Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Tiểu luận cao hoc lsđ đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và đấu tranh cách mạng ở miền nam năm 1954 1960

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.59 KB, 36 trang )

MỤC LỤC

A - MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
B- NỘI DUNG..........................................................................................................3
CHƯƠNG I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ NHỮNG NĂM 1954 -1960.......................3
1.1. Tình hình thế giới.............................................................................................3
1.2.Tình hình Việt Nam..........................................................................................5
CHƯƠNG II - ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CNXH Ở MIỀN BẮC VÀ ĐẤU
TRANH CHỐNG MĨ - DIỆM Ở MIỀN NAM.........................................................9
2.1- Đảng lãnh đạo Miền Bắc xây dựng CNXH (1954-1960)..................................9
2.1.1. Miền Bắc cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế (1954-1957)........................9
2.1.2. Miền Bắc cải tạo quan hệ sản xuất XHCN (1958 – 1960)............................11
2.1.3. Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960)..........................14
2.2. Đảng lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh chống chế độ Mỹ- Diệm (19541960)........................................................................................................................21
2.2.1. Hội nghị lần thứ XV BCH TW Đảng khóa II (1/1959).................................21
2.2.2. Phong trào Đồng khởi (1959-1960)..............................................................25
2.3. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm.................................................27
C- KẾT LUẬN........................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................30


A - MỞ ĐẦU
Tháng 1/1930, tại Hương Cảng – Trung Quốc dưới sự chủ trì
của Nguyễn Ái Quốc, các tổ chức cộng sản của Việt Nam đã hợp
nhất thành Đảng cộng sản Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam
bước sang một thời kỳ tranh đấu mới. Đảng cộng sản Việt Nam ra
đời với đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức chặt chẽ và đội ngũ
đảng viên kiên trung đã trở thành nhân tố quyết định mọi thắng
lợi về sau cho cách mạng nước nhà.
Từ khi có Đảng lãnh đạo, cách mạng Việt Nam đã không
ngừng trưởng thành và liên tục giành nhiều thắng lợi to lớn.


Phong trào cách mạng 1930 -1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ
Tĩnh đã trở thành cuộc diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho cách mạng
Tháng Tám năm 1945. Đó là thắng lợi trong phong trào dân tộc
dân chủ những năm 1936 – 1939 và thắng lợi giòn giã trong
những năm 1939 – 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa vào ngày 2/9/1945. Những cột mốc lịch sử ấy là minh
chứng cho thấy, Đảng cộng sản Việt Nam là yếu tố tạo nên mọi
thắng lợi cho nước nhà. Từ sau cách mạng tháng Tám, Đảng ta đã
trở thành một Đảng cầm quyền.
Mười lăm năm đầu đầy gian khó đã qua, Chủ nghĩa Mác- Lê
nin khơng cịn là lý thuyết mà thực sự đã trở thành nền tảng vững
chắc cho nước Việt Nam ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy
nhiên, với những biến động chung của thế giới, những ngày đầu
sau khi có độc lập, nước ta phải đương đầu với tình thế “ngàn cân
treo sợi tóc” đặc biệt là âm mưu tái chiếm Việt Nam của thực dân
Pháp. Hành trình 9 năm(1945 – 1954) chống Pháp lại tiếp tục rèn
giũa và tôi luyện Đảng cộng sản Việt Nam (được đổi tên là Đảng
Lao Động từ năm 1951). Vai trị của Đảng khơng chỉ làm nhiệm vụ
chỉ đạo kháng chiến mà còn điều hành sự nghiệp kiến quốc, thực
hiện đồng thời nhiệm vụ kiến thiết chế độ mới làm sức mạnh vững
1


bền cho cuộc kháng chiến. Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp
định Giơ-ne-vơ đã kết thúc hoàn toàn cuộc kháng chiến trường kỳ,
tianf dân và toàn diện của quân dân Việt Nam, thực dân Pháp và
các nước cam kết chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình ở Đơng
Dương. Lịch sử nước ta bước sang một thời kỳ mới.
Có lẽ chưa có dân tộc nào giống như dân tộc Việt Nam, vừa
bước ra từ cuộc kháng chiến chống Pháp nhân dân ta lại phải

đương đầu với một thế lực đế quốc hùng mạnh bậc nhất của thời
đại - đế quốc Mĩ. Với âm mưu “chia cắt lâu dài Việt Nam, biến
Miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới” Mĩ đã nhanh chóng
nhảy vào Miền Nam, dựng nên chính quyền tay sai Ngơ Đình Diệm
và thực hiện mưu đồ “bá chủ thế giới” ngay ở đất nước Việt Nam
chúng ta. Nhiệm vụ mới lại được đặt ra, Đảng Lao động Việt Nam
tiếp tục lãnh đạo nhân dân cả nước vừa ra sức xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Miền Bắc vừa chống Mĩ ở Miền Nam để thống nhất
nước nhà. Hơn 20 năm chống Mỹ - tay sai đã để lại cho Đảng ta
nhiều bài học sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn, đó là một kho
tàng khổng lồ về lý luận cách mạng mà giai đoạn đầu trong
những năm 1954 -1960 có vị trí hết sức quan trọng trong sự
nghiệp chống Mỹ nói chung. Chính vì thế, trong nội dung của bài
tiểu luận này em xin cụ thể hóa về q trình “Đảng lãnh đạo
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh cách
mạng ở miền Nam năm 1954-1960”

