Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG LÃNH đạo xây DỰNG mặt TRẬN dân tộc THỐNG NHẤT TRONG đấu TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN GIAI đoạn 1930 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.05 KB, 64 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 03-02-1930 ĐCSVN ra đời là sự kiện chính trị đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của
cách mạng Việt Nam. Từ đó, Đảng đã tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ
nhưng vô cùng oanh liệt và ở tuổi 15, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đứng lên giành chính quyền
trong cả nước, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước nhảy vọt của cách mạng Việt
Nam, đánh dấu sự phát triển to lớn trong đời sống chính trị, xã hội của nhân dân ta. Đó là thắng
lợi của khối đoàn kết dân tộc trong MTDTTN Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức
sâu sắc về sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngay từ lúc mới ra đời, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng MTDTTN nhằm đoàn kết, tập hợp các giai cấp,
tầng lớp, lực lượng yêu nước và tiến bộ đấu tranh chống đế quốc và phong kiến giành chính
quyền.
Từ năm 1930 đến năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với các tên gọi khác nhau,
MTDTTN ở nước ta từng bước hình thành, phát triển và đảm đương vai trò lịch sử to lớn tập hợp
được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc đi theo ngọn cờ của Đảng, làm nên thắng lợi của
cách mạng tháng Tám, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hơn 70 năm qua, từ khi ra đời đến nay, trong đường lối cách mạng của mình, ĐCSVN
luôn xác định nhiệm vụ xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong MTDTTN để xây dựng và phát
triển lực lượng cách mạng. Sự lãnh đạo đúng đắn của ĐCSVN thông qua xây dựng đường
lối,chính sách, thông qua tổ chức là yếu tố quyết định đối với quá trình hình thành và phát triển
của MTDTTN. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam phụ thuộc vào sự phát triển của MTDTTN
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nhân dân ta
đã thu được những thành tựu quan trọng: “Kinh tế tăng trưởng khá, văn hoá xã hội có những
tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định;
quốc phòng an ninh được tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ
thống chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế
quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả” [14, tr.16]. MTDTTN Việt Nam đã đóng
góp to lớn vào những thành tựu đó.


Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, nhiều vấn đề mới tiếp tục nảy sinh đang đặt ra
phải giải quyết. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ cùng các thế lực thù địch đang ra sức
thực hiện chiến lược diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta trên nhiều
lĩnh vực. Đặc biệt, chúng dùng mọi âm mưu và thủ đoạn để xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính


sách của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây chia rẽ MTDTTN, làm suy giảm mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội với nhân dân.
Vì vậy, nghiên cứu quá trình ĐCSVN lãnh đạo xây dựng MTDTTN Việt Nam trong thời kỳ
lịch sử đặc biệt đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945) là một việc cần thiết. Qua đó, để tìm
hiểu những bước phát triển trong tư duy lý luận (đường lối, chính sách ), trong tổ chức thực hiện và
sự sáng tạo của Đảng trong xây dựng lực lượng cách mạng và phát huy vai trò của MTDTTN trong
sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền. Từ những thành công và chưa thành công của Đảng trong
quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng MTDTTN thời kỳ 1930 - 1945, rút ra những kinh nghiệm để vận
dụng vào xây dựng MTDTTN trong điều kiện mới hiện nay. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả
về lý luận và thực tiễn đối với công tác xây dựng Mặt trận đoàn kết dân tộc. Với lý do đó, tác giả
chọn đề tài. “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất
trong đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về ĐCSVN lãnh đạo, xây dựng MTDTTN đã được sự chú ý của nhiều nhà
khoa học. Một số công trình đã được công bố như : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, sơ thảo,
tập 1 (1920 - 1945), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981; Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Lược sử Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 1995.
Bên cạnh đó, một số chuyên khảo, chuyên luận của nhiều nhà khoa học đã được đăng
tải trên các sách, báo, tạp chí, trong đó có đề cập đến quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng
MTDTTN như: Kỷ yếu về Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ III (12-1971) , ủy Ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xuất bản tháng 2-1973; Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Ban dân vận Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 1995; Mặt trận Việt Minh, Nxb Sự
thật, Hà nội 1991, của tác giả Nguyễn Thành ; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề cơ bản

của cách mạng Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 2003 của tác giả Phạm Hồng Chương;
"Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Mặt trận Dân tộc thống nhất, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân - những kinh nghiệm lịch sử", của tác giả Trần Văn Đăng, tạp trí Thông tin khoa học xã
hội nhân văn quân sự, số 71 tháng 5-2001; "Quán triệt quan điểm của Đảng về xây dựng và phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới", của tác giả Đoàn Ngọc Hải, Tạp chí
Giáo dục lý luận chính trị quân sự số 80 năm 2003…
Nhìn chung, các công trình khoa học và một số chuyên khảo, chuyên luận đã được công
bố, ở các góc độ, đã đề cập đến sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về xây dựng MTDTTN trong
từng thời kỳ lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống về sự lãnh đạo của ĐCSVN trong xây dựng MTDTTN thời kỳ đấu tranh
giành chính quyền từ năm 1930 đến 1945.


3. Mục đích, nhiệm vụ và đối tượng phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích :
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về ĐCSVN lãnh đạo xây dựng MTDTTN trong đấu tranh
giành chính quyền (1930-1945), từ đó rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng vào xây dựng
MTDTTN trong giai đoạn hiện nay nhằm phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, tiếp tục
đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ :
- Trình bày cơ sở lý luận, thực tiễn trong xây dựng MTDTTN
- Phân tích những chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong xây dựng MTDTTN và làm
sáng tỏ vai trò của Mặt trận đối với cách mạng Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945.
- Rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong công tác
xây dựng MTDTTN thời kỳ 1930 - 1945.
Đối tượng phạm vi nghiên cứu :
Đề tài tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng MTDTTN từ năm
1930 đến 1945
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,

đường lối quan điểm của ĐCSVN.
- Sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc, kết hợp kết hợp lịch sử với lôgíc;
vận dụng phương pháp tổng hợp, đối chiếu, so sánh.. để thực hiện nhiệm vụ của đề tài.
5. Ý nghĩa của luận văn
- Trên cơ sở trình bày có hệ thống, toàn diện hoạt động lãnh đạo của Đảng trong xây
dựng MTDTTN từ năm 1930 đến 1945. Luận văn làm sáng tỏ sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng
trong việc tập hợp mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ tạo thành sức mạnh tổng hợp nhằm đứng lên
giành chính quyền.
- Những kinh nghiệm được rút ra là cơ sở để vận dụng xây dựng MTDTTN hiện nay,
nhằm phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.


- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy bộ môn
lịch sử ĐCSVN ở các Nhà trường trong và ngoài Quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương, 5 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục.
Chương 1
QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT TRONG THỜI
KỲ 1930 – 1945
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành Mặt trận dân tộc thống nhất
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận
dân tộc thống nhất
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, ĐCSVN luôn đứng vững trên lập trường, quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh để nhận thức đúng về vai trò quyết định
của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Chính vì vậy, từ khi mới ra đời, Đảng ta đã có ngay chủ
trương thành lập và lãnh đạo MTDTTN nhằm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ
để thực hiện mục tiêu cách mạng của Đảng là giành độc lập tự do cho dân tộc.

Trải qua nhiều thời kỳ với các hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, MTDTTN luôn hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ của cách mạng.
Trong bài viết "Nước Việt Nam đấu tranh cho nền độc lập của mình", lần đầu tiên Hồ Chí
Minh đã bàn về khái niệm MTDTTN với nội dung là: "Việt nam độc lập đồng minh (hoặc Việt minh)
có nghĩa là liên minh vì nền độc lập của nước Việt nam. Mặt trận bao gồm tất cả những người yêu
nước, không phân biệt khuynh hướng chính trị, tín ngưỡng tôn giáo, giai cấp xã hội, nam nữ và tuổi
tác. Các thành viên của Mặt trận tập hợp trong các hội cứu quốc" [43, tr 24].
Từ khái niệm của Hồ Chí Minh bàn về MTDTTN, đồng thời từ thực tiễn lãnh đạo xây
dựng MTDTTN, có thể hiểu MTDTTN là một hình thức liên minh chính trị, là tổ chức tự nguyện
của các đoàn thể, cá nhân trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN.
Thực chất của việc xây dựng và lãnh đạo MTDTTN ở Việt Nam chính là quá trình xây
dựng, củng cố, phát triển và lãnh đạo lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù dân
tộc, kẻ thù giai cấp, để giành, giữ chính quyền và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa hiện nay.
Vấn đề dân tộc, ở thời đại nào cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường và
quan điểm của một giai cấp nhất định. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lê nin đã chỉ ra


rằng: Chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn
vấn đề dân tộc.
Năm 1948, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã đề cập mối
quan hệ giai cấp và dân tộc đã cho rằng: Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách
thống trị của giai cấp tư sản ở giai đoạn đầu của nó là mang tính dân tộc vì “Phong trào vô sản là
phong trào độc lập của khối đại đa số mưu lợi ích cho khối đại đa số”. [33, tr.624].
Chính vì vậy, nhiệm vụ của giai cấp vô sản được các ông chỉ rõ: “Giai cấp vô sản mỗi
nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự
trở thành dân tộc”. [33, tr.624].
Theo C.Mác và Ph.Ăng ghen, trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp vô sản mới thống
nhất được lợi ích của giai cấp mình với lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Có triệt

để xoá bỏ tình trạng áp bức bóc lột giai cấp mới có điều kiện xoá bỏ áp bức dân tộc, mới đem lại
độc lập thực sự cho dân tộc mình và cho dân tộc khác. Chỉ có giai cấp vô sản với bản chất cách
mạng và sứ mệnh lịch sử của mình mới có thể thực hiện được điều này.
Khi nói về vai trò của lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư
sản, chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ: Muốn làm cách mạng đánh đổ giai cấp thống trị để giải
phóng giai cấp và giải phóng dân tộc, giai cấp vô sản phải biết tập hợp tất cả các lực lượng có
thể tập hợp được để đánh đổ kẻ thù của giai cấp và xây dựng xã hội mới.
Sức mạnh của quần chúng được phát huy khi được tổ chức chặt chẽ, và đặt dưới sự
lãnh đạo của giai cấp vô sản với đường lối đúng đắn, chiến đấu chống lại giai cấp áp bức bóc lột
đem lại lợi ích cho quần chúng, thì vai trò và sức mạnh đó được nhân lên gấp bội. Quần chúng
không chỉ là động lực chủ yếu của cách mạng mà còn là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Ở
những thời điểm có tính chất bước ngoặt của cách mạng thì vai trò của quần chúng được xác
định rõ hơn.
Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ thể xây dựng một thế giới tự
do, bình đẳng bác ái khi được Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo. Quần chúng nhân dân được tổ
chức đứng lên làm cách mạng lật đổ chế độ tư bản, họ “Chẳng mất gì hết ngoài xiềng xích trói
buộc họ. Họ giành được cả thế giới” [33, tr. 646]
Nhưng muốn làm được điều đó, quần chúng phải được giác ngộ, được tổ chức lại và
trực tiếp tham gia vào sự nghiệp cách mạng. Lê nin viết: “Cách mạng là ngày hội của những
người bị áp bức và bóc lột. Không lúc nào quần chúng nhân dân có thể tỏ ra là người tích cực
sáng tạo ra những trật tự xã hội mới như trong thời kỳ cách mạng” [30, tr.131]. Thực tiễn lịch sử
cho thấy, không có sự tham gia tích cực của quần chúng được tổ chức thì không có cuộc cách
mạng nào có thể giành được thắng lợi.


