Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Báo cáo biện pháp thi giáo viên giỏi môn ngữ văn, biện pháp rèn kĩ năng đọc hiểu truyện truyền thuyết cho học sinh lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.57 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
STT
1

NỘI DUNG
I.ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
2. Phạm vi nghiên cứu

2

II. THỰC TRẠNG
1. Cơ sở lí luận
2. Cơ sở thực tiễn
3. Các biện pháp thực hiện
3.1. Đảm bảo u cầu cần đạt của chương trình mơn học
3.2. Kỹ thuật đặt câu hỏi hướng dẫn học sinh trước, trong và sau khi
đọc.
3.3. Rèn kỹ năng đọc hiểu truyền thuyết theo thể loại
3.4. Thái độ và tình cảm trong dạy đọc hiểu truyền thuyết
3.5. Khơi gợi kiến thức nền cho học sinh khi học truyện truyền thuyết
3.6. Hướng dẫn học sinh ghi chép trong quá trình đọc truyện truyền
thuyết
3.7. Rèn năng lực, kĩ năng đọc – hiểu cho học sinh là rèn bốn kĩ năng cơ
bản nghe – nói – đọc – viết.

3

III. TÍNH MỚI CỦA BIỆN PHÁP

4



IV.KẾT QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP

1


BIỆN PHÁP:
RÈN KĨ NĂNG ĐỌC – HIỂU TRUYỆN TRUYỀN THUYẾT THEO THỂ
LOẠI CHO HỌC SINH LỚP 6 CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ
---**--I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài:
Thực hiện mục tiêu đổi mới trong công tác giáo dục là hình thành và phát
triển các năng lực chủ yếu của học sinh đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kì
cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Ngành giáo dục đã không ngừng cải tiến,
đổi mới phương pháp dạy học phù hợp theo yêu cầu trên là đổi mới tồn diện, có
độ mở và linh hoạt. Mục tiêu này đặt giáo viên và học sinh vào vị trí là những
người thực hiện áp dụng đúng theo quan điểm sư phạm tích cực, tích hợp, cập nhật
thơng tin và tăng tính thực hành ứng dụng.
Thế nên, người giáo viên với vai trò điều khiển hoạt động dạy học phải ln
tìm tịi, đổi mới, sáng tạo phương pháp dạy học sao cho phát huy được tối đa tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh bằng phương pháp tự học, rèn kỹ năng cơ
bản cho người học và biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống.
Môn Ngữ văn trong nhà trường Phổ thông cũng không ngừng cải tiến, đổi
mới phương pháp phù hợp với những đòi hỏi của mục tiêu giáo dục hiện thời. Và
việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào chương trình Ngữ văn Trung học
cơ sở (THCS) được thực hiện bước đầu đem lại hiệu quả nên việc đổi mới phương
pháp dạy và học ln là việc cần thiết và có ý nghĩa.
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu học tập của con người ngày càng tăng kể
cả việc học ở trường lớp và tự học ở nhà. Học sinh cũng vận dụng hai cách học này
trong học tập tất cả các mơn học, trong đó có mơn Ngữ văn. Vì vậy mà ai cũng cần

phải có kiến thức và kĩ năng đọc – hiểu cần thiết tối thiểu nhất cho bản thân mình.

2


Thậy vậy, đọc hiểu là nhu cầu của con người nhằm khám phá thế giới và cuộc
sống.
Môn Ngữ văn trước hết là mơn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều này
nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm
cho học sinh, vì “Học văn chính là học làm người”. Học sinh học tốt mơn Ngữ văn
sẽ có tác động tốt đến việc học các môn khác và ngược lại. Học tốt môn Ngữ văn
sẽ giúp học sinh rất nhiều trong giao tiếp với đời sống xã hội, giao tiếp trong đời
sống gia đình, bạn bè. Nhưng vấn đề cơ bản ban đầu làm hành trang cho học sinh
trong các lớp học tiếp theo đó là các em cần rèn luyện ngay cho mình kĩ năng cơ
bản khi học Ngữ văn ngay từ lớp 6 đối với học sinh cấp THCS. Vì vậy mơn Ngữ
văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường
THCS. Đó là đào tạo các em thành những con người có hiểu biết, yêu cuộc sống,
yêu bản thân, yêu gia đình, yêu bạn bè, yêu quê hương đất nước. Môn Ngữ văn sẽ
là phương tiện, là người bạn tốt trên đường đời của học sinh giúp các em sống tốt
hơn, đẹp hơn.
Trong chương trình sách giáo khoa cũng như thực tế giảng dạy cho thấy mặc
dù các văn bản được xếp theo cụm thể loại nhưng yêu cầu cần đạt, câu hỏi hướng
dẫn của mỗi văn bản lại có sự khác biệt, chưa theo mơ hình chung thống nhất. Vì
thế học sinh khó nắm vững đặc trưng thể loại để có thể vận dụng những hiểu biết
về thể loại để đọc một văn bản mới trong phần đọc mở rộng.
Thực tế giáo viên chưa vận dụng tốt phương pháp dạy đọc – hiểu thể loại
cho học sinh trong việc tiếp cận theo chương trình mới. Giáo viên cịn đi theo
phương pháp dạy học truyền thống khai thác nội dung của văn bản nên dễ dẫn đến
các em chưa có kĩ năng đọc – hiểu thể loại. Điều này sẽ dẫn đến học sinh khơng
thể đảm nhận vai trị chủ động, thiếu tính năng động, tích cực, sáng tạo tư duy

trong việc tiếp cận văn bản và lệ thuộc vào sự chỉ dẫn của giáo viên hồn tồn có
thể. Và thực tế do chương trình sách giáo khoa mới đây là năm đầu tiên giảng dạy
3