2


B- NỘI DUNG
CHƯƠNG I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ NHỮNG NĂM 1954 -1960.
1.1. Tình hình thế giới.
Trên vũ đài chính trị quốc tế những năm sau chiến tranh thế
giới lần thứ II, một hệ thống xã hội mới xuất hiện với hàng loạt
nước dân chủ nhân dân chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa
xã hội mà Liên Xô là một hình mẫu lớn. Năm 1949 được coi là
năm quyết định của quá trình thay đổi căn bản tình hình thế giới
sau đại chiến với việc Liên Xô phá vỡ độc quyền hạt nhân của Mỹ,
nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ra đời. Cán cân so sánh lực

lượng trên thế giới nghiêng hẳn về phía các nước chống chủ nghĩa
đế quốc.
Bước vào thập kỷ 50, Liên Xô tiếp tục triển khai những “Kế
hoạch 5 năm” xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chiến tranh từng đè
nặng lên nền kinh tế - xã hội Xô Viết với bao tổn thất về người và
của. Nhưng chỉ 7 năm sau, Liên Xô đã đủ sức làm nên “Sự kiện
Sputnich” khiến các thế lực đối địch phải sửng sốt. Một khả năng
bảo vệ hịa bình thế giới đã xuất hiện trong thực tế. Trong khi đó
các nước Đơng Âu cũng bước vào thực hiện cơng cuộc kiến thiết
đất nước với những kế hoạch dài hạn để xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
3


Tháng 11/1957, tại Matxcơva (Liên Xô), Hội nghị Quốc tế 64
Đảng Cộng Sản và Công Nhân đã tổng kết kinh nghiệm xây dựng
chủ nghĩa xã hội, ra tuyên bố hòa bình, củng cố phong trào Cộng
Sản Quốc Tế. Thế giới tiến bộ và cách mạng từ cuối thập kỷ 50
đầu thập kỷ 60 bước vào thời kỳ phát triển với thế và lực mới của
mình trong đó Liên Xơ là người có cơng đầu trong việc kiến thiết
và gìn giữ hịa bình. Nhưng lúc ấy châu Âu đã bị chia làm đôi, cuộc
chiến tranh lạnh bắt đầu, hệ thống xã hội mới ra đời cũng bước
vào

thời

kỳ

đối


đầu

với

chủ

nghĩa

đế

quốc.

Cũng sau chiến tranh thế giới lần II, phong trào giải phóng
dân tộc ở Á - Phi - Mỹ La-tinh phát triển thành cơn bão táp cách
mạng, phá vỡ từng mảng thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Những
cuộc đấu tranh vũ trang, những lực lượng tiến và cách mạng
chiếm ưu thế trong dân tộc, xu hướng độc lập - dân chủ - hịa bình
- trung lập… Đó là những nét mới trong tiến trình phát triển của
phong

trào.

Dù được “Trao trả độc lập” hay đấu tranh giành độc lập, các nước
thuộc địa sau khi thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang đều đi
theo con đường phi đế quốc; trong số các nước này có một số
nước đã đi gần hoặc đi thẳng vào con đường chủ nghĩa xã hội.
Trung Quốc từ năm 1953 bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các nước Việt Nam, Cu Ba là
những ngọn cờ đầu trong phong trào giải phóng dân tộc, sau khi
giành được độc lập đã tiến thẳng lên CNXH không qua giai đọan

phát triển TBCN.
Sáu năm của chiến tranh thế giới thứ hai đi qua, hậu quả
mà cuộc chiến này để lại cho nhân loại vô cùng nặng nề. Châu Âu
trở thành con nợ của Mĩ, các nước đều bị tàn phá nhưng đế quốc
Mĩ với những lợi thế của mình đã lợi dụng chiến tranh và trở nên
giàu có. Với tiềm lực “vơ đối” về kinh tế - tài chính - quân sự, các
4


đời tổng thống Mỹ đã nuôi giấc mộng “ bá chủ thế giới”. Đại chiến
thứ hai vừa kết thúc cũng là lúc nước Mĩ thực hiện “ chiến lược
toàn cầu” , phát động cuộc chiến tranh lạnh bao vây, cấm vận
Liên Xô và các nước XHCN. Mối quan hệ đồng minh giữa Mĩ và
Liên Xô trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa phát xít bị phá vỡ
thay vào đó là mối quan hệ đối đầu, căng thẳng giữa hai bên.
Với việc triển khai “ Chiến lược toàn cầu” nước Mĩ nhằm
thực hiện nhiều mục tiêu trong đó nổi bật là ba mục tiêu lớn như
sau:
* Tiêu diệt chủ nghĩa xã hội (trọng tâm là Liên Xô và các nước
Đông Âu)
* Dập tắt phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mỹ La-tinh
(trọng tâm là Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á và Cu Ba trong
khu vực Mỹ La-tinh).
* Lôi kéo, khống chế các nước đồng minh (trọng tâm là Tây Âu Nhật

Bản).
Chiến lược toàn cầu của Mỹ sử dụng 3 phương thức chủ

yếu: chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang và thực hiện chủ nghĩa
thực mới… Ba phương thức chủ yếu này đã tạo ra sự đối đầu giữa

hai hệ thống thế giới, Mỹ sẽ lôi kéo các nước đồng minh của Mỹ
vào cuộc chiến chống Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa; chủ nghĩa
thực dân mới sẽ thay thế lối thống trị thuộc địa mà phương Tây
nay đã lỗi thời.
Ba chỗ dựa trọng yếu của chiến lược toàn cầu của Mỹ lúc này
là: Viện trợ kinh tế - quân sự - xây dựng hệ thống liên minh phòng
thủ - củng cố lực lượng quân sự mạnh. Sau kế hoạch Marshall chi
50 tỷ dollar vào việc phục hồi các nước tư bản, Mỹ tiếp tục đẩy
mạnh viện trợ cho các nước, tính bình qn mỗi năm trong thời kỳ
8 năm 1953 - 1960 là 5 tỷ dollar. Trong đó số viện trợ quân sự
gần 3 tỷ dollar với tỷ lệ theo ưu tiên cho các khu vực là: Tây Âu
5