Trong lực lượng cách mạng, C. Mác coi sự ủng hộ của lực lượng nông dân đông đảo đối
với phong trào vô sản là bài đồng ca, ngược lại nếu không có bài đồng ca đó thì cách mạng vô
sản sẽ trở thành “một bài ai điếu”. Xác định vấn đề đồng minh của cách mạng vô sản là vấn đề
chiến lược của những người cộng sản, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph-Ăng
ghen đã kêu gọi: “Vô sản thế giới đoàn kết lại”. Đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa V.I. Lê nin nêu

khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Chỉ có đoàn kết, đoàn kết
dân tộc, đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế, đoàn kết các lực lượng yêu nước và tiến bộ mới tạo
nên sức mạnh to lớn để đánh đổ kẻ thù dân tộc và giai cấp. Nhằm thực hiện thành công chiến
lược của mình, Quốc tế Cộng sản đã lập ra các tổ chức quốc tế khác nhau, hợp thành một trận
tuyến cách mạng rộng lớn như: Quốc tế thanh niên, Quốc tế nông dân, Quốc tế phụ nữ, Quốc tế
cứu tế đỏ, Liên đoàn chống đế quốc v.v... Mô hình này đã được Quốc tế Cộng sản chỉ đạo triển
khai ở tất cả các nước. Chủ nghĩa Mác - Lê nin cũng chỉ ra rằng, nếu giai cấp vô sản tiến hành
cuộc đấu tranh chống giai cấp bóc lột một cách đơn độc “thì đó không những là điều dại dột mà
còn là một tội ác nữa" [31, tr. 97]. Điều đó cho thấy sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ sự gắn bó
máu thịt giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Để có được kết quả đó, Đảng phải có đường lối,
chính sách và phương pháp đúng đắn để tập hợp, huy động lực lượng toàn dân tham gia sự
nghiệp cách mạng.
Khẳng định vai trò to lớn của quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử và để
quần chúng nhân dân thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó, các Đảng Cộng sản phải tập hợp
được quần chúng vào một tổ chức chặt chẽ, rộng rãi, là Mặt trận thống nhất dân tộc đồng thời
phải thường xuyên giáo dục, hướng dẫn, dìu dắt họ đứng lên làm cách mạng. Và, MTDTTN chỉ
được thành lập trên thực tế khi mục tiêu của Đảng phù hợp và thống nhất với yêu cầu của quần
chúng nhân dân.
Trải qua gần 10 năm bôn ba ở nước ngoài để khảo sát, nghiên cứu, học tập kinh nghiệm
của các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, Nguyễn ái Quốc đã tìm thấy con đường giải
phóng dân tộc.
Từ năm 1920, sau khi tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn ái Quốc bắt đầu
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước ta, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đặt nền
tảng cho sự ra đời của ĐCSVN và các tổ chức quần chúng. Đây cũng là quá trình, cùng với việc
xác định nguồn sức mạnh dân tộc, Nguyễn ái Quốc đã phân tích sâu sắc những nguyên nhân
thất bại trong đấu tranh của của nhân dân ở các nước thuộc địa. Trong tác phẩm “Bản án chế độ
thực dân Pháp”, Người đã kết luận: "Mặc dù dân số của họ đáng lẽ phải làm cho họ có sức mạnh
các dân tộc bị áp bức đó vẫn chưa bao giờ ra sức tìm tòi thật đến nơi đến chốn con đường tự
giải phóng, cho nên họ chưa hiểu được giá trị của sự đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế" [36,
tr.123]. Phân tích kết quả cuộc đấu tranh oanh liệt của dân tộc trong gần một thế kỷ, Nguyễn ái

Quốc cho rằng: "Việc lớn chưa thành không phải vì đế quốc mạnh, nhưng một là vì cơ hội chưa


chín, hai là vì nhân dân ta chưa hiệp lực đồng tâm" [20, tr.167]. Do đó, Người khẳng định: "có đoàn
kết mới có lực lượng, có lực lượng mới giành độc lập tự do" [20, tr.417].
Trên lập trường của giai cấp vô sản, nhận thức rõ cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, từ thực tiễn Việt Nam, Nguyễn ái Quốc đã sớm nhìn thấy “Chủ nghĩa dân tộc là động lực
to lớn của đất nước” và chỉ ra rằng: “Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó
dạy cho những người culi biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước
thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam
cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc, nó đã thúc dục thanh niên bãi khoá, làm cho
những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917”
[35, tr. 466]. Nguyễn ái Quốc còn phát hiện thấy, trong điều kiện lịch sử mới, có những biến đổi
của chủ nghĩa dân tộc: “Nó đã hiện đại hoá" và “ăn sâu vào quần chúng” và đã xuất hiện một trào
lưu dân tộc mới: "Sự từ bỏ của lớp thanh niên đối với những cuộc nổi dậy bột phát của lớp người
đi trước”, để đi theo “chiến thuật của những nhà cách mạng Châu Âu: tuyên truyền, tổ chức và
khởi nghĩa quần chúng”[ 35, tr.466].
Với sự phân tích đó, Người đã viết rằng: "Giờ đây, người ta sẽ không thể làm gì được
cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất ấy của đời sống xã hội
của họ.” Chính vì thế, Người cho rằng “phải phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh
Quốc tế Cộng sản” [35, tr.467].
Tuy nhiên, theo Nguyễn ái Quốc, có tinh thần đoàn kết và phát động chủ nghĩa dân
tộc chưa đủ, sức mạnh của cả dân tộc chỉ có thể biến thành sức mạnh vật chất to lớn đủ
sức chiến thắng kẻ thù hung bạo khi toàn dân được tập hợp trong một tổ chức mà nó là
"cơ sở cho sự đoàn kết, phấn đấu của dân tộc ta trong lúc này" [20, tr.418]. Do vậy,
Nguyễn ái Quốc cho rằng phải tiến hành tập hợp, tổ chức, giáo dục và giác ngộ quần
chúng. Trong tác phẩm “Bản án chế dộ thực dân Pháp”, Người nhận định “ở Đông Dương
chúng ta có đủ tất cả những cái gì mà một dân tộc có thể mong muốn như: Hải cảng, hầm
mỏ, đồng ruộng mênh mông, rừng rú bao la…Nhưng chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người
tổ chức!” [36, tr.132].

Do vậy, từ năm 1923, Nguyễn ái Quốc đã viết: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: Trở về
nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự
do độc lập” [34, tr.192].
Những vấn đề trên đây cho thấy, từ thực tiễn của các dân tộc bị áp bức, Nguyễn ái
Quốc rất quan tâm đến tổ chức lực lượng cách mạng ở các nước thuộc địa thông qua việc phát
động "động lực vĩ đại" và "duy nhất" là chủ nghĩa dân tộc bằng tổ chức phong trào dân tộc thành
một Mặt trận dân tộc thống nhất. Về vấn đề này đã được Người làm rõ trong tác phẩm “Đường
kách mệnh”. Xác định tính chất của cách mệnh “Việt nam đuổi Pháp ...ấy là dân tộc cách mệnh”
và nêu rõ quan điểm cơ bản về cách mạng là sự nghiệp của quần chúng: “Muốn sống thì phải


cách mạng, cách mạng là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người” [37,
tr.261-262], Người chỉ rõ rằng: “Công nông là gốc của cách mạng còn học trò, nhà buôn nhỏ,
điền chủ nhỏ là bầu bạn cách mạng của công nông” [37, tr.266].
Đây không chỉ là quan điểm của Nguyễn ái Quốc về lực lượng và sự sắp xếp về vị trí
của lực lượng cách mạng mà còn là những quan điểm đầu tiên của Người về xây dựng MTDTTN
bao gồm nhiều giai tầng xã hội với công nông làm nòng cốt.
Trong nội dung phương pháp cách mạng, Nguyễn ái Quốc nhấn mạnh đến "đồng tâm",
"hiệp lực", "đoàn kết", "thống nhất" là một trong những yếu tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng.
Người khẳng định: “Sự đồng tâm của đồng bào là đúc thành bức tường đồng xung quanh Tổ
quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng phải thất
bại” [41, tr.151].
Từ nhận thức nói trên, Người đã giáo dục cho đồng chí của mình nhận thức đúng về
phương pháp cách mạng mà nội dung chính là phương pháp tổ chức, tập hợp giáo dục, giác ngộ
đông đảo quần chúng vùng lên đánh đổ giai cấp bóc lột mình chứ không phải “Chỉ nhờ 5, 7
người giết 2, 3 anh vua, 9, 10 quan là được” [37, tr.276].
Đi đôi với quá trình tìm tòi, nghiên cứu xây dựng lý luận về MTDTTN, Nguyễn ái Quốc
còn sáng lập ra các tổ chức với nhiều hình thức tập hợp lực lượng như: Hội những người Việt
Nam yêu nước trên đất Pháp, Hội liên hiệp thuộc địa, Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á
Đông. Ở Việt Nam, Người sáng lập ra tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Thông qua

những tổ chức nói trên, đường lối cứu nước với tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được truyền bá
vào giai cấp công nhân và các tầng lớp khác trong xã hội. Đó là nền tảng tư tưởng cho sự ra đời
MTDTTN.
Sau khi Hội Việt Nam cách mạng thanh niên kết thúc vai trò lịch sử của mình, đường lối
giải phóng dân tộc với tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục được truyền
bá, ngày càng ăn sâu, lan rộng trong các tầng lớp nhân dân do sự ra đời của ba tổ chức cộng
sản. Cả ba tổ chức này đều tranh thủ xây dựng cơ sở quần chúng rộng khắp trong cả nước làm
cho phong trào công nhân lớn mạnh và tạo điều kiện để sau này quy tụ, thống nhất các lực
lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN.
Thực tiễn phong phú, sinh động là cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết toàn dân và MTDTTN. Trong quá trình nghiên cứu, khảo sát tình hình các nước tư bản chủ
nghĩa và các nước thuộc địa ở khắp các châu lục, Người đã nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến
thắng lợi cũng như tại sao những cuộc cách mạng tư sản vẫn là những cuộc cách mạng “không
đến nơi”. Tổng kết thực tiễn đấu tranh của các dân tộc thuộc địa, Người thấy rõ sức mạnh tiềm
ẩn to lớn của họ và thấy được hạn chế của các dân tộc thuộc địa là do chưa có sự lãnh đạo
đúng đắn, chưa biết đoàn kết, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức.