nên việc thích ứng và vận dụng phương pháp hay quan niệm khoa học về đọc –
hiểu thể loại còn rất mới mẻ đối với giáo viên. Đây cũng chính là nỗi lo âu và trăn
trở của giáo viên bộ môn Văn khi đứng trước yêu cầu về đổi mới phương pháp
giảng dạy bộ môn văn ở nhà trường THCS.
Việc tổ chức cho học sinh tương tác trong quá trình đọc văn bản đã thay đổi
hồn tồn vai trị của giáo viên từ vai trò là người truyền đạt, giảng giải kiến thức
sang vai người tư vấn, tổ chức, hướng dẫn kĩ năng đọc cho học sinh. Đối với học
sinh đầu cấp THCS – lớp 6, các em mới bắt đầu tiếp cận Ngữ văn theo cách học
cấp Trung học, năm đầu tiên học theo chương trình sách giáo khoa mới nên các
em còn nhiều bỡ ngỡ với yêu cầu cần đạt về các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Vì
vậy tơi đã mạnh dạn chọn biện pháp: “Rèn kĩ năng đọc – hiểu truyện truyền thuyết
theo thể loại cho học sinh lớp 6 cấp Trung học cơ sở” có thể coi là sáng kiến hỗ trợ
q trình dạy học bộ môn Ngữ Văn 6 ở các trường THCS.
*
*

*

2. Phạm vi nghiên cứu
Nhằm xác định tính khả thi và kiểm tra đánh giá hiệu quả của việc rèn kĩ
năng đọc – hiểu văn bản cho học sinh lớp 6 cấp THCS và xem đây là góp phần
thực hiện mục tiêu đổi mới phương pháp trong dạy học Ngữ văn ở trường THCS,
giáo viên đã tiến hành quá trình thực nghiệm soạn giảng và ứng dụng rèn kĩ năng
đọc – hiểu thể loại truyện truyền thuyết đối với môn Ngữ văn khối lớp 6 trong học
kì I của năm học 2021 – 2022.

Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối lớp 6 trường THCS Nguyễn An Ninh.
Phạm vi nghiên cứu: Các truyện truyền thuyết trong chủ đề “ Lắng nghe lịch
sử nước mình” Ngữ văn 6 tập I.
II. THỰC TRẠNG
1. Cơ sở lý luận
4


Học văn chính là học cái hay, cái đẹp của cuộc sống qua tác phẩm. Học sinh
có thể học văn bằng nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau cũng như giáo viên có
nhiều phương pháp giảng dạy, truyền thụ khác nhau. Nhưng để học tốt môn Ngữ
văn THCS, học sinh cần có những kĩ năng cơ bản để học văn. Trong đó, kĩ năng
đọc hiểu là quan trọng nhất vì nó là cơ sở để học sinh đọc tốt và hiểu được kiến
thức (vấn đề) bằng vốn hiểu biết của bản thân. Thế nên, giáo viên văn cần có
phương pháp dạy đọc hiểu tích cực và phù hợp với năng lực học sinh, có nghĩa là
rèn cho các em kĩ năng đọc hiểu từ cơ bản trở đi. Thật vậy, đọc hiểu là một phạm
trù của nghiên cứu và giảng dạy văn học. Và có quan hệ khăng khít với năng lực
đọc, hành động đọc, kĩ năng đọc để nắm vững ý nghĩa của văn bản ngơn từ. Đọc
chính xác sẽ hiểu đúng. Đọc kĩ, đọc phân tích sẽ hiểu sâu hơn văn bản. Đọc sáng
tạo là khám phá vấn đề. Đọc tích lũy là tạo vốn sống cho bản thân.
Đọc là một hành động của con người nhằm mục đích hình thành và nắm ý
nghĩa từ văn bản ngơn từ trong quá trình nhận thức của việc đọc để mở rộng cảm
giác và xúc cảm bằng sự nếm trải của người đọc. Nói chung là một nhu cầu khám
phá để hiểu của con người. Đọc có nhiều hình thức khác nhau như : đọc to, đọc
diễn cảm, đọc thầm, đọc sơ lược, đọc thêm…
Người đọc bao gồm cả ngoài đời lẫn trong trường học sẽ có cách đọc và kĩ
năng đọc khác nhau. Người đọc ngoài đời là đọc tự do. Riêng người đọc – học sinh
thì khác vì học sinh chưa có kinh nghiệm sống phong phú, nên việc hiểu người và
hiểu đời trong tác phẩm còn hạn chế. Đồng thời học sinh còn bị hạn chế về sách
đọc và sức đọc nên việc hiểu cái đẹp – sự kết tinh của giá trị thẩm mĩ nghệ thuật

trong tác phẩm chưa sâu sắc. Học sinh đọc tác phẩm bằng tri thức hạn hẹp của sự
hồn nhiên, ngây thơ và phụ thuộc vào hướng dẫn của giáo viên. Đôi khi cịn ảnh
hưởng bởi tâm lí xem nhẹ học Ngữ văn của học sinh và tâm lí chán dạy của giáo
viên nên đã làm cho phần lớn học sinh rơi vào trạng thái thụ động và ít đi hứng thú
trong đọc văn. Rồi học sinh học đọc văn bản chưa có mục đích lâu dài thường là
5