54%, Đông Nam Á và Viễn Đông 24,2%, Trung Cận Đông 14,9%,
các nơi khác 6%
Những khối liên minh song phương và đa phương do Mỹ
đứng đầu hoặc bảo trợ lần lượt ra đời như: khối Bắc Đại Tây
Dương (NATO) thành lập năm 1949, khối Đông Nam Á (SEATO) ra
đời năm 1954, khối Trung Cận Đơng (CENTO) hình thành năm
1955, khối Nam Thái Bình Dương (ANZUC) lập ra năm 1951…
Ngồi ra cịn các Hiệp ước tay đơi giữa Mỹ và một số nước ở Đông
Á, Nam Á, Đông Nam Á. Về lực lượng quân sự, những năm 1953 1960 Mỹ cũng đề ra nhiều ý nghĩa chính trị và kinh tế cho Mỹ lúc
này. Quân số giảm đi nhưng căn cứ quân sự ở nước ngoài lại được
tăng cường. Sau chiến tranh Mỹ có hơn 2.200 căn cứ quân sự có
mặt ở khắp các châu lục, 7 hạm đội trải ra khắp các đại dương,
phái đoàn quan sự và cố vấn Mỹ hoạt động ở 45 nước trên thế
giới, nhiều loại vũ khí trang bị mới được ra đời như máy bay ném
bom chiến lược B52, B47, tên lửa vượt đại châu có đầu đạn hạt
nhân, tên lửa tầm trung, tàu ngầm nguyên tử trang bị tên lửa hạt

nhân chiến thuật…
Sự đối đầu giữa Mỹ và Liên Xô về mục tiêu và chiến lược đã
làm cho quan hệ quốc tế hơn 40 năm sau chiến tranh Thế giới thứ
II luôn luôn trong tình trạng căng thẳng. Mưu đồ của Mỹ khơng chỉ
bó hẹp ở Châu Âu hay “sân sau” của Mỹ ở khu vực Mỹ Latinh mà
đế quốc Mỹ từng bước chuyển trọng tâm của chiến lược toàn cầu
sang khu vực Châu Á – Thái Bình Dương lấy Việt Nam làm nơi thí
điểm. Ý đồ đó của Mỹ đã nhanh chóng biến Việt Nam trở thành
tâm điểm trong cục diện hai cực hai phe ở Châu Á.
1.2.Tình hình Việt Nam.
Việt Nam nằm trong khu vực có tiềm năng lớn về kinh tế vì
rất giàu khống sản, ngun nhiên liệu, lại có nguồn nhân lực lao
động dồi dào. Việt Nam cịn có vị trí chiến lược quan trọng về
6


quân sự cho cả vùng Đông Nam Á. Đất liền nối với nhiều quốc gia
và đi sâu vào tận miền Trung Á. Biển có những đảo và hải cảng
khơng những thuận tiện giao thơng, dễ sự dụng tàu thuyền, mà
cịn có khả năng khống chế cả vùng rộng lớn. Việt Nam lại là tiêu
điểm của phong trào giải phóng dân tộc đang sơi sục ở châu Á.
Việt Nam cịn là nơi ấp ủ những mưu toan của Mỹ từ lâu. Đầu
thập kỷ 50 Mỹ đã thấy “Đông Dương là phần thưởng đặt cho một
trò chơi lớn… trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, hàng
năm Đông Dương đã đem lại lợi tức khoảng 300 triệu đơla”. Vì
vậy, chính phủ Mỹ đã tăng cường viện trợ cho nước Pháp trong
cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương những năm 1946 – 1954.
Từ năm 1949 với việc triển khai kế hoạch Rever đã cho thấy sự
dính líu trực tiếp của Mỹ trong cuộc chiến tranh này.
Ngay khi vừa bước vào Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ

Eisenhower đã tuyên bố giúp Pháp trong chiến tranh Đông Dương
là để “ngăn chặn một cách rẻ tiền nhất các sự kiện có thể gây ra
những hậu quả khủng khiếp đối với nước nước Mỹ”. Từ tháng
8/1950 Mỹ đã triển khai phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự
(MAAG) vào Việt Nam. Từ cuối năm 1950 đến cuối năm 1951,
bằng các Hiệp định tay đôi ký với Pháp ở Đơng Dương, như “Hiệp
nghị phịng thủ chung Đơng Dương”, “Kế hoạch hợp tác kinh tế”,
“Kế hoạch an ninh chung”, Mỹ đã từng bước can thiệp vào Việt
Nam. Những kế hoạch chiến tranh của Pháp ở Đông Dương như
“Kế hoạch Rever”, “Kế hoạch Delatte de Tassingy”, “Kế hoạch
Dalan”, “Kế hoạch Navarre” đều được Mỹ trực tiếp tham gia chỉ
đạo thực hiện. Có thể nói Việt Nam là nơi tập trung quyền lợi sống
còn, là đất dụng võ của họ.
Ngày 7/5/1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ toàn
thắng đã đập tan hoàn toàn sự nỗ lực cuối cùng của cả Pháp và
Mỹ trong kế hoạch quân sự Navare. Một hội nghị Quốc tế bàn về
7