Người đã nghiên cứu để tìm hiểu thấu đáo con đường cách mạng tháng Mười Nga và
những bài học kinh nghiệm quý báu của cuộc cách mạng vô sản này mang lại cho phong trào
cách mạng thế giới mà nổi bật là bài học về tập hợp lực lượng quần chúng công, nông đông đảo
để giành và giữ vững chính quyền cách mạng, đánh tan sự can thiệp của 14 nước đế quốc và
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đối với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến tình hình của Trung Quốc và ấn Độ, hai nước có thể đem lại cho Việt Nam nhiều
bài học rất bổ ích về phương pháp tập hợp lực lượng để tiến hành cách mạng. Người rất chú ý
tới chính sách “Hợp tác Quốc – Cộng” và khẩu hiệu “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ công nông”
của Tôn Trung Sơn.
Thực tiễn thành công, cũng như chưa thành công của cách mạng thế giới, cách mạng
Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là cơ sở thực tiễn để hình thành tư

tưởng của Nguyễn ái Quốc về đại đoàn kết dân tộc và xây dựng MTDTTN. Những hoạt động
của Nguyễn ái Quốc không chỉ chuẩn bị điều kiện để tiến tới thành lập ĐCSVN mà còn tạo cơ
sở cho sự hình thành và phát triển của MTDTTN Việt Nam. Do vậy, từ Hội phản đế đồng minh
(1930), hình thức tổ chức đầu tiên của MTDTTN, đến MTVM (5-1941) và đến Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đã luôn gắn bó với tên tuổi Hồ Chí Minh - người sáng lập và lãnh đạo MTDTTN Việt
Nam. Vai trò lịch sử của Người không chỉ được những người cách mạng ca ngợi, mà cả những
người ở trận tuyến đối lập cũng phải kính nể, thừa nhận. Một người chống cộng ở úc, Denis
Warner đã viết rằng, Hồ Chí Minh “luôn luôn có mặt khi mọi người cần tới mình”, là người có tài
dẫn dắt lôi cuốn dân tộc vào một Mặt trận đại đoàn kết. Ông ta viết: “Vừa mới tập hợp những
người cộng sản lại với nhau năm 1930, khi cuộc chiến tranh Thái Bình Dương mới nổ ra, cụ Hồ
lại đã sẵn sàng bắt tay vào việc tập hợp những người theo chủ nghĩa dân tộc và những người
cộng sản vào một Mặt trận thống nhất mới rộng rãi hơn...Vào mùa xuân năm 1941, những người
Đông Dương dưới sự dẫn dắt rất lôi cuốn của cụ Hồ đã thống nhất một Mặt trận chung và tổ
chức “Việt Minh” được thành lập”. [57, tr.149].
Kết quả thống kê, phân tích những bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh được công bố trong
Hồ Chí Minh Toàn tập (12 tập) cho thấy: các bài đề cập đến vấn đề đại đoàn kết dân tộc và
MTDTTN chiếm tỷ lệ trên 40%. Trong một số bài, Người đã nhiều lần nói đến vấn đề đoàn kết,
đại đoàn kết dân tộc: 16 lần trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (Tập 5), 17 lần trong Bài nói tại
buổi khai mạc Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt ( Tập 6), 19 lần trong Diễn văn kỷ niệm
Quốc khánh năm 1957 (Tập 8). Kết quả tra cứu cũng cho thấy: trong bộ Hồ Chí Minh Toàn tập có
40 tài liệu đề cập tới cụm từ "Mặt trận dân tộc thống nhất". Lần đầu tiên Người dùng cụm từ này
là trong bài "Nước Việt Nam đấu tranh cho nền độc lập", (22-3-1950) và lần cuối cùng ở bài
"Cách mạng tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc", 1-11-1967 (Tập 12
tr.300).


Từ lý luận và thực tiễn trên cho thấy, Hồ Chí Minh nhà lý luận, người sáng lập và là linh
hồn của khối đại đoàn kết dân tộc và MTDTTN Việt Nam.
1.1.2. Thực tiễn cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời đã mở ra con đường đấu tranh giải phóng dân

tộc, giải phóng giai cấp cho các quốc gia, dân tộc trên thế giới nhằm lật đổ chế độ áp bức, bóc
lột. Dưới ánh sáng của Tuyên ngôn, giai cấp vô sản ở nhiều nước đã đứng lên đoàn kết tập hợp
lực lượng để đánh đổ kẻ thù giai cấp, kẻ thù dân tộc.
Năm 1871, giai cấp vô sản Pháp đã tiến hành cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên
thế giới thành lập nên Công xã Pari. Công xã Pari chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn
nhưng nó đã để lại cho giai cấp vô sản thế giới những kinh nghiệm quý về xây dựng lực
lượng cách mạng, về sự nhất thiết phải xây dựng khối liên minh công nông trong cách
mạng vô sản.
Ngày 7-11-1917, cuộc cách mạng Tháng Mười Nga, do Lê nin và Đảng Bônsơvích lãnh
đạo, đã lật đổ chế độ Nga hoàng, xây dựng Nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Cách mạng
tháng Mười Nga thành công do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là Đảng
Bônsơvích Nga đã tập hợp và dựa vào khối liên minh công, nông, binh. Đánh giá về thành công
này trong xây dựng lực lượng cách mạng, Lê nin đã khẳng định, trong chiến tranh, ai có nhiều
lực lượng hùng hậu hơn, ai có nhiều lực lượng hơn, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân
hơn thì người đó thu được thắng lợi.
Từ thực tiễn thành công của cách mạng tháng Mười Nga, tháng 12-1921, tại Mátxcơva,
Quốc tế Cộng sản triệu tập Đại hội các dân tộc Viễn Đông. Đại hội thông qua Nghị quyết và chỉ rõ
con đường thực sự dẫn tới tự do và độc lập của các dân tộc bị áp bức ở Viễn Đông là phải trải
qua sự liên minh của quần chúng lao động vùng lên đấu tranh. Đầu năm 1923, Quốc tế Cộng sản
bắt tay chỉ đạo xây dựng MTDTTN ở Trung Hoa cách mạng bằng việc thúc đẩy hợp tác giữa
Đảng Cộng sản và Quốc dân Đảng cùng mục tiêu chống đế quốc.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, biến nước ta từ chế độ phong kiến lạc
hậu thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Từ đó nhân dân ta đã tiến hành cuộc chiến đấu anh
dũng ở khắp nơi chống lại bọn thực dân đô hộ và tay sai của chúng. Tinh thần yêu nước, ý
chí chiến đấu kiên cường của dân tộc Việt Nam không bao giờ tắt.
Đầu thế kỷ XX, trước những khó khăn, thất bại của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
một số sĩ phu yêu nước đã hướng ra nước ngoài tìm con đường cứu nước mới theo hệ tư tưởng
dân chủ tư sản. Phong trào Đông Du của Phan Bội Châu (1904-1909), phong trào Duy Tân của
Phan Chu Trinh (1906-1909) là những điển hình. Các cuộc cách mạng thế giới, đặc biệt là cách
mạng Tân Hợi (Trung Quốc), đã tác động vào nước ta, làm cho phong trào yêu nước sau một

thời gian chìm lắng lại trở nên sôi động và có bước phát triển mới về mọi mặt. Ngoài các đòi hỏi


về giải phóng dân tộc, các phong trào còn nêu ra mục tiêu đòi dân sinh, dân chủ, bài trừ hủ tục
mê tín, mở mang công thương nghiệp nhằm phát triển đất nước.
Các cuộc đấu tranh dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước lần lượt thất bại vì hầu
hết phong trào đều hướng ra bên ngoài cầu viện, dựa vào sức mạnh của ngoại bang, chưa thấy
được sức mạnh nội lực của chính dân tộc Việt Nam. Một số người lãnh đạo phong trào đã kêu
gọi, hô hào “ đồng tâm”, “hiệp lực”, “đồng bào”, “đồng chí”, nhưng chưa coi trọng và chưa biết
đoàn kết tập hợp các giai tầng cơ bản trong xã hội, nhất là giai cấp công nhân và nông dân là hai
lực lượng đông đảo nhất của xã hội nước ta.
Cũng do lập trường và thế giới quan hạn chế nên ngay cả các phong trào do các bậc chí
sĩ danh tiếng cầm đầu cũng chưa phân biệt rõ được bạn, thù. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét:
Cụ Phan Chu Trinh yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương chẳng khác gì đến “xin giặc rủ lòng
thương”. Chủ trương của cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật đánh Pháp khác nào “ Đưa hổ cửa trước,
rước beo cửa sau” [53, tr.12].
Cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (từ 1885-1913),
tuy chủ trương có thực tế hơn, nhưng không có lối thoát đúng đắn, rõ ràng.
Các lãnh tụ của các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trước năm 1930, tuy cũng
cố gắng phát động tinh thần dân tộc nhưng đều không có khả năng quy tụ các lực lượng trong
dân tộc vì trên thực tế giai cấp phong kiến Việt Nam đã đầu hàng thực dân Pháp, đối lập với
nhân dân ta. Ngọn cờ cứu nước theo lập trường tư sản, tuy mới với Việt Nam, nhưng không
được nhân dân ta chấp nhận. Cuộc đấu tranh giành độc lập tự do của dân tộc Việt Nam bị khủng
hoảng, bế tắc về đường lối và giai cấp lãnh đạo nên không đoàn kết, thống nhất được các lược
lượng.
Thực tiễn hào hùng, bi tráng của các phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam chống
thực dân Pháp xâm lược, từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, đã chứng tỏ rằng, trước những biến
đổi của lịch sử, vận mệnh của đất nước đòi hỏi phải có một lực lượng mới lãnh đạo cách mạng, đề
ra được đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với quy luật lịch sử và thực tiễn cách mạng Việt
Nam, mới đủ khả năng tập hợp dẫn dắt toàn dân tộc đi đến thắng lợi.

