nhà nước thảo luận, quyết định, cụ thể hoá sự lãnh đạo của Đảng
theo chức năng, thẩm quyền của từng cơ quan, đơn vị đã được quy định, Đảng
giáo dục, rèn luyện, lựa chọn và giới thiệu được cán bộ, đảng viên có trình độ,
năng lực và phẩm chất tốt, có uy tín đối với đảng viên và nhân dân để các cơ
quan, tổ chức xem xét, bầu cử, bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý trong tổ
chức bộ máy Nhà nước.
Về mặt tổ chức, Đảng đã nhất quán thực hiện có kết quả chủ trương ở đâu
có tổ chức, đồn thể thì ở đó có tổ chức đảng và ở đâu có quần chúng thì ở đó
cần có đảng viên để lãnh đạo nhằm bảo đảm các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị
của Đảng được triển khai đi vào cuộc sống. Theo đó, hệ thống tổ chức của Đảng
đã được thành lập tương ứng với cơ cấu tổ chức của các cơ quan nhà nước từ
Trung ương tới cơ sở. Trong một số cơ quan, đơn vị, mơ hình tổ chức đảng dưới
dạng ban cán sự đảng, đảng đoàn, hoặc cấp uỷ, một số tổ chức đảng thành lập và
hoạt động theo khối. Bên cạnh việc thành lập cơ quan, tổ chức là việc ban hành
được các quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ


14

chức đảng để bảo đảm thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của Đảng trong từng cơ
quan, tổ chức và địa phương. Có nhiều tổ chức đảng trong các loại hình cơ quan,
đơn vị đã phát huy vai trị lãnh đạo và là hạt nhân chính trị ở cơ sở; có nhiều mơ
hình mới và điển hình tiên tiến, lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, cơng
tác chun mơn, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế

- xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phịng, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên và lãnh đạo, quản lý các cấp trưởng thành về
mọi mặt, đại đa số có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức,
lối sống, kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với đường lối phát triển đất nước
do Đảng lãnh đạo, có ý thức phục vụ nhân dân, gương mẫu thực hiện tốt chức
trách, nhiệm vụ được giao, tích cực tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh. Trong thực hiện nhiệm vụ đã nêu cao ý thức tiền phong, gương mẫu, tinh
thần trách nhiệm. Nhờ đó, vai trị lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội được
giữ vững, từng bước được tăng cường, niềm tin của nhân dân với Đảng được
củng cố.
Thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TW (khoá XI) về “một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết số 04/NQ-TW (khoá XII) về “
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện t"ự diễn biến", "tự chuyển hoá"
trong nội bộ”, nhiều tổ chức đảng trong cơ quan nhà nước, trong đó có người
đứng đầu, đã chủ động, tích cực xây dựng, hoàn chỉnh quy chế làm việc của cấp
uỷ, tổ chức đảng (ban cán sự đảng, đảng đoàn). Trong đó, có xác định rõ nguyên
tắc, nội dung, phương thức lãnh đạo, xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của tập
thể và cá nhân, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu, mối quan hệ giữa
người đứng đầu là bí thư ban cán sự đảng, đảng đồn với tập thể cấp uỷ, với
lãnh đạo bộ, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân cùng cấp... Đồng thời, tổ chức
thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy định đó của tổ chức, cơ quan, đơn vị