vấn đề chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đơng Dương
được triệu tập tại Gènerve chỉ sau đó 1 ngày. Hội nghị đã đi đến
giải pháp cuối cùng bằng bản hiệp định Gènerve với nhiều điều
khoản quan trọng liên quan đến số phận của ba nước Đông Dương
trong đó có Việt Nam. Cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp chấm
dứt đồng nghĩa với thắng lợi trọn vẹn của Việt Nam sau 9 năm
trường kỳ kháng chiến.
Sau Hiệp định Genève 1954, đất nước Việt Nam bị chia làm hai
miền lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời. Toàn bộ lực
lượng quân đội của ta tập kết ra miền Bắc, trong khi quân Pháp
vẫn đang ngự trị ở miền Nam. Do đó, một nguy cơ mới xuất hiện

đe dọa trực tiếp đến an nguy của đất nước khi quân Pháp rút khỏi
miền Bắc (6/1955) và miền Nam (5/1956). Chớp lấy thời điểm đó,
chính phủ Mỹ nhanh chóng dựng nên chính quyền tay sai Ngơ
Đình Diệm ở miền Nam và triển khai kế hoạch “thực dân mới” với
mưu đồ biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn
cứ quân sự để chống lại chủ nghĩa xã hội.
Với những hoạt động xây dựng chủ nghĩa thực dân mới, tấn công
đánh phá lực lượng và phong trào cách mạng, trong những năm
1954 – 1959, Mỹ - Diệm đã biến miền Nam Việt Nam từ một chiến
trường chống chủ nghĩa thực dân thành một chiến trường phản
kích lại các lực lượng cách mạng. Chính quyền Ngơ Đình Diệm sau
khi thành lập đã thực hiện hàng loạt các chính sách phản động
như: chính sách tố cộng diệt cộng, đặt Cộng sản ngồi vịng pháp
luật, thiết lập hệ thống máy chém khắp miền Nam… đã làm cho
lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng nề, vùng giải phóng bị thu
hẹp. Song song với đó là việc đế quốc Mỹ đã thi thố ở Việt Nam 4
chiến lược chiến tranh, ứng dụng từ 3 lần thay đổi chiến lược toàn
cầu. Đây là sự lựa chọn đúng nơi, đúng lúc, đúng đối tượng tiến
hành chiến tranh của Mỹ. Chưa bao giờ Mỹ huy động được sức
8


mạnh của cả nước Mỹ cùng các nước phe Mỹ, trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự như là
trong thời kỳ họ tiến hành chiến tranh Việt Nam. Ý chí và quyết
tâm của Mỹ khi đánh Việt Nam không phải chỉ nhằm khuất phục
một dân tộc, dập tắt một ngọn lửa đấu tranh vì độc lập tự do, mà
cịn nhằm đe dọa nhiều nước khác, đồng thời thể nghiệm sức
mạnh của Hoa Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XX.
Nếu miền Nam phải đối mặt với một đế quốc hùng mạnh bậc

nhất của thê kỷ thì ở miền Bắc khi tốn lính Pháp cuối cùng rút
khỏi đảo Cát Bà, cũng là lúc miền Bắc được hồn tồn giải phóng,
bước vào thời kỳ làm nhiệm vụ của cách mạng XHCN. Tuy nhiên,
bối cảnh của đất nước đã đặt ra những yêu cầu mới để phù hợp
với thực tiễn của Bắc Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Gần 10 thế kỷ độc lập trải qua nhiều lần chia cắt nhưng chưa lần
nào đất nước ta đối mặt với cục diện chính trị đặc biệt như lúc
này. Tình hình đó địi hỏi Đảng và Chính phủ phải quyết tâm, nỗ
lực cùng với nhân dân đồng tâm hiệp lực bằng mọi cách vừa đánh
thắng Mỹ ở miền Nam, vừa xây dựng CNXH ở miền Bắc thành
công để thực hiện thắng lợi sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
3. Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Theo quy định của hiệp định Gènever, phía Bắc vỹ tuyến 17
của Việt Nam được giải phóng. Do đó miền Bắc có nhiệm vụ phải
nhanh chóng hồn thành nốt những nhiệm vụ cịn lại của Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và khôi phục kinh tế, tiến lên xây
dựng CNXH.
Ở miền Nam do chưa được giải phóng, cách mạng lại bị mất
thế lực, quần chúng nhân dân đang tiếp tục bị khủng bố đàn áp.
Vì thế miền Nam có nhiệm vụ phải gây dựng lại lực lượng và
phong trào cách mạng, tiếp tục cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân để giải phóng miền Nam, giành tự do độc lập.
9


Cả hai miền Nam Bắc có nhiệm vụ chung là giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hịa bình thống nhất Tổ quốc để
xây dựng một Việt Nam hịa bình - thống nhất - độc lập - dân chủ
và giàu mạnh.
Hai miền của một đất nước bị cắt tiến hành đồng thời “hai

cuộc cách mạng” khác nhau, dưới sự lãnh đạo của một đảng
thống nhất là Đảng Lao Động Việt Nam. Miền Bắc là hậu phương
to lớn, là chỗ dựa căn bản nhất cho toàn dân tộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, quyết định nhất đến thắng lợi cuối cùng của
Cách mạng cả nước. Miền Nam là tiền tuyến lớn, là chiến trường
chính của cuộc kháng chiến, quyết định trực tiếp đến thắng lợi
cuối cùng của cách mạng cả nước.