Nghiên cứu các cuộc Cách mạng vô sản trên thế giới ở những năm cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX cho thấy: ở đâu, lúc nào khi giai cấp vô sản tổ chức và xây dựng được lực lượng quần
chúng hùng hậu, dựa vào nòng cốt của liên minh công nông vững chắc, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản thì cách mạng sẽ thành công và ngược lại.
Từ lý luận chủ nghĩa Mác Lê nin, từ truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam, từ bài học thành công cũng như chưa thành công của cách mạng thế giới về xây dựng lực
lượng và tổ chức MTDTTN, đặc biệt là quá trình khảo nghiệm thực tiễn gần 20 năm của Nguyễn ái
Quốc, là cơ sở để Đảng ta hình thành quan điểm về xây dựng lực lượng cách mạng và tổ chức


MTDTTN. Thông qua Mặt trận, Đảng đã quy tụ và tập hợp được lực lượng cách mạng rộng lớn,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện mục tiêu đánh đổ đế quốc và tay sai giành
chính quyền về tay nhân dân lao động.
1.2. Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất trong đấu tranh giành
chính quyền (1930-1945)
1.2.1. Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất thời kỳ 1930 - 1940
* Bước đầu hình thành Mặt trận dân tộc thống nhất (1930 – 1935).
Ngay từ khi thành lập, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị đúng đắn, giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và CNXH, phù hợp với xu thế của thời đại, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, mở ra
khả năng rộng lớn để tập hợp và thống nhất các lực lượng yêu nước của toàn dân tộc nhằm thực
hiện mục tiêu độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày. Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
được thông qua Hội nghị thành lập Đảng, do đồng chí Nguyễn ái Quốc chủ trì, xác định mục tiêu,
con đường của cách mạng Việt Nam: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản.” [ 17, tr.2].
Để thực hiện mục tiêu đó, về phương diện chính trị, cách mạng Việt Nam phải thực hiện
hai nhiệm vụ đánh đế quốc và phong kiến, hai nhiệm vụ đó có quan hệ khăng khít với nhau:
a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
b) Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.
c) Dựng ra chính phủ công nông binh.
d) Tổ chức ra quân đội công nông.

Về phương diện xã hội, Đảng chủ trương thực hiện dân chủ hoá về xã hội, với mục tiêu :
“Dân chúng được tự do tổ chức nam nữ bình quyền và phổ thông hoá giáo dục theo công nông".
Những mục tiêu về phương diện kinh tế cũng nhằm đảm bảo thực hiện thủ tiêu bóc lột của
đế quốc và phong kiến phản động, chia ruộng đất cho dân cày [17, tr.2,3,4].
Những mục tiêu về dân tộc, dân chủ trên đây là tiêu chí chung, tiêu chí đoàn kết toàn dân,
là cơ sở cho xây dựng MTDTTN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong Chính cương vắn tắt, sách
lược vắn tắt, Đảng ta chỉ rõ: cuộc cách mạng ở nước ta phải lấy công nông làm động lực chính, do
giai cấp công nhân lãnh đạo và cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Trong
xây dựng lực lượng cách mạng, ngoài công nông, Đảng cần tranh thủ các giai cấp và tầng lớp có
tinh thần yêu nước để hướng vào mục tiêu chung là đánh đế quốc và phong kiến giành độc lập dân
tộc. Đồng thời, Cương lĩnh còn chỉ rõ phải biết lợi dụng, phân hoá, cô lập kẻ thù.
Tuy là Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt nhưng nội dung đã vạch ra những vấn
đề chiến lược, sách lược có tính nguyên tắc về tập hợp lực lượng cách mạng và xây dựng


MTDTTN ở Việt Nam. Nội dung cơ bản trong những văn kiện chính trị đầu tiên của Đảng xác
định: "thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được
dân chúng", "phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày" và "làm cho các đoàn thể thợ thuyền,
dân cày (công hội và hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của tư bản quốc gia" [17,
tr.4].
Trên cơ sở đó, "Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh
niên, Tân Việt ... để kéo họ vào phe vô sản giai cấp, còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ
và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lập " [17, tr.4].
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã chủ trương đoàn kết các giai tầng, các tổ
chức chính trị, kể cả các cá nhân nhằm phát huy truyền thống dân tộc, huy động yếu tố dân tộc,
tập trung chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến để giành độc lập dân tộc.
Chủ trương đúng đắn của Đảng đã đặt cơ sở cho việc tập hợp và thống nhất lực lượng toàn dân,
xây dựng MTDTTN sau này.
Nhận thức được vai trò của MTDTTN đối với cách mạng Việt Nam, tháng 10 năm 1930,

HNTƯ Đảng đã ra "án nghị quyết về vấn đề phản đế". án nghị quyết chỉ rõ: “Ở Đông Dương có
nhiều lực lượng phản đế mà hiện nay cần phải liên hợp lại làm một phong trào cách mạng thống
nhất để đánh đuổi đế quốc chủ nghĩa mưu sự giải phóng cho xứ Đông Duơng” [17, tr.195]. Về
tính chất, nhiệm vụ của Mặt trận phản đế, án nghị quyết nêu rõ: “Phải làm cho hội ấy có tính chất
quần chúng. Phải triệu tập các Hội công nông, Hội học sinh, binh lính, thanh niên, phụ nữ và các
đảng phái cách mạng khác (như Quốc dân Đảng, v.v.) lại mà tổ chức ra cho thành một hội phản
đế ở Đông Dương. Nhiệm vụ phải làm cho hội phản đế hết sức tham gia vào các cuộc đấu tranh
hàng ngày của công nông" [17, tr.195] .
Nghị quyết về vấn đề phản đế là phác họa đầu tiên về xây dựng MTDTTN nên không
tránh khỏi những hạn chế thiếu sót như chưa phát huy đầy đủ yếu tố dân tộc, chưa đặt vấn đề
tranh thủ và phân hoá tầng lớp trên đi theo cách mạng. Lực lượng của MTDTTN mới chỉ bó hẹp
trong các Hội công nông, học sinh, binh lính, thanh niên, phụ nữ… chưa mở rộng đến những
người thuộc giai cấp hữu sản nhưng có tinh thần yêu nước, chống xâm lược. Do đó, khi phân
tích giai cấp và đánh giá thái độ của các giai cấp đối với cách mạng, Luận cương (10-1930) cũng
như án nghị quyết về vấn đề phản đế đã không đánh giá chính xác tinh thần dân tộc và khả năng
đi với cách mạng giải phóng dân tộc của tư sản công nghệ (tức tư sản dân tộc), đánh giá thấp vai
trò của các tầng lớp thủ công nghiệp, thương gia, trí thức, tiểu tư sản. Điều đó có nghĩa là, án
nghị quyết về vấn đề phản đế chỉ nhìn vấn đề giai cấp từ giác độ lý luận chung mà thiếu một
cách nhìn cụ thể trong tình hình cụ thể từ quan hệ dân tộc. Những văn kiện này còn thiếu một sự
phân tích cụ thể trong tình hình cụ thể đối với Việt Nam, một dân tộc thuộc địa, do đó đã phủ
nhận một thực tế là tầng lớp trí thức tiểu tư sản Việt Nam có bộ phận tiến bộ, yêu nước, sớm


giác ngộ và chính họ đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam.
Mặc dù Luận cương chính trị nhận rõ vai trò to lớn của liên minh công nông, nhưng nếu
chỉ thấy vai trò quyết định của công nông mà chưa thấy đầy đủ mặt yêu nước của tư sản dân tộc
và của một bộ phận trung, tiểu, địa chủ thì cũng không phát huy được sức mạnh đại đoàn kết
của toàn dân tộc nhằm đánh đổ kẻ thù chính là chủ nghĩa đế quốc. Luận cương cũng chưa đề
cập cụ thể đến vấn đề xây dựng MTDTTN ở nước ta.

Sau hơn một tháng khi “án nghị quyết về vấn đề phản đế” ra đời, ngày 18-11-1930, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh, hình thức đầu tiên của
MTDTTN ở Việt Nam. Do khắc phục được những thiếu sót và hạn chế trong án nghị quyết và
quán triệt tư tưởng đoàn kết dân tộc trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, qua bản Chỉ thị, Đảng
ta đã đề ra một cách toàn diện những nội dung cơ bản về tính chất, nhiệm vụ và những biện
pháp cụ thể xây dựng MTDTTN. Từ việc phân tích hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, đặc
biệt là mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, Chỉ thị đã giúp cán bộ, đảng viên nhận thức rõ vai
trò, vị trí và sự cấp thiết xây dựng Hội phản đế đồng minh, MTDTTN đầu tiên ở nước ta.
Đặt vấn đề trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương, giai cấp công nhân
phải liên minh với giai cấp nông dân là lực lượng tất yếu của cách mạng thì mới thành công và
rằng “đó là hai động lực chính căn bản cho sự bố trí hàng ngũ cách mạng ”, bản Chỉ thị khẳng
định: “giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ
chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó
thành công (rộng là toàn dân cùng đứng trong một Mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay
sai phản động hèn hạ; kín là đặt để công nông trong bức thành dân tộc phản đế bao la.” [17,
tr.227]. Đây là một bước tiến mới trong nhận thức của Đảng khi đánh giá vai trò của MTDTTN
trong cách mạng nước ta.
Phân tích thực tiễn, bản Chỉ thị nêu rõ hai nguyên nhân làm cho công tác xây dựng
MTDTTN còn chưa thực hiện được. Đó là:
Một là, trong Đảng “Hiểu chậm chạp và hiểu chưa thật triệt để Luận cương cách mạng tư
sản dân quyền” nên “Tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công - nông và một màu sắc nhất định như Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Thanh niên đỏ, Sinh hội đỏ và Cứu tế đỏ; do đó thiếu một tổ chức
thật quảng đại quần chúng, hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ ở tầng lớp
trên hay ở tầng lớp giữa cũng vậy, và cho tới cả những người địa chủ, có đầu óc oán ghét đế
quốc Pháp, để cần kíp động viên toàn dân nhất tề hành động mặt này hay mặt khác, mà
chống khủng bố trắng và ủng hộ công nông” [17, tr.228].
Hai là, trong Đảng “chưa quan niệm đúng cái tổ chức Phản đế đồng minh là một nhiệm
vụ giai cấp tranh đấu trong chủ nghĩa Mác ở thời đại đế quốc, và là Lê ninnít nỗ lực nhất. Do đó,


