Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận môn ldqlgd vai trò của tuyên truyền miệng trong bối cảnh bùng nổ thông tin ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.74 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ GIÁO DỤC, KHOA HỌC VÀ
MƠI TRƯỜNG
Đề tài

VAI TRỊ CỦA TUN TRUYỀN MIỆNG TRONG
BỐI CẢNH BÙNG NỔ THÔNG TIN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................4
Chương I. GIẢI THÍCH MỘT SỐ KHÁI NIỆM........................................4
Chương II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG CỦA CÔNG TÁC TUYÊN
TRUYỀN MIỆNG...........................................................................................5
1. Tìm hiểu về hình thức tuyên truyền miệng.............................................5
2. Những nguyên tắc cơ bản của công tác tuyên truyền miệng.....................7
3. Những ưu thế và hạn chế của công tác tun truyền miệng.................8
Chương III. VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA CƠNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
TRONG BỐI CẢNH BÙNG NỔ THÔNG TIN HIỆN NAY Ở VIỆT
NAM...............................................................................................................10
Chương IV. GIẢI PHÁP NÂNG CAO VÀ DUY TRÌ CƠNG TÁC
TUN TRUYỀN MIỆNG..........................................................................13
KẾT LUẬN....................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................18


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Trong giai đoạn bùng nổ thông tin đa chiều như hiện
nay, mọi người có thể tiếp cận, cập nhật thơng tin từ nhiều
nguồn, nhiều phương tiện khác nhau một cách tiện lợi, nhanh
nhạy mọi lúc, mọi nơi. Nhất là việc truy cập sử dụng mạng
internet, sau một cú kích chuột máy tính hay chấm tay xoẹt
trên màn hình điện thoại thơng minh chỉ vài giây người sử
dụng có cả hàng ngàn trang web, blog cung cấp thơng tin.
trong đó có cả những thơng tin tốt- xấu, đúng- sai, thậm chí
cả thơng tin xun tạc, vu khống mà các thế lực thù địch,
những kẻ xấu lợi dụng khơng gian mạng để tun truyền, kích
động chống phá Đảng, Nhà nước. Do đó, cơng tác tun giáo
nói chung và hoạt động tuyên truyền miệng nói riêng phải
nâng cao chất lượng, thực hiện tốt hơn nữa vai trị cung cấp,
định hướng thơng tin góp phần nâng cao nhận thức, củng cố
niềm tin, tạo sự đồng thuận trong thực hiện đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước. Sự thực trong đời
sống hiện nay chúng ta không thể phủ nhận những tiện ích
mà Internet mang lại và cũng nhờ Internet mà các châu lục,
quốc gia, vùng miền xích lại gần nhau hơn. Đó là xu thế của
thời hội nhập, thời đại bùng nổ thông tin .
Sự phát triển nhanh của thông tin và truyền thông là một
quá trình khách quan, là lơgíc tất yếu của tiến trình phát triển
của nhân loại, mở ra môi trường thông tin rộng lớn, thuận tiện
nhất, giúp cho các dân tộc, các quốc gia và cư dân toàn thế
giới tăng cường khả năng giao lưu, tăng cường hiểu biết, xích
lại gần nhau. Chúng tạo ra một môi trường điều kiện thúc đẩy
1


sự phát triển, ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và

công nghệ. Hệ thống truyền thông đại chúng tồn cầu hóa trở
thành nguồn thơng tin sinh động, phong phú, tồn diện và có
tính thời sự, cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách của
mọi quốc gia. Những lợi ích mà các phương tiện thơng tin
mang lại là khơng thể phủ nhận, nhưng cùng với đó, mặt tiêu
cực mà nó đem đến cũng khơng nhỏ: các thế lực thù địch
ln tìm cách lợi dụng cơng nghệ thơng tin để tạo ra các khả
năng tác động chống phá chế độ ta. Chúng lợi dụng tính chất
của các mạng xã hội đó là: khó kiểm sốt do người dùng
khơng cần phải đăng ký tên thật; khả năng phản hồi nhanh,
tính tương tác cao, có độ hấp dẫn lớn để tạo ra các trang
web, các blog đưa các thông tin, luận điệu sai trái nhằm gây
chia rẽ nội bộ Đảng, gây hiểu lầm trong nhân dân, làm mất uy
tín của Đảng và Nhà nước ta. Thơng qua đó thực hiện âm mưu
“diễn biến hồ bình” trên tất cả các mặt kinh tế, văn hố,
chính trị, qn sự, ngoại giao từng bước làm chuyển hoá đất
nước ta theo hướng mà chúng đã vạch sẵn, gây rối loạn xã hội
từ bên trong, tìm cớ can thiệp lật đổ chế độ, hòng thắng ta
trên mặt trận “khơng có tiếng súng”. Trong đó, âm mưu “diễn
biến hồ bình” trên mặt trận tư tưởng - văn hoá được kẻ thù
đặc biệt coi trọng.
Nhận thức rõ điều đó, những năm qua, cơng tác tun
truyền miệng ln được Qn ủy Trung ương, Bộ Quốc phịng,
Tổng cục Chính trị và cấp ủy, chỉ huy các cấp quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, đạt hiệu
quả tốt. Quy chế hoạt động công tác tuyên truyền miệng được
các cấp thường xuyên bổ sung, hoàn thiện, phù hợp với thực