CHƯƠNG II - ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CNXH Ở MIỀN
BẮC VÀ ĐẤU TRANH CHỐNG MĨ - DIỆM Ở MIỀN NAM.
2.1- Đảng lãnh đạo Miền Bắc xây dựng CNXH (19541960)
2.1.1. Miền Bắc cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế
(1954-1957)
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và hiệp dịnh Gènerve bàn về lập lại hịa
bình ở Việt nam và Đơng Dương đợc các bên tham dự hội nghị kí kết (7 - 1954),
10


miền Bắc nước ta được hồn tồn giải phóng, đó là điều kịên chính trị xã hội hết
sức thuận lợi. Nhưng bên cạnh đó miền Bắc gặp vơ vàn khó khăn do hậu quả chiến
tranh để lại: ở nông thôn hàng van héc-ta ruộng đất bị bỏ hoang, nhân lực lao động,
nông cụ, sức kéo đều thiếu nghiêm trọng. Ở thành thị, nhiều cơ sở cơng nghiệp,
nhà máy, xí nghiệp bị địch tháo gỡ thiết bị hoặc phá hoại trớc khi rút đi, công nhân
thất nghiệp là phổ biến; thương nghiệp và thủ cơng nghiệp cũng rơi vào tình trạng
tê liệt không hoạt động hoặc hoạt động kém hiệu quả. Vấn đề được đặt ra lúc này
là phải nhanh chóng thực hiện công cuộc cải cách ruộng đất, để bồi dưỡng sức dân
và tăng cường sức mạnh của khối liên minh cơng nơng.
Thực hiện u cầu đó, Đảng ta đã phát động cuộc cải cách ruộng đất. Cuộc
cải cách ruộng đất bắt đầu từ cuối năm 1953 nhưng cũng chỉ mới thực hiên được ở
một số địa phương thuộc vùng tự do. Đời sống các tầng lớp nhân dân vô cùng khó

khăn, có nhiều vùng xuất hiện tình trạng thiếu ăn, đói kém nghiêm trọng.
Nhận thức sâu sắc những thuận lợi và khó khăn của miền Bắc, đồng thời để
tạo tiền đề kinh tế - xã hội mở đường đa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đảng
đã mở các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu, lần thứ bảy, lần thứ
tám và lần thứ mời (khoá II), bàn nhiều vấn đề quan trọng liên quan đế sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc: Trong giai đoạn mới, toàn Đảng, toàn dân
cần tập trung mọi nỗ lực kinh tế đó là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt và khâu chính
là nơng nghiệp; tiến hành cải cách ruộng đất ,thực hiện người cày có ruộng là
nhiệm vụ trọng yếu; đồng thời phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, củng cố
Đảng và chính quyền dân chủ nhân dân, làm nhiệm vụ lịch sử của chun chính vơ
sản; củng cố quốc phịng, xây dựng quân đội, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
Triển khai thực hiện nhiệm vụ trên, trong khôi phục kinh tế ở miền Bắc sau
chiến tranh, Đảng ta đã chỉ đạo toàn dân thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ. Trước
hết là nhiệm vụ khôi phục sản xuất nông nghiệp và bước đầu xây dựng bộ phận
kinh tế tập thể. Giai cấp nông dân phấn khởi được giải phóng khỏi ách áp bức bóc
lột của đế quốc và phong kiến, lại được Đảng, chính phủ chia ruộng đất nên đã

11


hăng hái vượt mọi khó khăn, ra sức khai hoang phục hóa, chống hạn, đẩy mạnh sản
xuất,tăng nhanh sản lượng lương thực.
Tính đến năm 1957, sản lượng lương thực ở miền Bắc đạt 4,2 triệu tấn, vượt
mức trước chiến tranh thế giới lần thứ hai(1939) là 2,4 triệu tấn. Đời sống của nhân
dân mà chủ yếu là nông dân dần dần đi vào ổn định, đẩy lùi nạn đói. Về khôi phục
sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, Đảng chủ trương phải tập trung khôi
phục và phát triển công nghiệp trong phạm vi cần thiết và có khả năng phục vụ cho
nơng nghiệp. Do đó trong các năm 1955 đến năm 1957 hầu hết các cơ sở công
nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp quan trọng như: Mỏ than Hồng Gai, nhà máy dệt