chúng ta đã tách rời dân tộc và cách mạng làm hai đường mà chưa nhận định đúng là dân tộc

cách mạng vẫn là một nhiệm vụ trong giai cấp cách mạng. Sự chuyển biến lối này hay lối khác
đó là hoàn cảnh từng nơi, từng lúc, chứ không phải là hai đường sai trái nhau” [17, tr.228].
Những vấn đề trên đây cho thấy, sau Luận cương tháng 10-1930, đến lúc này Đảng ta
đã phân tích một cách cụ thể, đầy đủ và sát đúng hơn về sự phân hoá giai cấp và thái độ chính
trị của các giai tầng trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến (như phân tích cụ thể thái độ của từng
bộ phận địa chủ, tư sản và tiểu tư sản) để từ đó nhìn nhận đúng đắn hơn mối quan hệ dân tộc giai cấp trong cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta. Từ những nhận thức đúng này, Đảng ta
đã chỉ rõ sự cần thiết phải tổ chức xây dựng MTDTTN trong cách mạng tư sản dân quyền ở
nước ta. Chỉ thị là văn kiện chính trị đầu tiên của Đảng về xây dựng MTDTTN, nội dung của nó
đã quán triệt đúng với tinh thần của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn
ái Quốc soạn thảo tháng 2 năm 1930. Chỉ thị tháng 11-1930 là văn kiện đầu tiên của Đảng
chuyên về xây dựng MTDTTN, nó đánh dấu bước trưởng thành về lý luận xây dựng MTDTTN ở
Việt Nam của Đảng ta.
Từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, đến Chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh, hình
thức tổ chức đầu tiên của MTDTTN Việt Nam, những chủ trương chính sách về Mặt trận cùng
với các nghị quyết khác của Đảng được triển khai, đã thúc đẩy phong trào cách mạng mạnh mẽ
chưa từng thấy là cao trào cách mạng 1930 - 1931, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Cao trào
mở đầu bằng cuộc đấu tranh của 5000 công nhân đồn điền Phú Riềng (3-2-1930), 4000 công
nhân nhà máy sợi Nam Định (25-03-1930) và của 400 công nhân nhà máy diêm Bến Thuỷ (2904-1930). Từ tháng 2 đến tháng 4-1930 có 1236 cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân ở
khắp 3 miền Bắc, Trung, Nam.
Tháng 09-1930, từ những cuộc đấu tranh ban đầu đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ, quần
chúng tiến lên đấu tranh chính trị, nhiều cuộc biểu tình có lực lượng tự vệ vũ trang bảo vệ. Cao
trào cách mạng công nông nổ ra sôi nổi và quyết liệt nhất ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Quần chúng đã
giành được chính quyền ở một số nơi và lập ra chính quyền cách mạng của công nhân, nông
dân (gọi là chính quyền Xô viết).
Từ khi Đảng ta ra đời, đây là thắng lợi đầu tiên về xây dựng lực lượng cách mạng. Tuy
nhiên, trên thực tế, cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) mới chỉ tập hợp được lực lượng cơ
bản là công, nông, thiếu sự tham gia của các giai tầng khác, hình thức đấu tranh còn đơn điệu,
chưa phong phú. Thực tế đó giúp cho Đảng ta đánh giá đúng năng lực của các giai tầng trong xã
hội để có chủ trương vận động tập hợp quần chúng trong MTDTTN.
Song, do điều kiện thực tiễn, diễn biến tình hình phức tạp có nhiều bất lợi cho Đảng và

cách mạng nước ta. Kẻ thù ra sức đàn áp phong trào cách mạng, nhiều chi bộ Đảng bị tan vỡ, có
xã trở thành xã trắng. Chủ trương của Đảng về thành lập Hội phản đế đồng minh chưa được phổ
biến sâu rộng, chưa có điều kiện triển khai thực hiện trong cả nước. Tuy nhiên, sự xuất hiện của


tổ chức thống nhất dân tộc đầu tiên ở nước ta là Hội phản đế đồng minh có ý nghĩa rất quan
trọng, nó chuẩn bị tiền đề lý luận và thực tiễn để Đảng ta tiếp tục xây dựng MTDTTN trong những
giai đoạn sau.
Trước sự phát triển của phong trào cách mạng của quần chúng mà đỉnh cao là phong trào
Xô viết Nghệ Tĩnh, đế quốc Pháp và tay sai thẳng tay khủng bố, đàn áp hòng dập tắt phong trào
cách mạng Việt Nam, tiến tới tiêu diệt Đảng Cộng sản. Sự đàn áp, cùng với thủ đoạn lừa bịp của
thực dân Pháp không làm cho những chiến sĩ cách mạng và quần chúng yêu nước từ bỏ con
đường cách mạng, một số cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân vẫn liên tiếp nổ ra.
Tháng 6-1932, Ban lãnh đạo Trung ương đã thảo ra Chương trình hành động của Đảng
Cộng sản Đông Dương. Chương trình đã chỉ ra khả năng tổ hức một Mặt trận thống nhất của các
lực lượng phản đế cùng hành động chung với các tổ chức dân tộc chủ nghĩa, dù chỉ là những
bạn đồng minh tạm thời của công nông. Đảng ta chủ trương phải lôi kéo vào liên minh phản đế
tất cả các phần tử và tổ chức ít nhiều có tính chất chống đế quốc. Để có căn cứ vạch ra một
chương trình tối thiểu làm cơ sở thực hiện liên minh, bản Chương trình nêu ra những yêu cầu cụ
thể về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội cho mỗi giai cấp, tầng lớp và tổ chức, đoàn thể nhằm
đấu tranh cho những yêu sách thiết thân hàng ngày, rồi dìu dắt quần chúng tiến lên đấu tranh
cho những yêu cầu cao hơn, chuẩn bị chu đáo cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền.
Thực hiện Chương trình hành động của Đảng, các tổ chức cơ sở Đảng đã phát triển các
hội cày, hội cấy, hội gặt, hội bóng đá, hội đọc sách... để tập hợp quần chúng, giáo dục hướng
dẫn quần chúng đấu tranh. Nhờ vậy, phong trào ngày càng thu hút được nhiều quần chúng tham
gia và đã lan đến nhiều nơi, ở miền núi Việt Nam, cũng như ở Lào và Cam pu chia.
Trong hoàn cảnh cách mạng đang ở lúc thoái trào, những chủ trương tập hợp quần
chúng của Đảng lúc này là đúng và cần thiết. Song, vì chưa quán triệt đầy đủ tư tưởng đại đoàn
kết dân tộc, Chương trình hành động chưa đưa ra được chính sách cụ thể cho MTDTTN.
Thực tiễn của những năm thoái trào cách mạng giúp cho Đảng ta hiểu sâu sắc hơn về

tầm quan trọng của mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng. Đại hội lần thứ nhất của Đảng (31935) đã rút ra những nhận xét xác đáng về nguồn gốc sức mạnh của Đảng dựa trên uy tín và
ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng: “Nếu Đảng không mật thiết liên tục với quần chúng,
không được họ tán thành và ủng hộ những khẩu hiệu của Đảng, thì những nghị quyết cách mạng
của Đảng chỉ là lời nói không” [58, tr.204].
Vì vậy, Nghị quyết của Đại hội lần thứ nhất của Đảng xác định nhiệm vụ tranh thủ rộng
rãi quần chúng là quan trọng, cấp bách và đã quyết định thành lập và thông qua điều lệ của tổ
chức Phản đế liên minh, tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh nhận thức về xây dựng MTDTTN ở nước
ta.


Nghị quyết này đã có bước tiến rõ rệt trong việc đánh giá khả năng phản đế của các giai
cấp và tầng lớp trong xã hội. Lực lượng nhân dân bản xứ được chia làm hai phe “chống chọi”
nhau. Động lực chính ở Đông Dương là thợ thuyền, nông dân lao động. Giai cấp bóc lột bản xứ
như địa chủ, lý hào, tư sản thành thị và thôn quê, đại trí thức cũng có một số ít phần tử có tinh
thần phản đế. Từ đó, chính sách Mặt trận đã có sự linh hoạt và mềm dẻo hơn. Đảng Cộng sản
không chỉ liên hệ với các đoàn thể cách mạng mà còn phải liên hệ đồng minh với những đảng
phái quốc gia, những phần tử cách mạng lẻ tẻ “để tăng gia lực lượng phản đế”. Với các tổ chức,
đảng phái quốc gia, cải lương, kể các các tổ chức, tầng lớp và tay chân đế quốc, Đảng cũng có
sách lược phân hoá, tranh thủ rất đúng đắn. Với Quốc dân Đảng, tuy đã phân hóa và tan rã,
nhưng cũng còn những người có ảnh hưởng trong quần chúng nên cần tranh thủ. Các đảng như
Thanh Niên, Tân Việt, Vừng Hồng, Cao Vọng, An Nam độc lập Đảng... tuy đang tan rã nhưng
vẫn còn một số đảng viên giữ vững tinh thần phản đế, cần hết sức tranh thủ họ. Đồng thời, Đảng
cũng chủ trương vạch mặt, cô lập bọn đầu sỏ, ngoan cố để giác ngộ và lôi kéo quần chúng đi về
phía cách mạng.
Với những chủ trương về chiến lược và sách lược của Phản đế liên minh đã chứng tỏ
bước tiến mới của Đảng ta trong quá trình hoàn chỉnh về nhận thức và chỉ đạo thực tiễn xây
dựng MTDTTN.
Từ Hội phản đế đồng minh (1930), hình thức đầu tiên của MTDTTN, Đến Hội phản đế
liên minh (1935), MTDTTN Việt Nam từng bước được hình thành. Những chủ trương của Đảng
trong thời kỳ này đã góp phần quan trọng vào việc định hướng và tập hợp lực lượng quần chúng