đọc cho có để học văn là nhiều. Nhưng thực ra đọc văn là thực hành kĩ năng đọc
đúng, đọc hay, đọc diễn cảm mà GS.TS Nguyễn Thanh Hùng có nói trong chuyên
luận Đọc và tiếp nhận văn chương như sau :
“Dạy học văn là cung cấp cho người tiếp nhận cách thức đọc ra nội dung
trong những mối quan hệ ngày càng bao quát trọn vẹn văn bản. Khi đọc, lí trí, tình
cảm và sức tưởng tượng được vận dụng đồng thời. Mối quan hệ qua lại giữa việc
đọc nắm vững ý nghĩa và thể hiện ý nghĩa là đặc trưng của q trình đọc văn.
Đọc văn cịn là q trình thử thách năng lực đọc chính xác, hiểu cặn kẽ
những điều đã đọc với năng lực truyền đạt những ý nghĩa riêng của tác phẩm. Dạy
đọc văn là cung cấp cho người tiếp nhận cách đọc để có quan điểm riêng, thái độ
đúng đắn và kĩ năng đọc những sáng tạo ngôn từ theo quan điểm thẩm mĩ. Thơng
thường có thể lấy đọc văn chương bao gồm từng bước, từng mức độ gắn liền với
các kĩ năng đọc khơng vi phạm những sai sót về mặt ngơn ngữ, là biết điều chỉnh
và phối hợp chất giọng với linh hồn và ý tưởng bài văn. Ngồi ra cịn là năng lực
làm chủ xúc cảm riêng tư khi đã nắm được dụng ý nghệ thuật và những biểu hiện ý
nghĩa sâu sắc của tác phẩm” [, tr.89].
Còn hiểu là nắm vững nội dung tư tưởng của văn bản. Nội dung tư tưởng
trong văn bản là kiến thức tổng hợp về tự nhiên – xã hội và con người được tái
hiện lại bằng ngôn từ theo những phương thức biểu đạt phù hợp. Học sinh phải dựa
vào văn bản suy luận các nghĩa hẹp, nghĩa rộng… của văn bản tùy theo đặc trưng
thể loại. Hiểu là biết kĩ và vận dụng được, hiểu là nắm vững và làm tốt. Hiểu là
nâng cao kiến thức và kĩ năng sống.

Thực ra với đọc – hiểu văn bản hay tác phẩm văn chương, nếu ta đọc chính
xác thì hiểu đúng. Đọc kĩ, phân tích thì hiểu sâu hơn. Ban đầu đọc là để biết (nhớ
lại) tức người đọc nắm thông tin của văn bản. Tiếp theo là hiểu (lĩnh hội) tức là
biết cảm nhận ý nghĩa của văn bản, có thể tóm tắt, giải thích chúng. Sau đó là vận
dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá về văn bản vừa đọc.
6


Hoạt động đọc văn bản đòi hỏi học sinh trước hết phải huy động khả năng tri
giác ngôn ngữ để tìm hiểu khơng chỉ ở các tầng ý nghĩa của lớp ngơn từ mà cịn
thức tỉnh cảm xúc, khơi dậy năng lực liên tưởng, tưởng tượng để tái hiện lại tác
phẩm. Đọc – hiểu không chỉ là tái tạo âm thanh từ chữ viết mà cịn là q trình
thức tỉnh cảm xúc, tri giác, huy động vốn sống của cá nhân để tiếp thu nội dung,
giá trị tư tưởng, thẩm mĩ và ý nghĩa của tác phẩm. Đó là khả năng đọc được, tức là
có thích đọc và hứng thú đọc văn bản hay khơng ; trí tưởng tượng là khả năng nắm
tái hiện lại được nội dung ; tri thức đọc hiểu là khả năng hiểu ngôn từ, phương thức
biểu đạt, thể loại, phong cách nghệ thuật, hoàn cảnh xã hội đương thời khi tác
phẩm ra đời.
Đọc – hiểu được hiểu là q trình phân tích, tổng hợp, so sánh, liên tưởng,
ghi nhớ, suy luận diễn ra liên tục trong thời gian đọc. Vậy, sáng tạo nằm ở đâu ?
Hoạt động đọc – hiểu diễn ra với ngôn ngữ. Ngơn ngữ chính là phương tiện để
người đọc – học sinh và tác giả của văn bản gặp nhau. Học sinh phải vận dụng
năng lực tư duy, vốn tri thức và kinh nghiệm để hiểu ý nghĩa ẩn sâu bên trong văn
bản. Vì vậy, đọc là hoạt động sáng tạo phát hiện ra sự sáng tạo của tác giả trong
văn bản – tác phẩm.
Dạy đọc – hiểu theo đặc trưng thể loại sẽ giúp học sinh hiểu đúng tác phẩm,
ý đồ của tác giả gửi gắm vào tác phẩm. Ngoài ra sẽ giúp học sinh phát huy những
kĩ năng thông qua việc đọc – hiểu. Từ những tác phẩm cụ thể để đáp ứng vào
những tác phẩm khác. Truyền thuyết phản ánh lịch sử một cách độc đáo, cốt lõi
của truyền thuyết chính là lịch sử và đối tượng phản ánh cũng là lịch sử. Tất cả các

sự kiện trọng đại của nhân dân đều có mặt trong truyền thuyết. Sự phản ánh lịch sử
của truyền thuyết không phải là sao chép mà lựa chọn và tái tạo. Nhân vật của
truyền thuyết đa số chỉ là những sản phẩm sự hư cấu, chỉ có “ cốt lõi lịch sử”.
Nhưng chính cái cốt lõi ấy chính là nét nổi bật của truyền thuyết. Truyền thuyết
gắn với nghi lễ, lễ hội, mỗi truyền thuyết đều có một hay một nhóm nhân vật trung
7