15

mình gắn với các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Qua đó, vừa
thực hiện tốt vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của tổ
chức đảng và người đứng đầu tổ chức đảng, vừa thực hiện tốt chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của tổ chức nhà nước và người đứng đầu, cán bộ chủ chốt của tổ
chức nhà nước là bí thư ban cán sự đảng, đảng đồn, bí thư cấp uỷ hoặc cấp uỷ
viên, uỷ viên ban cán sự đảng, đảng đồn... khắc phục tình trạng người đứng đầu
độc đốn, chun quyền, gia trưởng, thiếu dân chủ, thậm chí vi phạm nguyên tắc
tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách hoặc cấp uỷ, tổ chức đảng
“lấn sân”, bao biện, làm thay cơng việc của chính quyền và người đứng đầu, cán
bộ chủ chốt của cơ quan nhà nước.
Những tồn tại, hạn chế, bất cập trong thực hiện phương thức lãnh đạo của
Đảng trong các cơ quan nhà nước
 Trong điều kiện một đảng cộng sản duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cả nước
thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế, hội nhập với thế giới,
lại mới kết thúc chiến tranh chưa lâu, lý luận và nhận thức về phương
thức lãnh đạo của Đảng còn có phần ảnh hưởng từ phương thức lãnh đạo
hình thành trong thời kỳ nền kinh tế vận hành theo mô hình kế hoạch, tập
trung, quan liêu, bao cấp, mọi nguồn lực đều tập trung cho sự nghiệp đấu
tranh, giải phóng đất nước. Lý luận về đảng cầm quyền, về phương thức
lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới với quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế còn
nhiều vấn đề mới mẻ, chưa có kinh nghiệm thực tiễn trong nước và ngay
cả trên thế giới, đòi hỏi phải tìm tịi, vừa làm vừa rút kinh nghiệm nên có
những vấn đề chưa được làm rõ, nhận thức còn khác nhau. Nhận định về
quy trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Báo cáo của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết cơng tác xây dựng Đảng và
thi hành Điều lệ Đảng đã nhấn mạnh: “phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị cịn chậm đổi mới, có mặt cịn lúng túng. Cơ
chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ,


16


hiệu lực, hiệu quả chưa cao”. Việc nghiên cứu, ban hành, sửa đổi, bổ sung
cơ chế, chính sách, pháp luật để thích ứng với q trình vận hành của nền
kính tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời, chưa đầy
đủ, đồng bộ giữa các quy chế, quy định của Đảng và các văn bản quy
phạm pháp luật.
 Quan điểm, nhận thức về phương thức lãnh đạo để chuyển từ nghị quyết,
chỉ thị, kết luận của Đảng thành quyết định quản lý, điều hành của các cơ
quan nhà nước tương ứng còn lúng túng. Trong một số trường hợp chưa
phân định rõ quyền lãnh đạo của Đảng với quyền quản lý, điều hành của
các cơ quan nhà nước. Do việc phân định khơng rõ ràng, có chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn còn chồng chéo, trùng dẫm lên nhau dẫn đến trường
hợp tổ chức đảng bao biện, làm thay hoặc dễ bị buông lỏng sự lãnh đạo,
chỉ đạo đối với hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh đó,
cũng có tình trạng cơ quan nhà nước vì sợ trách nhiệm và để “an tồn”
nên đùn đẩy trách nhiệm cho cấp ủy đảng, người đứng đầu cấp uỷ, tổ
chức đảng, hoặc có khi cũng xác định được thẩm quyền, trách nhiệm của
mình nhưng vẫn “báo cáo, xin ý kiến lãnh đạo, chỉ đạo” của cấp uỷ, tổ
chức đảng để bảo đảm “chắc chắn” và “an tồn”.
 Cơng tác tun truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
nhiều nơi chưa được làm đầy đủ, tới nơi tới chốn, sức thuyết phục kém
nên không đủ sức động viên đảng viên và nhân dân; một số tổ chức đảng
tổ chức học tập, quán triệt, nhất là việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ
thị, quy định của Đảng trong hoạt động thực tiễn của cấp ủy, tổ chức đảng
chất lượng, hiệu quả còn chưa đạt u cầu, thậm chí có nơi làm cịn hình
thức.
 Chất lượng hoạt động của tổ chức đảng còn nhiều bất cập: Có nơi thực
hiện khơng đầy đủ, méo mó hoặc làm chiếu lệ những nguyên tắc tổ chức,
sinh hoạt cơ bản của Đảng như nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình
và phê bình, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Chế độ sinh hoạt cịn
nặng tính hình thức, bệnh thành tích cịn khá phổ biến dẫn tới che giấu