cách mạng đấu tranh đòi độc lập dân tộc. Tuy nhiên, trong thời gian này, cả hai hình thức là Mặt
trận tổ chức và Mặt trận phong trào đều chưa được triển khai sâu rộng, song đây là thời kỳ hoạt
động thực tiễn rất phong phú giúp Đảng từng bước hoàn chỉnh và phát triển cả về lý luận và thực
tiễn trong xây dựng Mặt trận. Chủ trương của Đảng về thành lập MTDTTN chưa được thực hiện
nhiều trong thực tiễn, do nhiều nguyên nhân, trong đó do sự đàn áp, khủng bố ác liệt của kẻ thù
đối với cách mạng Việt Nam, nhưng Đảng ta đã có thêm những kinh nghiệm để xây dựng
MTTNDT.
* Bước phát triển mới của Mặt trận dân tộc thống nhất (1936-1940).
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) đã làm cho mâu thuẫn ở các nước đế
quốc thêm sâu sắc. Các nước Đức, Ý, Nhật thiết lập chế độ phát xít, chuẩn bị chiến tranh chia lại
thị trường thế giới. Sự ra đời của chủ nghĩa phát xít đã đặt loài người trước nguy cơ cực kỳ
nghiêm trọng. Trước tình hình đó, phong trào đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh nổ ra ở
nhiều nước trên thế giới.
Tháng 7-1935, Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản họp ở Mátxcơva. Đoàn đại biểu
Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí Lê Hồng Phong làm trưởng đoàn đã tham dự Đại hội.
Đại hội đã xác định kẻ thù trước mắt của nhân dân thế giới lúc này không phải là chủ nghĩa đế


quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít và chỉ ra nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân
chưa phải là đấu tranh đánh đổ toàn bộ chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là đấu tranh chống chủ
nghĩa phát xít, chống chiến tranh, giành dân chủ và hoà bình, bảo vệ Liên Xô. Để hoàn thành
nhiệm vụ ấy cần thành lập Mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân và thiết lập Mặt trận nhân
dân rộng rãi chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, hoà bình và cải thiện đời sống.
Riêng đối với các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, Đại hội chỉ rõ vấn đề Mặt trận thống nhất
chống đế quốc có tầm quan trọng hết sức đặc biệt.
Thực hiện sự chuyển hướng chiến lược cách mạng của Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng
sản ở các nước ra sức vận động thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát-xít. Ở Pháp,
Mặt trận nhân dân chống chống phát xít được thành lập do Đảng Cộng sản làm nòng cốt. Nghị
quyết Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản và sự ra đời của Mặt trận nhân dân Pháp có ảnh hưởng
sâu rộng tới phong trào cách mạng ở Đông Dương. Phong trào đấu tranh chống phát xít, chống

chiến tranh thế giới diễn ra sôi nổi, đặc biệt là hoạt động của Mặt trận dân chủ chống phát xít ở
nước Pháp có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào cách mạng nước ta.
Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) và cuộc khủng bố trắng kéo
dài sau cao trào (1930-1931) đã làm cho tình hình xã hội nước ta trở nên ngột ngạt. Đời sống
của các giai cấp, tầng lớp nhân dân kể cả tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ rất khó khăn.
Nguyện vọng bức thiết lúc này của nhân dân ta là đòi quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo
và hoà bình. Trải qua thời kỳ đấu tranh khôi phục, phát triển phong trào trong những năm 19321935, Đảng ta đã rút ra bài học về sự cần thiết phải xây dựng lực lượng cách mạng rộng rãi hơn
nữa, phải tập hợp cho được tất cả các tổ chức, lực lượng, đảng phái yêu nước vào trong một
Mặt trận để chống kẻ thù nguy hiểm trước mắt là bọn phản động thuộc địa và tay sai, chống phát
xít, chống chiến tranh, đòi dân sinh, dân chủ, hoà bình.
Tháng 7-1936, tại Thượng Hải, Trung Quốc, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng
đã họp để triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, Trung ương Đảng ta
đã quyết định thành lập MTTNNDPĐĐD, bao gồm các giai cấp, các đảng phái, dân tộc,
đoàn thể chính trị xã hội và tôn giáo khác nhau. “Nhiệm vụ của Đảng Cộng sản ở đó không
những phải thâu phục quảng đại quần chúng nông dân và tiểu tư sản ở thành thị. Đồng
thời trong lúc lập Mặt trận rộng rãi, chúng ta phải thâu phục hết các tầng lớp nhân dân” [58,
tr.262].
Nội dung chính sách mới của Đảng nêu rõ: chiến lược của Đảng không thay đổi còn
chính sách là thứ “mưu kế” để hành động cần phải sửa đổi luôn. Lập MTNDPĐ phải xuất phát từ
chính sách của Đảng, nhận rõ kẻ địch nguy hiểm nhất để tập trung ngọn lửa vào đó. Việc lập
MTNDPĐ rộng rãi là để cùng nhau đấu tranh đòi quyền dân chủ đơn sơ. Chính sách mới của
Đảng chú ý về đường dân tộc giải phóng, nhưng không bao giờ bỏ giai cấp tranh đấu và trong
lúc lập Mặt trận với tư bản bản xứ và địa chủ thì không có nghĩa là không tranh đấu chống tư bản


bản xứ và không để cho nông dân chống địa tô và nợ lãi cao, thực hiên sự liên hiệp với các đảng
phái quốc gia cải lương không phải lộn xộn như “sắt với chì”, cũng không phải là hợp tác giai
cấp. Chính sách lập MTNDPĐ không phải là chống người Pháp mà chỉ chống đế quốc Pháp,
thực hiện cho dân chủ ở xứ Đông Dương [58, tr.258].
Về hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh, Hội nghị chủ trương triệt để lợi dụng

những khả năng hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp để tuyên truyền, tổ chức Đảng và Mặt
trận, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng.
Hội nghị Trung ương tháng 7-1936 đánh dấu sự trưởng thành của Đảng trong việc giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt; giữa chủ
trương mới và hình thức đấu tranh mới; giữa củng cố khối liên minh công nông và mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất. Tuy vậy, Hội nghị cũng còn hạn chế là chưa nêu ra được khẩu hiệu thích
hợp về dân tộc; chưa tìm được hình thức Mặt trận phù hợp với mục tiêu đấu tranh mới.
Những nội dung cơ bản của Hội nghị Trung ương tháng 7-1936 được bổ sung và phát
triển trong các HNTƯ Đảng. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 3-1937 đã nhận
định phong trào dân chủ phát triển mạnh, ảnh hưởng của Đảng lan rộng, tổ chức của Đảng và
các hội quần chúng phát triển nên vấn đề tổ chức các lực lượng cách mạng của quần chúng và
công tác Mặt trận trở thành trọng điểm thảo luận tại hội nghị.
Tháng 9-1937, HNTƯ Đảng họp đã quyết định thành lập Thanh niên Dân chủ Đông
Dương thay cho Đông Dương cộng sản đoàn; lập Hội cứu tế bình dân, Công hội, Nông hội thay
cho Cứu tế đỏ, Công hội đỏ, Nông hội đỏ... Đồng thời, Đảng chủ trương đẩy mạnh việc lập các
hội quần chúng công khai và nửa công khai, như hội ái hữu, Tương tế, kể cả các hoạt động âm
nhạc,thể thao và tập hợp các đoàn thể đó vào một Mặt trận thống nhất dân chủ. Với các tổ chức
hội quần chúng, Đảng đề ra những điều kiện kết nạp thật đơn giản, chỉ cần tán thành chống phản
động thực dân, chống phát xít là có thể gia nhập Hội.
Trung ương Đảng chỉ rõ: Mặt trận phải được thống nhất trong cả nước, theo phương
hướng thống nhất ngay ở địa phương và thống nhất dọc theo từng ngành ở mỗi địa phương tuỳ
theo điều kiện cụ thể, thực hiện liên minh với các đảng phái, các lực lượng chính trị và xã hội để
lập ra các ủy ban hành động, hay ủy ban ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp. Bước đi tới sự thống
nhất chung phải được thực hiện một cách linh hoạt, hoặc từ dưới lên, hoặc từ trên xuống. Bên
cạnh Mặt trận thống nhất chung của toàn dân, cần có những Mặt trận thống nhất riêng của từng
ngành, từng giới như công nhân, nông dân, phụ nữ.
Trong Mặt trận, Đảng phải tôn trọng và khuyến khích mọi sáng kiến của các bạn đồng
minh, thực hiện đường lối của Đảng bằng sự thuyết phục, tranh thủ quần chúng nhằm mục tiêu
làm sao cho những phong trào của thợ thuyền và dân cày khít với nhau và thâm nhập vào phong
trào dân chúng thống nhất Đông Dương.



Hội nghị còn nhấn mạnh việc đẩy mạnh công tác binh vận, đồng thời vạch rõ sự cần thiết
phải cảnh giác đề phòng mọi sự thoả hiệp làm rạn nứt hoặc suy yếu Mặt trận.
Được Nghị quyết Trung ương tháng 7-1936 và tháng 9-1937 soi đường, lại thêm tin tức
dồn dập của phong trào đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh của nhân dân tiến bộ Pháp
và thế giới dội vào, ở Việt nam đã diễn ra một cao trào cách mạng mới đòi các quyền tự do, dân
sinh, dân chủ và hoà bình.
Mở đầu là phong trào đấu tranh đòi triệu tập Đại hội Đông Dương. Tháng 8-1936, trong
bức thư ngỏ, Đảng ta đã trình rõ lập trường của mình về Đại hội Đông Dương, kêu gọi các đảng
phái như: Việt Nam Quốc dân Đảng, đảng Lập Hiến, các nhóm cải lương, các hội ái hữu, các tổ
chức chính trị như: công, nông, binh, phụ nữ, sinh viên, người buôn bán, báo chí, các tổ chức
quần chúng và toàn thể nhân dân Đông Dương, vì lợi ích chung, đoàn kết lại thành một Mặt trận
đấu tranh bảo vệ hoà bình, đòi các quyền tự do dân chủ và cơm áo, hoà bình. Bức thư của Đảng
nêu ra 12 điều yêu cầu về tự do dân chủ cho việc thảo luận để tiến tới soạn thảo một bản “Dân
nguyện” gửi cho chính phủ Pháp, kêu gọi thành lập ngay các ủy ban hành động ở khắp nơi, từ
thành thị đến thôn quê, để tập hợp quần chúng và vận động họ bầu cử đại biểu tham dự Đại hội
Đông Dương.
Lời kêu gọi của ĐCSĐD đã nhanh chóng làm dấy lên một phong trào sôi nổi của quần
chúng. Ngày 13-8-1936, một cuộc họp của ủy ban lâm thời triệu tập Đại hội Đông Dương được
tổ chức tại toà soạn báo Việt Nam ở Sài Gòn với trên 500 người tham dự. Một ủy ban trù bị Đại
hội Đông Dương được thành lập gồm 19 đại biểu, trong đó có 3 đảng viên cộng sản, còn lại các
đại biểu cho lao động, trí thức, nhà báo, tư sản, địa chủ.
Như vậy, một hình thức Mặt trận rộng rãi được hình thành ở bên trên, bằng một phong
trào thực sự của quần chúng nhằm mục tiêu cụ thể thiết thực đấu tranh cho dân sinh, dân chủ là
phù hợp với điều kiện lúc bấy giờ. Đó là thắng lợi của Đảng ta và các lực lượng dân chủ, đặc biệt
là các tầng lớp nhân dân lao động.
Trong một thời gian ngắn, phong trào nhân dân hưởng ứng Đại hội Đông Dương lan
nhanh từ Bắc vào Nam. Riêng ở miền Nam, chưa đầy hai tháng, sau sự kiện này đã có trên 600
ủy ban hành động được thành lập. Hầu hết các thành phố, thị xã và gần một phần ba số xã có ủy