tâm, đó là những nhân vật được truyền thuyết ngợi ca. Họ sống không chỉ trong sự
ngưỡng mộ của dân chúng mà cịn từ niềm tơn kính, ngưỡng mộ, họ trở thành
thành hồng hay thần của một vùng nào đó. Hằng năm để tưởng nhớ công ơn và
nhắc nhở con cháu nhân dân đã tổ chức lễ hội. Truyền thuyết có tính dân tộc, địa
phương sâu sắc, thường trong truyền thuyết là một không gian, thời gian cố định,
không gian – thời gian lịch sử cụ thể. Do đó ln tồn tại truyền thuyết của nhiều
địa phương, mỗi địa phương đều mang những đặc trưng rõ nét của những đặc điểm
về phong tục, văn hóa. Vì vậy giáo viên Ngữ văn dạy đọc – hiểu theo thể loại cho
học sinh lớp 6 cấp THCS cần rèn kĩ năng đọc – hiểu cho học sinh một cách thường
xuyên để làm nền tảng cho việc học văn cũng như học các môn khác chính là rèn
bốn kĩ năng đọc hiểu cơ bản cho các em. Đó là kĩ năng đọc chính xác, kĩ năng đọc
phân tích, kĩ năng đọc sáng tạo và kĩ năng đọc tích lũy.
2. Cơ sở thực tiễn
Truyền thuyết là một thể loại văn học được đưa vào giảng dạy và nó khơng
cịn là thể loại xa lạ đối với các em học sinh. Bởi những câu truyện truyền thuyết
rất gần gũi với các em, nhiều em được ông bà, bố mẹ kể cho nghe từ khi cịn nhỏ.
Vì vậy khi bước vào những văn bản trong sách giáo khoa Ngữ văn 6 khơng phải là
điều gì q khó khăn đối với các em. Khi tìm hiểu về thể loại truyền thuyết trong
chương trình Ngữ văn 6 văn bản thứ nhất “ Thánh Gióng”, văn bản thứ hai “ Sự
tích Hồ Gươm” và đọc kết nối chủ điểm “ Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân”, đọc mở
rộng theo thể loại “ Bánh chưng bánh giầy”. Với số lượng tác phẩm khá đa dạng
như vậy một phần nào giúp cho các em có thể nắm được đặc trưng của thể loại

này.
Thế nhưng việc áp dụng chương trình sách giáo khoa mới, hầu hết giáo viên
còn rất bỡ ngỡ, tài liệu nghiên cứu chưa nhiều, một số giáo viên còn dạy theo
phương pháp truyền thống, chủ thể giờ học vẫn là giáo viên. Cách khai thác nội
dung bài học giáo viên tách rời nội dung với hình thức, chỉ phân tích một cách cơ
8


lập vẫn chưa đi theo hướng khai thác đặc trưng thể loại. Nhưng thực tế trong nhà
trường Phổ thông cấp THCS, học sinh thường có thói quen học văn theo sự hướng
dẫn của giáo viên thực hiện. Các em chỉ thực hiện ở nhà khi chuẩn bị bài, thường
các em đọc qua loa, chiếu lệ cho có để học văn với thái độ thờ ơ, không biểu hiện
được cảm xúc về văn chương, ít khi chịu đọc, thậm chí cịn khơng thèm đọc văn
bản vì “ngán”. Do thời gian học trực tuyến thời lượng cho mỗi tiết học bị rút ngắn,
nên giáo viên thật sự chưa có thời gian rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh. Vì vậy
các em chưa biết đọc và đọc chưa đúng. Chẳng hạn như sai phát âm, nhịp điệu,
ngừng nghỉ, diễn cảm, giọng kể, giọng đọc, cảm xúc, lời nhân vật đối thoại…Và
khả năng hiểu văn bản còn hạn chế.
Do kiến thức về phương pháp dạy đọc – hiểu của giáo viên chưa hoàn chỉnh
nên trong hoạt động dạy học văn vai trò của rèn luyện kĩ năng đọc hiểu cho học
sinh chưa hiệu quả. Cụ thể là việc hướng dẫn học sinh về nhà đọc hay lên lớp đọc
cũng chưa phát huy được những năng lực thật sự của học sinh. Việc đọc của các
em thường chỉ dừng lại ở mức độ thông báo. Thế nên việc hiểu cũng chưa thấu
đáo. Nói chung là kĩ năng đọc – hiểu của học sinh chưa có một quy trình hợp lí
trong phương pháp dạy học đọc hiểu.
Về phía giáo viên cịn nhầm lẫn giữa câu hỏi thông thường và câu hỏi đọc –
hiểu. Nên câu hỏi giáo viên nêu ra để hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản ít có
tính khám phá và hướng mở, không thực hiện được hoạt động hướng học sinh là
chủ thể hoạt động học bằng cách vận dụng vốn hiểu biết của bản thân khám phá
ngơn từ, tìm ra nghĩa bề ngoài và phát hiện nghĩa ẩn bên trong văn bản để đi đến

hiểu biết sâu sắc hơn về tư tưởng, chủ đề, ý nghĩa… của văn bản. Ngoài ra, chúng
ta còn nhận thấy trong giờ dạy giáo viên thường chú ý đến các biện pháp mang tính
hình thức bên ngồi, chưa đúng với tinh thần, góc độ đọc – hiểu văn bản. Đó chưa
phải là giờ dạy có sự hoạt động tích cực của học sinh. Chẳng hạn giáo viên tăng
cường thêm câu hỏi nhiều khi dư thừa không cần thiết để hỏi ; hay chỉ sử dụng câu
9


hỏi tái hiện và học sinh giơ tay phát biểu rất nhiều ; hoặc có cả những vấn đề nếu
giáo viên đặt câu hỏi gợi mở khám phá thì học sinh có thể trả lời tốt, nhưng giáo
viên lại khơng hỏi mà tự giảng giải luôn làm học sinh hụt hẫng về tư duy và tình
cảm. Hơn nữa cịn có trường hợp học sinh chán, lười học và cả giáo viên chán dạy
nên đã lạm dụng việc ứng dụng Công nghệ thông tin trong day học để chiếu – chép
(giáo viên giảng sơ sài cho học sinh nhìn chép), hay đọc chép, đó là những giờ dạy
học đọc hiểu thụ động. Rồi thậm chí có trường hợp giáo viên đánh máy hoặc viết
chữ lỗi chính tả mà khơng phát hiện ra thì làm sao dạy học sinh đọc hiểu tốt ? Một
khía cạnh nữa là do trình độ học sinh trong một lớp có sự chênh lệch nhau nên việc
nhận thức về mọi vấn đề cũng như vốn hiểu biết của các em không đồng nhau dẫn
đến việc giáo viên nếu quá chú trọng thực hiện phương pháp hướng học sinh học
tích cực, chủ động theo tính khám phá đem lại kết quả hoạt động dạy học chưa như
mong muốn. Vì học sinh yếu, kém sẽ khơng theo kịp học sinh khá, giỏi dẫn đến số
học sinh này chán học. Điều này dẫn đến chất lượng các giờ dạy học và chưa thể
gọi là giờ dạy đọc hiểu tốt được. Nên giáo viên cần có biện pháp rèn kĩ năng đọc –
hiểu theo thể loại cho học sinh một cách thường xuyên và tích cực là rất quan
trọng, nhất là đối với học sinh lớp 6 đầu cấp học của trung học cơ sở.
3. Các biện pháp tiến hành
Như đã nói ở trên, dạy đọc – hiểu văn bản là dạy học sinh suy nghĩ về các
mục đích khác nhau của các thể loại văn bản hay tác phẩm, lí do sáng tạo tác phẩm
của tác giả, lí do đọc tác phẩm của học sinh, mối liện hệ xuyên văn bản giữa những
gì học sinh đang học và những gì đã đọc, và các phương pháp làm việc cá nhân hay