Nam Định, nhà máy xi măng Hải Phịng, nhà máy điện Hà Nội, đi vào hoạt động
có hiệu quả, công nhân phấn khởi trở thành người làm chủ cơ sở sản xuất của
mình. Đồng thời, Đảng và Nhà nước chỉ đạo xây dựng thêm một số nhà máy mới.
Đến cuối 1957, miền Bắc có tất cả 97 nhà máy, xí nghiệp do Nhà nước quản lý,
thương nghiệp miền Bắc đã tăng tổng mức bán lẻ lên 70,6%, doanh số gấp 2 lần so
với năm 1955. Về khôi phục và phát triển giao thông vận tải, Đảng và Nhà nước
chỉ đạo nhanh chóng khơi phục đường xe lửa, đường ôtô, đường thủy, bưu điện,
nạo vét và mở rộng các bến cảng: Long Biên, Hải Phòng, Hòn Gai, Cẩm Phả, Bến
Thủy; khai thông đường hàng không quốc tế. Các ngành văn hóa, giáo dục, y tế
phát triển nhanh chóng theo tính chất xã hội chủ nghĩa. Hệ thống giáo dục phổ
thơng theo chương trình 10 năm được xác lập, giáo dục đại học được chú ý phát
triển. Hệ thống y tế và chữa bệnh miễn phí được phát triển rộng trên miền Bắc. Hệ
thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng và củng cố, đã phát huy
hiệu lực trong lãnh đạo và chỉ đạo nhiệm vụ khôi phục kinh tế, đập tan mọi âm
mưu và hành động của bọn phản động chống đối chế độ mới.Trong chỉ đạo thực
hiện nhiệm vụ cải cách ruộng đất, Đảng chủ trương thực hiện 6 đợt giảm tô, 2 đợt
cải cách ruộng đất đem ruộng đất về cho dân cày và từng bước đưa họ vào con
đường làm ăn tập thể.
Trong hơn 2 năm (1954-1956), cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tiến hành
tiếp 4 đợt còn lại (Từ đợt 2 đến đợt 5) với tổng cộng 3.314 xã. Trải qua 5 đợt cải
12


cách ruộng đất, khoảng 81 vạn ta ruộng đất,10 vạn trâu bị, 1,8 triệu nơng cụ từ tay
giai cấp địa chủ đợc chia cho trên 2 triệu nông dân. Giai cấp địa chủ bị xóa bỏ,
quan hệ sản xuất mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, chúng ta đã phạm phải
một số sai lầm nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến tư tưởng tình cảm và nhiệt tình
cách mạng của nhân dân. Nhận thức rõ điều đó, Đảng đã kịp thời sửa chữa sai lầm,
khuyết điểm, giữ vững ổn định chính trị xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân vào

sự lãnh đạo của Đảng.
Như vậy, cơng cuộc khơi phục kinh tế và hồn thành những nhiệm vụ còn lại
của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân từ năm 1954 đến 1957 do Đảng lãnh đạo,
thực chất là quá trình san nền, xây móng, mở đường để bắt tay triển khai thực hiện
từng bước cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
2.1.2. Miền Bắc cải tạo quan hệ sản xuất XHCN (1958
– 1960)
Công cuộc khôi phục kinh tế thắng lợi đã tạo cơ sở thuận lợi cho sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc vững bước tiến lên. Tháng 4 năm 1958,
Hội
nghị lần thứ mười bốn Ban Chấp hành Trung ương Đảng bàn về kế hoạch 3 năm
(1958 -1960) cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông
dân, thợ thủ công, thành phần kinh tế tư bản tư doanh, người buôn bán nhỏ, đồng
thời mở mang xây dựng cơ bản, tăng cường lực lượng của thành phần kinh tế quốc
doanh.
Đảng chủ trương tập trung sự lãnh đạo cải tạo toàn diện nền kinh tế xã hội,
khâu chính là cải tạo nơng nghiệp bằng cách hợp tác hóa tồn bộ nơng nghiệp, thực
hiện hợp tác hóa trước khi cơ giới hóa, từ hợp tác hóa trong nơng nghiệp làm địn
bẩy thúc đẩy và phát triển các ngành kinh tế khác. Mục đích cải tạo các thành phần
kinh tế phi xã hội chủ nghĩa là để xác lập chế độ công hữu về tư hiệu sản xuất,
dưới hai hình thức chủ yếu: sở hữu nhà nước (tồn dân) và sở hữu tập thể, nhằm
hình thành quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân.
13


Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong khi lấy cải tạo là trọng tâm, phải tiến
hành đồng thời với xây dựng cải tạo để xây dựng và xây dựng phải kết hợp với cải
tạo, thúc đẩy cải tạo nhanh chóng hoàn thành. Hướng phấn đấu đến năm 1960,
nhân dân miền Bắc sẽ có đủ lương thực, cớ thêm rau, thịt, cá, đường; tự cung cấp

phần lớn hàng tiêu dùng, chủ yếu là vấn đề ăn, mặc, học, đồ dùng gia đình; trình
độ văn hóa và kỹ thuật được nâng dần; nạn thấp nghiệp do chế độ vũ để lại sẽ đợc
giải quyết căn bản. Cụ thể hóa Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ mười bốn, Đảng ta đã có các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư
chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ cải xã hội chủ nghĩa toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế
xã hội, tạo nên phong trào sản xuất sôi nổi trên tồn miền Bắc.
Trong xu thế phát triển đó, tháng 4 năm 1959 Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ mười sáu (khóa II) họp, tập trung bàn về vấn đề hợp tác hóa
trong nơng nghiệp và cải tạo xã hội chủ nghĩa với công thương nghiệp tư bản tư
doanh.
Về hợp tác hóa nơng nghiệp, hội nghị chỉ rõ nhiệm vụ của Đảng lúc này là
chuẩn bị mọi mặt về đường lối, chính sách, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kế hoạch
để phát triển tổ đổi công, mở mang hợp tác xã nơng nghiệp một cách tích cực,
vững chắc tiến tới cao trào cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nông thôn. Nguyên tắc
chỉ đạo xây dựng hợp tác xã là: tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ. Phương
châm tiến hành cải tạo là tích cực, vững chắc, quy hoạch về mọi mặt, sát với từng
vùng.
Về cải tạo đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, Đảng đề ra chủ
trương cải tạo hịa bình, hai bên cùng có lợi, đi đơi với sắp dấp công ăn việc làm
cho các nhà tư bản và giai cấp tư sản. Thực hiện chủ trương của Đảng, phong trào
cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhanh chóng trở
thành cao trào trên tồn miền Bắc. Cuộc vận động hợp tác hóa trong nơng nghiệp
thu nhiều thành tựu to lớn; tính đến cuối năm 1960, miền Bắc có hơn 85% hộ nơng
dân, với 68% diện tích ruộng đất vào hợp tác xã nông nghiệp. Đối với cải tạo công
thương nghiệp tư bản tư doanh tính đến cuối năm 1960, miền Bắc có 783 hộ tư sản
công nghiệp (100%), 826 hộ tư sản thương nghiệp (97,1%) và 319 hộ tư sản vận
14