ban hành động. Thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn có 31 ủy ban và gần một nửa ủy ban trong số 600
ủy ban hành động có trụ sở công khai. Phần lớn các ủy ban do Đảng chỉ đạo, hướng phong trào
quần chúng thảo luận những nguyện vọng dân chủ, chống chính sách của bọn phản động thuộc
địa, nâng cao uy tín của lực lượng dân chủ.
Ở miền Bắc, ngày 5-9-1936, áp lực của quần chúng do những chiến sĩ cộng sản làm
nòng cốt đã phá vỡ âm mưu của một số phần tử cơ hội trong Viện dân biểu Bắc Kỳ tổ chức một
số thân hào ở Hà Nội đứng ra hội thảo “Dân nguyện” và biến thành một cuộc biểu dương lực


lượng tỏ rõ ý nguyện của nhân dân. Nhiều ủy ban hành động được thành lập ở Hà Đông, Bắc
Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Hà Nam, Nam Định. Ở Hà Nội có ủy ban hành động trong thợ nhà in,
xưởng máy, của tiểu thương, phụ nữ và nông dân.
Ở miền Trung, ngày 20-9-2936, một số đảng viên Cộng sản đã vận động quần chúng và
được sự đồng tình của các trí thức yêu nước biểu tình tuyên bố không tín nhiệm bản dân nguyện
do Viện dân biểu Trung Kỳ soạn thảo, kiến nghị chính quyền thực dân Nam Triều phải cho phép
thành lập các ủy ban hành động công khai, thu thập dân nguyện và bầu ra một ủy ban lâm thời
để vận động tổ chức một Đại hội Đông Dương toàn Trung Kỳ. ủy ban lâm thời chi nhánh Trung
Kỳ Đại hội Đông Dương thành lập gồm 26 đại biểu.
Tuy vậy, việc hình thành một tổ chức thống nhất trên toàn quốc của phong trào Đại hội
Đông Dương không được thực hiện. Cao trào sôi nổi của quần chúng, sự tập hợp thành tổ chức
với những nội dung thỉnh nguyện của các tầng lớp nhân dân khiến bọn thực dân phản động ở
thuộc địa cũng như ở chính quốc lo ngại. Chúng sử dụng một số phần tử của đảng Lập Hiến
tham gia lâm ủy Nam Kỳ của Đại hội Đông Dương, để vu khống các đại biểu cộng sản có hành
động nhằm đối lập giữa chủ và thợ, để bọn này tự ý rút khỏi phong trào và tạo cớ cho thực dân
can thiệp. Ngày 19-5-1936, chính quyền thực dân ra lệnh giải tán các ủy ban hành động, cấm
các cuộc tập hợp hội thảo dân nguyện. Tuy nhiên, có một thắng lợi quan trọng là, trước sự đấu
tranh của quần chúng đã buộc thực dân Pháp phải ân xá tù chính trị. Thu đông năm 1936 có trên
1000 tù chính trị được trả tự do. Ngày 15-11-1936, chúng phải trả tự do cho 2 đại biểu người của
Đảng ta trong ủy ban trù bị Đại hội Đông Dương. Tính đến tháng 10-1937, có 1532 tù chính trị,
phần lớn là chiến sĩ cộng sản, ra khỏi các nhà tù của đế quốc Pháp.

Thực tiễn phong trào Đại hội Đông Dương cho thấy: khi chủ trương, chính sách và
những khẩu hiệu đấu tranh của Đảng phù hợp với nguyện vọng bức thiết của quần chúng nhân
dân thì được quần chúng hưởng ứng mạnh mẽ và mau chóng trở thành phong trào rộng lớn, uy
tín và vai trò của Đảng trong quần chúng được nâng cao. Qua phong trào này, một lần nữa
chứng minh tính chất cơ hội, thoả hiệp với kẻ thù của một bộ phận giai cấp tư sản, địa chủ và
một số phần tử trong các đảng phái khác. Điều đó càng khẳng định quan điểm của Đảng, ngay
từ đầu, coi yếu tố quyết định của phong trào cách mạng là khả năng tập hợp và huy động các lực
lượng quần chúng là đúng. Đồng thời qua đây, càng củng cố quan điểm, lập trường giai cấp
trong khi liên minh với các lực lượng chính trị khác.
Đại hội Đông Dương lắng xuống, nhưng phong trào dân chủ không vì thế mà giảm sút,
trái lại càng lên cao và đi sâu vào các tầng lớp nhân dân. Phong trào đấu tranh đòi quyền dân
chủ, dân sinh, cải thiện đời sống của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác ngày
càng phát triển mạnh mẽ.
Trong vòng 6 tháng cuối năm 1936 đã có 361 cuộc đấu tranh, trong đó có 236 cuộc của
công nhân. Có những cuộc bãi công với hàng nghìn người tham gia, như cuộc bãi công của


5000 công nhân mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng), cuộc tổng bãi công của hơn 30000 công nhân
mỏ Hồng Gai, Cẩm Phả.
Trong năm 1937, có gần 400 cuộc đấu tranh của công nhân, trong đó có cuộc bãi công
của 3000 công nhân nhà máy tơ Hải Phòng (1-1937), của 7000 công nhân dệt Nam Định (21937), của 4000 công nhân Ba Son (4-1937), của 20000 công nhân mỏ than Uông Bí (7-1937).
Năm 1938, nguy cơ chiến tranh thế giới thứ II đang đến gần, Chính phủ Pháp ngả dần
về phía hữu và bọn phản động thuộc địa ra sức đàn áp phong trào cách mạng ở Đông Dương.
Nhìn lại cuộc vận động cho mục tiêu của MTNDPĐ, Đảng ta nhận thấy sự cần thiết phải quan
tâm dến các lực lượng ngoài công nông, khắc phục sai lầm “tả” hoặc "hữu" khuynh trong sự liên
minh với các tầng lớp trên và các đảng phái chính trị. Để phù hợp với thực tiễn của phong trào,
Đảng từng bước hình thành chủ trương tiến tới lập MTDCĐD.
Tháng 3-1938, trước những biến đổi trong và ngoài nước, HNTƯ Đảng lần thứ VII họp
để ra những quyết sách mới, trong đó đã quyết định lập MTTNDCĐD (gọi tắt là MTDCĐD). Đảng
ta nhấn mạnh: “Vấn đề lập Mặt trận thống nhất dân chủ là một nhiệm vụ trung tâm của Đảng

trong giai đoạn hiện tại”, và chủ trương “Đưa hết toàn lực của Đảng, dùng hết phương pháp để
lan rộng các xu hướng, phát triển các mầm trong ấy thành một lực lượng hành động mạnh mẽ”
[58, tr.321]. Đồng thời, rút kinh nghiệm từ cuộc vận động Đông Dương Đại hội cũng như quá
trình vận động MTNDPĐ, Đảng ta cho rằng việc lập MTDC cần phải có những sách lược thật
mềm dẻo.
Tháng 6-1938, trong Bức thư công khai của ĐCSĐD gửi cho các đảng phái, Đảng ta kêu
gọi hãy gác lại các chính kiến bất đồng, cùng đứng ra lập MTDC vì mục tiêu chung: “Đây là
quyền lợi sinh tồn chung cho xứ sở. Đây là tiền đồ phát triển của dân tộc. Đây là công cuộc của
nền hoà bình nhân loại. Chúng ta đã chờ lâu rồi. Bỏ phí thì giờ nhiều rồi. Chúng ta không thể
chần chừ hơn được nữa. Hãy mau mau nắm chặt tay nhau tiến bước lên con đường hành
động.
Hỡi các đảng phái, không phân biệt màu da, không phân biệt giai cấp.
Hỡi quốc dân đồng bào hãy khăng khít đoàn kết nhau lại trừ bọn phản động khiêu khích
và bọn Tờrốtxkít ra.
Hãy bước tới thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương” [58, tr.341].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các hình thức hoạt động của phong trào quần chúng thời kỳ
MTDCĐD rất phong phú và đạt được nhiều kết quả, cụ thể.
Trên lĩnh vực hoạt động báo chí công khai, hàng chục tờ báo của Đảng, của MTDC, của
các đoàn thể quần chúng và các báo phản ánh khuynh hướng chính trị tiến bộ của các lực lượng
khác nhau lần lượt ra đời, và trở thành vũ khí sắc bén tuyên truyền tư tưởng yêu nước, trở thành


công cụ đắc lực trong việc tập hợp, phát triển lực lượng cách mạng. Đặc biệt, những tờ báo của
Đảng, của MTDC như tờ: Tin tức, Đời nay (ở Hà Nội), Dân chúng (ở Sài Gòn), Sông Hương Lục
Bản, Dân, (ở Huế); Cuốn sách "Vấn đề dân cày" của Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp, cuốn
sách Chủ nghĩa C.Mác của Hải Triều và nhiều cuốn sách giới thiệu về Liên Xô, cách mạng Trung
Quốc, Mặt trận nhân dân Pháp và Tây Ban Nha, đã ra mắt bạn đọc. Nội dung của sách báo thời
kỳ này mang tính chiến đấu cao, tạo ra dư luận xã hội mạnh mẽ ủng hộ các hoạt động của MTDC
và trực tiếp đấu tranh với bọn thực dân đòi các quyền dân sinh dân chủ. Chính các sách, báo này
đã trực tiếp giới thiệu và cổ động cho những người của Mặt trận ứng cử vào các cơ quan Dân