nhóm để tìm hiểu tác phẩm. Khi dạy phần đọc – hiểu truyện truyền thuyết cần phải
nắm được đặc điểm của thể loại truyện truyền thuyết như cốt truyện, những chi tiết
tưởng tượng kì ảo, phản ánh quan điểm đánh giá, thái độ của nhân dân ta về các sự
kiện và nhân vật lịch sử. Để dạy phần đọc – hiểu thể loại truyện truyền thuyết cần
phải thực hiện các giải pháp sau:
10


3.1. Đảm bảo yêu cầu cần đạt của chương trình mơn học
u cầu cần đạt của chương trình chính là cụ thể hóa của mục tiêu mơn học.
Vì thế nó là thước đo đầu ra cho kết quả học tập. Cũng vì thế nó rất là quan trọng
và cần xem là nguyên tắc thứ nhất. Trên cở sở yêu cầu cần đạt theo chương trình
giáo dục phổ thơng mơn Ngữ văn 2018 để xác định khái quát kĩ năng đọc – hiểu
văn bản gồm: đọc hiểu nội dung, đọc hiểu hình thức, đọc hiểu tư tưởng, liên hệ kết
nối mở rộng. Khi dạy đọc – hiểu truyền thuyết theo thể loại cần phải xác định được
mục tiêu cần đạt.
* Về đọc hiểu hình thức:
- Nhận biết được một số yếu tố của truyện truyền thuyết như: cốt truyện,
nhân vật, lời của người kể chuyện và lời của nhân vật.
- Nhận biết và phân tích được đặc điểm của nhân vật thể hiện qua hình dáng,
cử chỉ, hành động, ngơn ngữ, ý nghĩa của nhân vật.
- Nhận biết được người kể chuyện ngôi thứ nhất và người kể chuyện ngôi
thứ ba.
* Về phẩm chất:
- Yêu nước: Yêu quê hương, yêu Tổ quốc, tơn trọng các biểu trưng của đất
nước. Có ý thức tìm hiểu truyền thống của gia đình, dịng họ, quê hương; tích cực
học tập, rèn luyện để phát huy truyền thống của gia đình, dịng họ, q hương.
- Chăm chỉ: Thường xuyên hoàn thành nhiệm vụ học tập.
* Về năng lực:
- Năng lực tự học và tự chủ: Biết chủ động, tích cực thực hiện những cơng

việc của bản thân trong học tập và trong cuộc sống; không đồng tình với những
hành vi dựa dẫm, ỷ lại.
- Năng lực giao tiếp và hợp tác: Hiểu rõ nhiệm vụ của nhóm và trách nhiệm,
hoạt động của bản thân trong nhóm sau khi được hướng dẫn phân công.
3.2. Kỹ thuật đặt câu hỏi hướng dẫn học sinh trước, trong và sau khi đọc.
11


Trong dạy đọc – hiểu, học sinh phải làm việc trực tiếp với văn bản dưới sự
hướng dẫn, hỗ trợ của giáo viên. Các em được hướng dẫn để biết đọc và đọc được
bằng chính khả năng, suy nghĩ và cảm nhận của bản thân chứ không phải bằng suy
nghĩ cảm nhận của người thầy.
* Giai đoạn trước khi đọc: Giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh sử dụng một số câu
hỏi gợi ý qua phiếu học tập khi tìm hiểu truyền thuyết “ Thánh Gióng”
Họ tên:…………………………………..Lớp:…………………………………….
Đọc tựa đề ruyện truyền thuyết “ Thánh Gióng nói về
vấn đề gì?
Đọc truyện truyền thuyết “Thánh Gióng” sự thật lịch
sử được phản ánh là thời đại nào?
Các nhân vật trong câu truyện này là ai?
Em hãy tìm các chi tiết hoang đường, kì ảo?
* Giai đoạn trong khi đọc: Để giúp học sinh kiểm sốt hiểu biết của mình về câu
hỏi bằng cách nêu câu hỏi suy ngẫm về những ý tưởng và thơng tin của văn bản
khi tìm hiểu truyền thuyết “ Thánh Gióng”. Giáo viên cho học sinh làm việc nhóm
theo phiếu học tập sau:
Họ tên:…………………………………..Lớp:…………………………………….
Em có suy nghĩ gì về một cậu bé ba tuổi bỗng trở
thành tráng sĩ ?
Sự ra đời và những biểu hiện khác thường của cậu bé
dự báo sự việc sắp xảy ra như thế nào?

Từ “ chú bé” được thay bằng “ tráng sĩ” khi kể về
Thánh Gióng. Sự thay đổi trong lời kể này có ý nghĩa
gì?
12


* Giai đoạn sau khi đọc: Các câu hỏi dưới đây có tác dụng phát triển kỹ năng khái
qt nhìn lại quá trình đọc của bản thân và liên hệ thực tế sau khi đọc xong truyền
thuyết “ Thánh Gióng”:
Họ tên:…………………………………..Lớp:…………………………………….
Em hãy tóm tắt truyền thuyết “ Thánh Gióng”?
Câu chuyện xoay quay các sự việc chính nào?