17

khuyết điểm, cịn có hiện tượng x xoa cả nể trong đấu tranh phê bình.
Một số tổ chức đảng có trọng trách, thẩm quyền thiếu quan tâm sâu sát,
chưa thường xuyên, tiến hành kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của tổ
chức đảng cấp dưới và đảng viên do mình quản lý nhằm giữ vững kỷ
cương, kỷ luật của Đảng nên không chủ động phát hiện được các vụ việc
tiêu cực, bê bối, nhất là tham nhũng liên quan trực tiếp tới cán bộ đảng
viên để ngăn chặn, chấn chỉnh hoặc xử lý kịp thời, lại do quần chúng tố
giác, báo chí và dư luận xã hội phê phán làm suy giảm uy tín của tổ chức
đảng.
 Trong sinh hoạt, tình trạng “ngại nói thật” vì sợ mất lịng là khá phổ biến.
Trong nội dung sinh hoạt, khơng có chủ đề, nội dung cụ thể, đôi khi là tuỳ
tiện “tranh thủ” sinh hoạt cùng với nhiệm vụ chuyên môn dẫn tới tình
trạng tổ chức đảng chưa thực sự là nơi sinh hoạt tư tưởng để cấp uỷ nắm
bắt và hiểu hết tâm tư, nguyện vọng của đảng viên làm cho đảng viên
thiếu “mặn mà” với sinh hoạt đảng. Từ sự thờ ơ dẫn đến sự thiếu thẳng
thắn, ý thức, tinh thần chiến đấu không cao, không phát huy được trí tuệ
tập thể, tính giáo dục, vai trị lãnh đạo hạt nhân chính trị ở cơ quan, tổ
chức giảm sút. Cơ chế phát huy vai trò giám sát của nhân dân và các tổ
chức chính trị, xã hội, đồn thể hiệu quả chưa cao.
 Một số tổ chức đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn trong các cơ quan nhà
nước (bộ, ngành ở Trung ương, địa phương - nơi có ban cán sự đảng,
đảng đoàn) chưa chủ động ban hành và tổ chức nghiêm túc quy chế phối
hợp với đảng uỷ cơ quan, chưa thực hiện tốt việc phối hợp với thủ trưởng,
lãnh đạo cơ quan. Trong một số trường hợp, người đứng đầu tổ chức đảng
(ban cán sự đảng, đảng đoàn) hoặc cấp uỷ của cơ quan, đơn vị có tư tưởng
độc đốn, chun quyền hoặc ngụy biện, giản đơn đã bất chấp nguyên tắc,

thực hiện trái thẩm quyền, trách nhiệm dẫn tới vi phạm nguyên tắc, quy
trình, thủ tục, nhất là trong công tác cán bộ, quyết định thực hiện các chủ
trương, dự án đầu tư... dẫn đến sai phạm của cá nhân và khuyết điểm, vi
phạm của tổ chức đảng, vi phạm của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt của


18

cơ quan, đơn vị, tổ chức nhà nước. Cũng có tình trạng người đứng đầu
cấp uỷ, tổ chức đảng trong cơ quan nhà nước do chủ nghĩa cá nhân,
chuyên quyền, độc đoán, vụ lợi, đã lợi dụng cơ chế tập thể để hợp pháp
hoá quyết định, thực hiện ý đồ cá nhân trong quyết định công tác cán bộ
(đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyên, điều động, điều chuyển vị
trí cơng tác của cán bộ dưới quyền...), các thành viên trong cấp uỷ, tổ
chức đảng, cơ quan nhà nước do cịn nể nang, né tránh, ngại va chạm, dĩ
hồ vi quý đã để người đứng đầu cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn lạm
quyền, lộng quyền, tự tung tự tác, bất chấp nguyên tắc, quy định của
Đảng, pháp luật của Nhà nước để làm trái nhằm trục lợi cho bản thân hoặc
người thân trong gia đình theo kiểu “hậu duệ, quan hệ, tiền tệ... hoặc vì
nhóm lợi ích..
Ngun nhân
Từ thực trạng trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó,
nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Nguyên nhân khách quan:
Tác động từ khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới sau sự sụp đổ
của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu; từ mặt trái của kinh tế thị
trường, những hoạt động lợi dụng sự phát triển của khoa học cơng nghệ thơng
tin, tồn cầu hố và hội nhập quốc tế.
Những khó khăn, thách thức của các nước đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa trong bối cảnh quốc tế hiện nay; nhiều vấn đề mới, phức tạp phát sinh từ

thực tiễn nhưng chưa được lý giải và xử lý kịp thời, hiệu quả.
Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược "diễn biến
hồ bình", lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo và
những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xun tạc, bóp méo tình hình; cổ
s cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa; đồng thời, cấu



×