biểu, vạch trần tội ác của đế quốc, tay sai, phê phán quan điểm sai lầm của một số cán bộ đảng
viên ...
Trên lĩnh vực đấu tranh nghị trường, Mặt trận cũng giành được nhiều thắng lợi. Tháng 71938, trong cuộc tranh cử vào Viện dân biểu Bắc Kỳ, 15 người trong danh sách MTDC gồm các
nhóm Tin tức (Cộng sản), nhóm Ngày nay (Tư sản) và chi nhánh Đảng xã hội Pháp đã trúng cử.
MTDC còn giành thắng lợi trong cả Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương, cơ quan “dân cử” cao nhất
ở Đông Dương, với hai đại biểu trong MTDC trúng cử.
Các cuộc đấu tranh giành quyền tự do dân sinh, dân chủ tiếp tục được diễn ra trên phạm vi
toàn quốc. Từ tháng 1 đến 12 năm 1938 có tới 135 cuộc bãi công của công nhân với 12762 người
tham gia và 125 cuộc đấu tranh của nông dân với 55442 người. Mặc dù số lượng cuộc đấu tranh
có giảm nhưng chất lương được nâng lên, trình độ giác ngộ quần chúng được nâng cao hơn, trình
độ tổ chức, lãnh đạo của các tổ chức Đảng, vững vàng hơn, các khẩu hiệu đấu tranh đề ra sát
hợp. Hầu hết các cuộc đấu tranh của công nhân khi xẩy ra ở một nơi, hoặc một ngành nào đó đều
được sự ủng hộ cả về vật chất, tinh thần của công nhân ngành khác, của nông dân và người buôn
bán nhỏ.
Đặc biệt, ngày 1-5-1938, ngày Quốc tế Lao động ở Đông Dương được tổ chức công khai
tại Quảng trường Đấu Xảo (Hà Nội), có trên 2 vạn người tham gia. Thông qua cuộc mít tinh kỷ
niệm, tính kỷ luật, khẩu hiệu tranh đấu của quần chúng phản ánh đầy đủ tầm vóc phát triển của
MTDCĐD.
Trên lĩnh vực văn hoá - xã hội, phong trào truyền bá chữ quốc ngữ do Xứ ủy Bắc Kỳ vận
động đã nhanh chóng lan rộng ra khắp ba kỳ, tạo thành một tổ chức hợp pháp, thu hút đông đủ các
giới học sinh, thanh niên, trí thức và đồng bào lao động tham gia dạy và học. Hội truyền bá chữ
quốc ngữ đã có đóng góp to lớn không chỉ trong thời kỳ vận động dân chủ mà còn có vai trò tập
hợp và tổ chức quần chúng trong thời kỳ Việt Minh tiến tới giành chính quyền. Đây là một thành
công điển hình trong lãnh đạo tổ chức của Đảng, không phải trực tiếp bằng tổ chức có tính chất
cộng sản mà bằng chính sách đúng đắn hợp lòng dân và một tổ chức thích hợp với tình hình thực
tế.


Bên cạnh những thắng lợi của phong trào dân chủ là những khuyết điểm ảnh hưởng đến
phong trào. Tổng kết sự lãnh đạo của Đảng và công tác Mặt trận trong những năm 1936 - 1939,

Đồng chí Nguyễn Văn Cừ viết tác phẩm Tự chỉ trích.
Rút kinh nghiệm về cuộc tranh cử Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, nhân đó đồng chí Nguyễn
Văn Cừ tổng kết những kinh nghiệm về lãnh đạo Mặt trận dân chủ và phê phán những khuynh
hướng đi trái với đường lối của Đảng. Trong tác phẩm “Tự chỉ trích”, đồng chí Nguyễn Văn Cừ
đã rút ra những kinh nghiệm lớn về công tác MTDC; muốn lập MTDC, Đảng phải cần liên minh
với các đảng phái dân chủ và tiến bộ thuộc tầng lớp trên, nhưng trước hết phải thực hiện được
sự liên minh với quần chúng, chủ yếu phải xây dựng khối liên minh công nông, lấy khối liên minh
đó làm cơ sở. Với những lực lượng đồng minh, nhất là với các đồng minh thuộc tầng lớp trên,
một mặt, cần nhân nhượng nhất định với họ; mặt khác, phải đấu tranh khắc phục những tiêu cực
của họ để tăng cường đoàn kết và đẩy mạnh công cuộc đấu tranh cách mạng. Với các đảng phái
cải lương cần phải tranh thủ họ đấu tranh cho dân sinh, dân chủ, nhưng Đảng phải giữ vững độc
lập về chính trị và tổ chức, phải nắm vững quyền lãnh đạo của Đảng.
Để mở rộng MTDC, Đảng phải biết vận dụng sách lược mềm dẻo nhằm lợi dụng mẫu
thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, phân biệt rõ bọn phản động với những người do dự, lừng chừng,
phân biệt rõ kẻ thù nguy hiểm trước mắt với kẻ thù nói chung, tranh thủ tất cả các lực lượng có
thể tranh thủ được, dù là tạm thời, bấp bênh, khi có điều kiện phải triệt để cô lập kẻ thù chủ yếu
trước mắt, tập trung mũi nhọn đấu tranh chống lại chúng.
Trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã tiến hành một cuộc
đấu tranh sâu sắc trên Mặt trận lý luận, nhất là đấu tranh vạch mặt bọn Tờ rốt xkít. Lịch sử và
hành động của bọn Tờ rốt xkít, đã chứng minh cho ta thấy vô luận ở đâu, lúc nào bọn chúng
cũng đóng vai trò khiêu khích, phá hoại cách mạng. Với giọng điệu cách mạng đầu lưỡi, chúng
hô hào thành lập “Mặt trận vô sản”, “Mặt trận công nông”, “Mặt trận của những người bóc lột
chống kẻ bóc lột .... ”, để chống lại chủ trương lập Mặt trận thống nhất dân chủ rộng rãi của Đảng
ta, vu cáo Đảng ta “hợp tác giai cấp”, “từ bỏ đấu tranh giai cấp”, “thoả hiệp, đầu hàng giai cấp tư
sản”...
Trong lúc yêu sách đòi tự do nghiệp đoàn chưa được chấp nhận, Đảng ta chủ trương phải
lợi dụng hết thảy các hình thức ái hữu, Tương tế và mọi biến tướng của nó để tập hợp quần chúng,
đưa họ vào đấu tranh, thì bọn Tờrốt xkít rêu rao rằng “ái hữu giết chết công đoàn”, “ái hữu không thể
giác ngộ quần chúng về quyền lợi giai cấp”, “ái hữu chỉ là xôi thịt cải lương, phản động”, ...
Ngoài ra, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ còn chỉ đạo báo Dân chúng và các tờ báo công

khai của Đảng ta phải kịch liệt đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, lý luận phản động và hành
động khiêu khích của bọn Tờrốt xkít và các màu sắc lý luận phản động khác. Đồng chí cũng phê
phán nghiêm khắc sự hợp tác vô nguyên tắc của một vài đảng viên cộng sản viết bài muốn bào
chữa cho bọn Tờrốt xkít và còn muốn lập “Mặt trận” với chúng. Đó là sự mơ hồ giai cấp, chưa


nhận rõ bản chất phản động của bọn Tờ rốt xkít, do cảm tình cá nhân mà không chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối quan điểm của Đảng. Trước tình hình đó, đồng chí Nguyễn Văn Cừ và
Đảng ta đã nhắc nhở “Đảng Cộng sản chủ trương liên hiệp các đảng phái, các lớp nhân dân để
gây một lực lượng thống nhất mạnh mẽ, tranh đấu chống chế độ thuộc địa dã man, đòi các
quyền tự do, dân chủ và cải thiện sinh hoạt cho các tầng lớp nhân dân, song sự liên hiệp đó phải
có nguyên tắc, chứ không phải liên hiệp cả bọn phản động Tờrốt xkít, tay chân phát xít” [50,
tr.38].
Tác phẩm "Tự chỉ trích" là một trong những văn kiện tổng kết kinh nghiệm cách mạng
Việt Nam, nhất là kinh nghiệm xây dựng Đảng, về xây dựng MTDTTN. Nó thấm nhuần bản chất
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, nêu tấm gương sáng về tự phê bình và phê
bình, về đấu tranh chống những quan điểm sai lầm, bảo vệ đường lối đúng đắn, sáng tạo của
Đảng. "Tự chỉ trích " là một tác phẩm không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa sâu
sắc về mặt thực tiễn. "Tự chỉ trích" đã "thể hiện minh triết trong tư duy chính trị của một lãnh tụ
già dặn, vừa tranh luận, vừa thuyết minh một cách sáng tỏ đường lối, quan điểm của Đảng ta,
đánh tan mọi mơ hồ lẫn lộn " [50, tr.38].
Cũng vào đầu năm 1939, với một loạt thư nhan đề Thư từ Trung Quốc để chỉ đạo cách
mạng Việt Nam, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã giành 3 thư phân tích kỹ về bản chất và thủ đoạn của
bọn Tờrốtkít và chỉ ra tác hại của nó đối với sự thống nhất của Đảng và với sự xây dựng MTDTTN.
Người đã chỉ rõ bọn Tờ rốtkít không chỉ là "kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản mà còn là kẻ thù của
nền dân chủ tiến bộ. Đó là bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất" [38, tr.126].
Sau đó, Nguyễn ái Quốc lại gửi về nước "Những Chỉ thị mà tôi còn nhớ và truyền đạt",
chỉ rõ hơn sách lược của Đảng ta trong đấu tranh giành các quyền tự do, dân chủ, hoà bình.
Muốn đạt được mục đích đó phải "ra sức tổ chức Mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi"[39, tr.138].
Mặt trận này gồm cả những người Pháp tiến bộ và cả giai cấp tư sản dân tộc và "để phát triển và

củng cố lực lượng, mở rộng ảnh hưởng và hành động có hiệu quả" MTDCĐD phải có liên hệ
chặt chẽ với Mặt trận nhân dân Pháp. Đối với Đảng, muốn làm được nhiệm vụ trên, Đảng phải
củng cố tổ chức, tư tưởng nâng cao trình độ đảng viên và đặc biệt là "Đối với bọn Tờrốtxkít
không thể có thỏa hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm
tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị" [39, tr.138].
Có thể nói, đó là văn kiện quan trọng và toàn diện nhất mà đồng chí Nguyễn ái Quốc đã
chỉ đạo Đảng xây dựng MTDTTN. Đó là những vấn đề có tính nguyên tắc xây dựng Mặt trận và
những yêu cầu đối với Đảng ta. Những quan điểm của đồng chí Nguyễn ái Quốc không chỉ có
giá trị thực tiễn mà còn có ý nghĩa trong xây dựng MTDTTN trong tình hình hiện nay. Chỉ đạo của
đồng chí Nguyễn ái Quốc đã giúp cho Đảng ta tiếp tục xây dựng thành công MTDTTN.
Từ năm 1936-1939, nhờ chủ trương và sự chỉ đạo đúng đắn sáng tạo của Đảng và đồng
chí Nguyễn ái Quốc, các hình thức tổ chức của MTDTTN Việt Nam đã được hình thành trong


×