Em thấy hành động nào của Thánh Gióng là đẹp
nhất? Qua câu chuyện Thánh Gióng, nhân dân ta thể
hiện điều gì?

3.3. Rèn kỹ năng đọc hiểu truyền thuyết theo thể loại
Theo đặc trưng của truyền thuyết, một văn bản truyện truyền thuyết được tạo
nên bởi ba yếu tố: Cốt lõi lịch sử, yếu tố hoang đường kì ảo và thái độ của nhân
dân. Khai thác kỹ năng đọc hiểu tìm hiểu chung về thể loại truyện truyền thuyết,
trước hết khai thác khái niệm truyền thuyết, đặc điểm của truyện truyền thuyết. Sau
đó tìm hiểu nhân vật, cốt truyện và sự việc.
Đặc điểm của thể loại truyện truyền thuyết “ Thánh Gióng”, sự thật lịch sử
được phản ánh trong truyện “Thánh Gióng” là thời đại Hùng Vương. Trên cơ sở
một nền nông nghiệp lúa nước đã khá phát triển, người dân Văn Lang đã tạo nên
một nền văn minh rực rỡ, đồng thời cũng luôn luôn phải chống giặc ngoại xâm để
bảo vệ đất nước. Bên cạnh đó thì nhân dân đã có ý thức chế tạo vũ khí chống giặc
từ chất liệu kim loại. Truyền thuyết phản ánh công cuộc xây dựng đất nước của


13


ơng cha ta đã có truyền thống đồn kết dân tộc, biết sử dụng nhiều vật dụng để
chống giặc.
Nhân vật Thánh Gióng mở đầu cho câu chuyện theo mơ típ sinh nở thần kì xuất
hiện trong truyện kể dân gian khi nói về nguồn gốc xuất thân của nhân vật chính.
Dựa vào các tư liệu lịch sử có thể biết thêm về nhân vật này. Phù Đổng Thiên
Vương hay còn là Thánh Gióng là một nhân vật trong truyền thuyết Việt Nam.
Ông được xem là biểu tượng của tinh thần chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.
Sau khi đọc xong đọc xong văn bản “ Thánh Gióng” giáo viên hướng dẫn học
sinh tìm các sự việc chính của truyện:
-

Sinh ra và lớn lên khác thường người mẹ ướm vào vết chân to và lạ rồi
mang thai mãi đến 12 tháng mới sinh ra Thánh Gióng.

- Lên ba mà vẫn chưa biết nói, biết cười.
- Khi sứ giả đi tìm người tài giỏi cứu nước, Gióng bỗng cất tiếng nói địi đi
đánh giặc.
- Gióng lớn nhanh như thổi.
-

Chú bé vùng dậy, bỗng vươn vai thành tráng sĩ.

- Ngựa sắt phun lửa, Gióng bay về trời.
Thái độ của nhân dân trong truyền thuyết thông qua từng chi tiết, cách kết thúc
truyện, chúng ta đều thấy rõ thái độ khen chê, biểu dương, ca ngợi hay phê phán
của tác giả dân gian. Truyền thuyết “ Thánh Gióng” thái độ của nhân dân ca ngợi,
tôn trọng người anh hùng dân tộc. Thể hiện lòng biết ơn bằng cách lập đền thở ở

làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng, hằng năm làng mở lễ hội tổ chức ở đền Sóc (
xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội) vào tháng giêng âm lịch. Mục đích của lễ
hội để tưởng nhớ và ca ngợi chiến cơng của người anh hùng Thánh Gióng. Gía trị
của lễ hội chính là một hiện tượng văn hóa được bảo lưu qua nhiều thế hệ.
3.4. Thái độ và tình cảm trong dạy đọc hiểu truyền thuyết

14


- Hướng cho các em thấy mình là những con người có ý thức tự tu dưỡng,
biết yêu thương, chia sẻ, biết quý trọng gia đình, bạn bè, yêu cái đẹp, ghét cái xấu
xa; tình u và lịng tự hào về quê hương đất nước qua từng bài dạy cũng như lời
giảng và trên bài viết của học sinh. Bên cạnh nữa phải là người khơng ngừng tìm
tịi, học tập để nâng cao sự hiểu biết của bản thân về mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.
- Hướng học sinh ln có thái độ, tinh thần tự tin của bản thân trong học tập,
trước gia đình, bạn bè và xã hội khi giao tiếp.
- Lòng khát khao yêu cuộc sống, sống đẹp, sống có ước mơ và trách
nhiệm…
Khi dạy văn bản “ Sự tích Hồ Gươm” là truyền thuyết địa danh loại truyện
giải thích nguồn gốc tên hồ và đây cũng là truyền thuyết nói về người anh hùng Lê
Lợi. Truyền thuyết này khi đọc hiểu hình thức. Đầu tiên tìm hiểu nhân vật chính là
Lê Lợi, tiếp theo là cốt truyện và các sự việc chính của câu truyện. Cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn được hưởng ứng tích cực của nhân dân khắp nơi. Nhân dân ln
kiên trì, động viên khuyến khích thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa thắng lợi. Giáo dục
cho học sinh lòng tự hào về truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, biết về
danh lam thắng cảnh.
3.5. Khơi gợi kiến thức nền cho học sinh khi học truyện truyền thuyết
Giáo viên cần khơi gợi kiến thức nền của học sinh trong suốt quá trình đọc
văn bản. Người đọc luôn luôn đem những kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết trước