tải cơ giới (99%) đã được cải tạo. Hàng vạn cơng nhân được giải phóng khỏi ách

bóc lột của giai cấp tư sản.
Ngành thủ công nghiệp từng bước được phục hội và đi vào con đường làm
ăn tập thể thông qua các hình thức tổ chức hợp tác như: hợp tác xã cung tiêu, hợp
tác xã sản xuất thủ công nghiệp. Tính đến cuối năm 1960, miền Bắc có 87,9% số
thợ thủ công tham gia cải tạo và đi vào làm ăn tập thể.
Về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng tiến hành chỉ đạo chú trọng phát
triển thành phần kinh tế quốc doanh. Tính đến năm 1960, miền Bắc có 56 nơng
trường quốc doanh, với diện tích trên 10 vạn héc ta canh tác. Công nghiệp sản xuất
các tư liệu sản xuất được Đảng, Nhà nước chú trọng đầu tư phát triển, nhiều cơng
trình lớn, nhỏ ra đời. Từ chỗ có 97 xí nghiệp cơng nghiệp quốc doanh năm 1957,
đến năm 1960 đã có 172 xí nghiệp do Trung ương quản lý và trên 500 cơ sở do địa
phương quản lý. Nhiều khu công nghiệp tập trung ra đời như Nhà máy gang thép
Thái Nguyên, khu liên hiệp cơng nghiệp Việt Trì ... Ngành cơng nghiệp tiêu dùng
có sự phát triển đáng kể. Năm 1959 tổng số hàng tiêu dùng được sản xuất trong
nước tăng 283,7% so với năm 1955, bảo đảm cung cấp được 90% hàng tiêu dùng
cần thiết cho đời sống nhân dân. Ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa cịn non
trẻ cũng có sự phát triển vợt bậc. Đến năm 1959, mậu dịch quốc doanh đã có 12
tổng cơng ty chun nghiệp, bao gồm 1.400 cửa hàng, mạng lới hợp tác xã mua
bán có ở hầu hết các địa phương trong miền Bắc. Sự nghiệp phát triển văn hóa,
giáo dục, y tế ln được Đảng, Nhà nước quan tâm xây dựng. Tính đến cuối năm
1960, miền Bắc đã căn bản xóa nạn mù chữ ở miền xuôi cho những người dưới 50
tuổi. Hệ thống giáo dục phổ thơng được hồn chỉnh và mở rộng, với số học sinh
tăng 80% so với năm 1957. Các trường đại học và trung học chuyên nghiệp không
ngừng mở rộng. Đến năm 1960, miền Bắc có 9 trường đại học, với 11,070 sinh
viên (gấp 2 lần so với năm 1957). Hệ thống y tế hình thành căn bản trên khắp các
địa phương miền Bắc, bao gồm các bệnh viện, bệnh xá, trạm y tế phục vụ nhân dân
miễn phí.
Cùng với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, trong những năm từ 1958
đến 1960. Đảng còn đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, củng cố chính
15



quyền, xây dựng Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Các Nghị quyết Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ mười bốn, lần thứ mười lăm đợc qn
triệt tồn Đảng, trong đó chú trọng khâu chỉnh đốn tổ chức, tăng cường giáo dục lý
luận Mác - Lênin, cải tạo tư tưởng, nhằm chống lại các quan điểm phản động, sai
trái, làm cho Đảng trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Tháng 12 năm 1959, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hịa thơng qua Hiến
pháp mới. Ngày 1 tháng 1 năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cơng bố với toàn
dân và thế giới bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của nước ta. Thông qua
bầu cử dân chủ, Hội đồng Chính phủ, Hội đồng nhân dân các cấp đã đợc mở rộng,
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước ngày càng phát huy hiệu
quả. Các tổ chức quần chúng như Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, đoàn thanh
niên lao động Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Mặt trận dân tộc thống
nhất đều được củng cố và hoạt động tích cực. Qn đội nhân dân Việt Nam nịng
cốt của nền quốc phịng tồn dân, trụ cột của chun chính vơ sản đợc Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng từng bước, tiến lên chính quy
hiện đại.
Những thành tựu thu được trong sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát
triển kinh tế, văn hóa ở miền Bắc (1958-1960), đã chứng minh tính đúng đắn, sáng
tạo của Đảng trong lãnh đạo và chỉ đạo toàn dân bắt tay vào sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, tiến dần từng bớc vững chắc, phù hợp với thực tiễn đất nước và
trình độ nhận thức của nhân dân.
2.1.3. Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ III của Đảng
(9/1960)
Bước vào những năm 60 của thế kỷ XX, tình hình trong
nước và quốc tế tiếp tục có những biến đổi to lớn, tác động sâu
sắc đến sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Xu hướng
hòa dịu trong quan hệ quốc tế vừa tạo điều kiện thuận lợi cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nhưng cũng gây

nhiều bất lợi cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước của Nhân dân ta. Vượt qua những khó khăn to lớn,
16


dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, cách mạng Việt Nam đã không
ngừng tiến lên giành được những thành tựu to lớn ở hai miền
Nam, Bắc.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ III
của Đảng đã họp tại Hà Nội. Sau những ngày họp nội bộ, Đại hội
đã họp công khai từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Dự Đại hội có
525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt hơn 50
vạn đảng viên trong cả nước, trong đó 50% số đại biểu là các
đảng viên đã tham gia cách mạng từ khi Đảng cịn hoạt động bí
mật. Tất cả các đại biểu đã trải qua cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược. Nhiều đại biểu là anh hùng và chiến sĩ thi
đua, là đại biểu đại diện cho các dân tộc thiểu số, là nhà thơ, nhà
văn, nhà giáo, nhà khoa học. Dự Đại hội cịn có đại biểu của Đảng
Xã hội, Đảng Dân chủ và các đoàn thể quần chúng trong Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam. Gần 20 đoàn đại biểu quốc tế đến dự Đại hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Diễn văn khai mạc Đại hội, nêu rõ:
“Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tuyệt đối trung thành với lợi
ích của giai cấp vơ sản và của dân tộc; giữ gìn sự đồn kết nhất trí
trong Đảng và sự đồn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản, giữa
các nước trong đại gia đình xã hội chủ nghĩa, đó là cái bảo đảm
chắc chắn nhất cho cách mạng thắng lợi”.
Người nêu khái quát nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam
và vạch rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc và đấu tranh hịa bình thống nhất nước nhà”2. Để bảo

đảm thắng lợi của cách mạng, vấn đề có ý nghĩa quyết định là
“phải nâng cao hơn nữa sức chiến đấu của toàn Đảng ta, phát huy
hơn nữa tác dụng lãnh đạo của Đảng ta trên mọi mặt công tác.
Từ trước tới nay, Đảng ta đã cố gắng liên hệ chặt chẽ chủ
nghĩa Mác - Lênin với thực tế cách mạng Việt Nam. Cán bộ và
17


đảng viên ta nói chung đều có phẩm chất cách mạng tốt đẹp.
Nhưng chúng ta còn nhiều khuyết điểm như: bệnh chủ quan, chủ
nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm, tác phong quan liêu,
chủ nghĩa cá nhân... Chúng ta phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác Lênin, tăng cường giáo dục tư tưởng trong Đảng, đấu tranh khắc
phục những khuyết điểm... nâng cao hơn nữa tính giai cấp và tính
tiên phong của Đảng, tăng cường khơng ngừng mối liên hệ giữa
Đảng và quần chúng, phải biết đoàn kết mọi người yêu nước và
tiến bộ để xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống
nhất nước nhà”.
Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng do đồng chí Lê Duẩn trình bày; Báo cáo về sửa đổi
Điều lệ Đảng do đồng chí Lê Đức Thọ trình bày; Báo cáo về
phương hướng và nhiệm vụ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất do đồng
chí Nguyễn Duy Trinh trình bày và nhiều tham luận khác.
Bản Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã kiểm điểm lại sự lãnh đạo của Đảng từ Đại hội II đến Đại hội III,
đặc biệt là thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 1954). Báo cáo viết: “Trong quá trình kháng chiến, Đảng ta dựa
trên cơ sở liên minh công nông và không ngừng tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, đã ra sức mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, phát triển lực lượng
vũ trang nhân dân, thực hiện phương châm toàn dân đoàn kết,
kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh, diệt giặc cứu nước. Làm cho

phương châm kháng chiến lâu dài được thấu suốt là một quá trình
giáo dục và đấu tranh tư tưởng bền bỉ trong toàn Đảng và toàn
dân, chống những khuynh hướng sai lầm đã từng nảy ra trong
những năm kháng chiến”.
“Đi đôi với kháng chiến và để bồi dưỡng lực lượng kháng
chiến, Đảng ta và Nhà nước dân chủ nhân dân đã tiến hành từng
18


bước những cải cách dân chủ, đi đến thực hiện cải cách ruộng đất
ngay trong kháng chiến, nhằm hạn chế rồi xóa bỏ sự bóc lột của
giai cấp địa chủ, cải thiện đời sống cho nhân dân lao động, chủ
yếu cho nông dân là lực lượng to lớn nhất của kháng chiến” 2.
“Cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân ta kết thúc thắng lợi.
Thắng lợi đó chứng tỏ rằng trong điều kiện thế giới ngày nay, một
dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên kiên
quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác - Lênin để
giành độc lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng
mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự
lãnh đạo đúng đắn của giai cấp cơng nhân mà Đảng ta là đại biểu,
chỉ có đường lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin
mới có thể tạo điều kiện cho nhân dân ta đánh bại qn thù và
giành tự do, độc lập”.
Phân tích tình hình đất nước ta tạm thời bị chia làm hai miền
với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau, bản báo cáo xác định:
“Nhiệm vụ cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay
là: tăng cường đồn kết tồn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững
hịa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân

chủ, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội
chủ nghĩa và bảo vệ hịa bình ở Đông Nam Á và thế giới”.
Hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc
hai chiến lược khác nhau, song hai nhiệm vụ đó trước mắt đều có
một mục tiêu chung là thực hiện hịa bình thống nhất Tổ quốc,
đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn
giữa Nhân dân ta với đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai của chúng.

19



×