đó của họ vào văn bản để hiểu văn bản và có thể liên hệ. Có ba loại liên hệ mà
người đọc có thể thực hiện trong quá trình đọc: liên hệ bản thân, liên hệ với cuộc
sống, liên hệ với các văn bản khác.
Giáo viên có thể sử dụng một số câu hỏi sau để hướng dẫn học sinh thực
hiện khi dạy truyền thuyết “ Thánh Gióng”

15


- Liên hệ bản thân : Sau khi học xong văn bản “ Thánh Gióng”, hãy liên hệ
đến bản thân về trách nhiệm bảo vệ đất nước của thế hệ trẻ?
- Liên hệ với văn bản: Điểm khác biệt giữa văn bản “ Thánh Gióng” và
văn bản “ Sự tích Hồ Gươm” là gì?
- Liên hệ với cuộc sống: Qua văn bản “ Thánh Gióng” em có suy nghĩ gì
về tinh thần yêu nước của nhân dân ta khi đất nước có giặc ngoại xâm?
Đối với chương trình Ngữ văn lớp 6, giáo viên cần cung cấp cho học sinh
những kiến thức nền khi đọc hiểu văn bản. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh nắm
ngôn từ, nghệ thuật và ý nghĩa văn bản như thể loại, lời kể, ngôi kể, cốt truyện,
trình tự kể, hồn cảnh kể, đặc điểm nhân vật, sự việc… Trong đó, cần nắm rõ
khơng gian và thời gian nghệ thuật và tính hình tượng của văn bản. Tiếp theo là
nắm giá trị ý nghĩa, tính thẩm mĩ của văn bản.
3.6. Hướng dẫn học sinh ghi chép trong quá trình đọc truyện truyền thuyết
Ghi chép cá nhân là nơi lưu giữ những suy nghĩ của người đọc nên khơng bị
bó hẹp trong khn mẫu cụ thể, người viết tự do thể hiện những suy nghĩ, cảm xúc
của mình về văn bản. Các ghi chép có thể được lưu lại trên một mẩu giấy, một
cuốn tập, bên lề trang sách, phiếu học tập của mình.
Ghi chép lại hai lần về văn bản: là loại ghi chép mà người đọc thực hiện ở
hai thời điểm khác nhau. Thời điểm đọc lần đầu trước khi đến lớp và thời điểm đọc
lại lần thứ hai sau khi trao đổi với bạn học ở trên lớp theo cặp qua phiếu ghi chép
hai lần về văn bản.

Tên văn bản: …………………………………………………………….
Tên học sinh:……………………….................................Lớp:………….
Suy nghĩ ban đầu của tôi về văn bản

Suy nghĩ sau khi trao đổi với bạn

……………………………………...

…………………………………

……………………………………..

…………………………………

Hình 1: Phiếu ghi chép hai lần về văn bản
16


Phiếu học tập đọc: là loại ghi chép thể hiện phản hồi của người viết về bài
học. Chức năng của phiếu học tập này là công cụ hướng dẫn học sinh nhân thức
của mình dưới hình thức sơ đồ.

Tên văn bản:…………………………………………………………………
Họ tên học sinh:…………………………..Lớp:…………………………….
Yêu cầu: Em hãy liệt kê những chi tiết mà em thích vào ơ bên trái. Sau đó nêu ý
nghĩa chi tiết vào ơ bên phải.
Chi tiết

Ý nghĩa của các chi tiết


……………………………………

……………………………………

…………………………………….

…………………………………….

……………………………………

……………………………………

……………………………………

……………………………………

……………………………………

……………………………………

Hình 2: Phiếu học tập suy luận

Tên văn bản:……………………………………………………………………….
Họ tên học sinh:…………………………..Lớp:…………………………………..
Yêu cầu: Em hãy liệt kê những sự việc chính vào ơ bên trái. Sau đó nêu ý nghĩa của
sự việc vào ơ bên phải.
Sự việc 1:………………………………

Ý nghĩa:………………………………..


Sự việc 2:………………………………

Ý nghĩa:………………………………..

Sự việc 3:………………………………

Ý nghĩa:………………………………..

17


Hình 3: Các sự việc trong văn bản

3.7. Rèn năng lực, kĩ năng đọc – hiểu cho học sinh là rèn bốn kĩ năng cơ bản
nghe – nói – đọc – viết.
Rèn năng lực đọc – hiểu cho học sinh là rèn năng lực ngôn ngữ cho các em,
tức là rèn cho các em kĩ năng đọc chính xác văn bản. Năng lực đọc hiểu có ý nghĩa
đối với tất cả các môn học nhưng môn văn là quan trọng nhất. Nếu học sinh đọc
tốt, phát âm chuẩn cũng giúp các em hứng thú hơn khi học văn. Các em phải đọc
lưu lốt, khơng bỏ sót câu chữ nào, kiểm sốt được tốc độ và truyền tải được nội
dung ngơn từ một cách đúng đắn. Đó là rèn năng lực, kĩ năng, kĩ thuật đọc một
cách khoa học. Thường một phần năng lực này do năng khiếu, tài năng, phần cịn
lại do rèn luyện mà có. Nên học sinh phải được rèn khi ở lớp và cả khi ở nhà tự
luyện đọc một mình. Các em luyện đọc bằng nhiều hình thức như đọc kĩ, đọc lược
thuật nội dung, đọc thầm, đọc diễn cảm, đọc thêm, đọc khám phá phân tích, suy
ngẫm… Sau đó là phải được nhận xét, đánh giá, góp ý năng lực đọc này từ bạn học
cùng, từ giáo viên để học sinh kịp thời nhận ra ưu khuyết điểm chỉnh sửa phù hợp.
Điều này được giáo viên thực hiện thường xuyên trên lớp ngay khi gọi học sinh
đọc hoặc hướng dẫn học sinh đọc và gọi học sinh nhận xét cách đọc của bạn một
cách xác thực nhất. Đây là lúc học sinh lắng nghe và nói những gì hiểu biết của cá

nhân. Khi đọc được chính xác là lúc học sinh biết tự đặt câu hỏi và tìm cách trả lời
tại sao tác giả dùng từ ngữ này, câu hỏi này, nhịp điệu này và mục đích của tác giả
là gì. Vậy là học sinh đã đi từ gần (hiểu ngôn ngữ) đến năng lực hiểu cao hơn.
Trong quá trình rèn đọc cho học sinh, giáo viên phải thường xuyên nhắc nhở các
em tránh đọc vội, đọc qua loa, đọc nhảy cóc, đọc khơng tập trung, đọc sai, đọc lộn,
đọc ngọng, đọc chữ thiếu dấu… Đây là cơ sở cho q trình đọc phân tích tiếp
theo.
18


Hệ thống câu hỏi đọc – hiểu khi giáo viên cung cấp cho học sinh đọc – hiểu
phải theo cấu trúc xâu chuỗi với các cấp độ trả lời tăng dần, hợp lí theo nội dung
văn bản và có độ mở thùy theo trình độ của học sinh giúp học sinh suy nghĩ, tìm tịi
tự khám phá nội dung vấn đề theo lơgic tư duy. Đó là những câu hỏi kích thích
khám phá, phát hiện nên mới được gọi là câu hỏi đọc – hiểu. Hạn chế sử dụng câu
hỏi tái hiện nhiều, chỉ sử dụng hợp lí với những nội dung cần thiết tái hiện. Để giúp
học sinh tự tìm ra sự thống nhất giữa nội dung và hình thức trong quá trình đọc thì
bài tập đưa ra cũng phải phù hợp với vấn đề của văn bản đặt ra và phù hợp mức độ
năng lực đọc hiểu của học sinh. Các em sẽ sử dụng sơ đồ tư duy để hệ thống tất cả
các vấn đề vừa học và sẽ làm trước khi viết bài sẽ giúp các em tự tin hơn khi học
văn.
Truyền thuyết là một thể loại văn học đặc thù có mối quan hệ mật thiết với
văn hóa, đời sống dân gian. Để học sinh có thể tiếp nhận và nắm được đặc trưng
của thể loại thì giáo viên phải biết xây dựng những câu hỏi và phương pháp để khai
thác năng lực của học sinh. Hơn nữa điều quan trọng là giáo viên không ngừng
nâng cao trình độ chun mơn, biết vận dụng các phương pháp phù hợp nhất với
học sinh. Học sinh cũng phải nhận thức được tầm quan trọng, vai trò, ý nghĩa của
thể loại truyền thuyết và có thái độ tự giác tích cực trong học tập.
III. TÍNH MỚI CỦA BIỆN PHÁP
Rèn kĩ năng đọc – hiểu thể loại truyện truyền thuyết cho học sinh lớp 6 là

một cách hỗ trợ phương pháp dạy học Ngữ văn đã được định hướng trong mục tiêu
đổi mới phương pháp dạy học theo chương trình giáo dục phổ thơng mới. Khi dạy
đọc – hiểu truyện truyền thuyết ở chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 6 mới, giáo
viên giúp học sinh đi vào khám phá, tìm hiểu đặc trưng thể loại. Bên cạnh đó, sách
giáo khoa mới dạy theo chủ đề nên các văn bản đọc – hiểu có một sự kết nối về
thể loại và nội dung giúp học sinh liên hệ mở rộng kiến thức. Bồi dưỡng các năng
lực và phẩm chất cho học sinh, tích cực hóa hoạt động của học sinh thông qua các
19


hoạt động trải nghiệm, chia sẻ, suy ngẫm phản hồi. Giáo viên đưa ra kỹ thuật đặt
câu hỏi hướng dẫn học sinh trước, trong và sau khi đọc qua một số câu hỏi gợi ý
qua phiếu học tập. Qua việc thảo luận nhóm học sinh sẽ suy ngẫm về những ý
tưởng và liên hệ thực tế được sau khi đọc xong thể loại truyện truyền thuyết. Giáo
viên khơi gợi được kiến thức nền về thể loại truyền thuyết qua phần khởi động.
Giáo viên hướng dẫn học sinh ghi chép trong quá trình đọc – hiểu để lưu giữ
những suy nghĩ, cảm xúc của mình về văn bản. Rèn kỹ năng đọc – hiểu cho học
sinh là rèn bốn kĩ năng cơ bản nghe – nói – đọc – viết.
IV. KẾT QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
Đối với giáo viên, việc rèn kĩ năng đọc – hiểu truyện truyền thuyết theo thể
loại cho học sinh lớp 6 sẽ giúp các em học tốt mơn Văn cũng như các mơn khác.
Và q trình tiến hành hoạt động dạy học của giáo viên cũng có hiệu quả hơn.
Về phía học sinh, việc rèn kĩ năng đọc – hiểu cho học sinh lớp 6 sẽ giúp các
em có được kĩ năng cơ bản để học tập bất cứ môn học nào, nhất là môn văn và có
thể mở rộng vốn sống bằng kĩ năng tự học. Cụ thể như sau :
- Giúp học sinh đánh giá năng lực đọc của mình, phát triển năng lực tư duy
và tác động của nó tới kết quả học tập Ngữ văn.
- Giúp học sinh phân biệt được các đơn vị ý nghĩa trong khi đọc một văn bản
truyền thuyết.
- Giúp học sinh thường xuyên nâng cao trình độ đọc có hệ thống, bài bản.

- Giúp học sinh phát hiện và vận dụng kiến thức phong cách văn bản và thể
loại văn học để đọc các văn bản khác nhau.
- Giúp học sinh tìm kiếm những hành động đọc, kĩ năng đọc đối với mỗi loại
văn bản phù hợp.
- Giúp học sinh phát triển động cơ đọc, mục đích đọc, thói quen đọc, kĩ năng
đọc để định hướng cuộc sống và phù hợp với phương pháp học tập chủ động hơn
trong giờ học.
20



×