2



tiễn. Nội dung tuyên truyền luôn bám sát đường lối, quan
điểm của Đảng, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; các sự kiện
chính trị quan trọng trong nước và quốc tế; những vấn đề
nhạy cảm, phức tạp được cán bộ, chiến sĩ quan tâm; âm mưu,
thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Phương pháp
cung cấp, tiếp nhận và chuyển tải thông tin thường xuyên
được đổi mới, bảo đảm linh hoạt, đa dạng, phong phú. Đội
ngũ báo cáo viên tồn qn có bản lĩnh chính trị vững vàng,
trình độ lý luận sắc sảo, tinh thần cảnh giác và tính chiến đấu
cao, chấp hành tốt kỷ luật phát ngôn, hoạt động tích cực, hiệu
quả, v.v. Nhờ đó, cơng tác tun truyền miệng trong tồn
qn đã có chuyển biến tích cực, đi vào chiều sâu, phát huy
hiệu quả thực chất; tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, góp phần cung
cấp thơng tin, định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ và
nhân dân; là “vũ khí” sắc bén trong đấu tranh chống quan
điểm sai trái, thù địch, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng
trong Quân đội.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, em chọn đề tài
luận “Vai trò của tuyên truyền miệng trong bối cảnh
bùng nổ thông tin ở Việt Nam hiện nay”
2. Mục đích – nhiệm vụ
a. Mục đích
-

Hiểu biết về tun truyền miệng

-

Hiểu rõ vai trị của tuyên truyền miệng trong bối cảnh


hiện nay
-

Nâng cao nhận thức về việc giữ gìn và phát huy hình

thức tuyên truyền miệng
b. Nhiệm vụ

3


-

Giải thích một số khái niệm

-

Chỉ ra những yếu tố của tuyên truyền miệng

-

Làm rõ vai trò của tuyên truyền miệng

-

Nâng cao công tác tuyên truyền miệng , gắn với các

định hướng trong bối cảnh hiện nay


4


NỘI DUNG
Chương I
GIẢI THÍCH MỘT SỐ KHÁI NIỆM
Tuyên truyền : giải thích một tư tưởng, một học thuyết, một quan điểm
nào đó nhằm hình thành, củng cố ở đối tượng tuyên truyền một thế giới quan,
nhân sinh quan, một lý tưởng, một lối sống… thơng qua đó mà ảnh hưởng tới
thái độ và tính tích cực của con người trong thực tiễn xã hội.
Công tác tuyên truyền : là hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước và những tinh hoa văn hóa của dân tộc… làm cho chúng trở thành
nhân tố giữ vai trò thống trị xã hội trong đời sống tinh thần của xã hội; trên cơ
sở đó cổ vũ, động viên tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tuyên truyền miệng : là một hình thức đặc biệt của
tuyên truyền, được tiến hành thông qua sự giao tiếp trực tiếp
giữa người tuyên truyền với đối tượng tuyên truyền, chủ yếu
bằng lời nói trực tiếp. Tuyên truyền miệng được tiến hành
thông qua sự giao tiếp bằng lời nói trực tiếp giữa người nói
(nhà tuyên truyền) và người nghe (đối tượng được tun
truyền) mà khơng có sự ngăn cách nào. Thông qua tuyên
truyền miệng, người tuyên truyền (chủ thể) tác động làm
chuyển hóa, nâng cao nhận thức, tư tưởng của người nghe
(khách thể). Mặt khác, qua hoạt động của báo cáo viên, qua
lời nói, cử chỉ, hành động... cổ vũ, động viên người nghe.

5



Chương II
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG CỦA CÔNG TÁC
TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
1.

Tìm hiểu về hình thức tuyên truyền

miệng
Tuyên truyền miệng là hình thức quan trọng của cơng
tác tư tưởng - văn hóa, nằm trong tổng thể hoạt động cơng
tác đảng, cơng tác chính trị của Qn đội nhân dân Việt Nam.
Hình thức tuyên truyền này có nhiều ưu thế, bởi nó đáp ứng
nhanh chóng, kịp thời u cầu thơng tin về vấn đề “nóng”,
nhạy cảm đang được dư luận quan tâm mà các hình thức khác
khó thể hiện. Khi thực hiện tuyên truyền miệng, do có sự
tương tác, báo cáo viên dễ quan sát được thái độ của người
nghe để điều chỉnh nội dung, phương pháp phù hợp với từng
đối tượng. Bởi vậy, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu
và phát triển của Quân đội ta, tuyên truyền miệng luôn được
thực hiện và phát huy tác dụng tích cực trong truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm
vụ của cách mạng, Quân đội và âm mưu, thủ đoạn chống phá
của các thế lực thù địch. Qua đó, góp phần nâng cao nhận
thức, bồi dưỡng, phát triển, hoàn thiện nhân cách người quân
nhân cách mạng; tinh thần cảnh giác; động viên, cổ vũ cán
bộ, chiến sĩ hồn thành nhiệm vụ một cách tự giác, tích cực,
chủ động, sáng tạo.
Khi xem xét công tác tư tưởng như một q trình liên
tục, V.I. Lênin cho rằng, cơng tác tư tưởng có 3 hình thái (có


6


người gọi là ba bộ phận cấu thành), bao gồm: công tác lý
luận; công tác tuyên truyền và công tác cổ động. Cơng tác
tun truyền là hoạt động có mục đích, được tiến hành với
nhiều hình thức, phương tiện, trong đó có tuyên truyền
miệng.
Hiện nay, trên các sách báo và trong các cơng trình
nghiên cứu đang có những quan niệm khác nhau về tuyên
truyền miệng. Tuy nhiên, đa số các nhà nghiên cứu cho
rằng: Tuyên truyền miệng là phương thức tuyên truyền được
tiến hành chủ yếu bằng lời nói trong giao tiếp trực tiếp nhằm
mục đích nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin và cổ vũ tính
tích cực hành động của người nghe. Khái niệm trên đây khẳng
định tuyên truyền miệng là một công cụ quan trọng của công
tác tư tưởng với các đặc điểm nổi bật sau:
-

Tuyên truyền miệng thực hiện trong giao tiếp trực

tiếp của người tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền. Đây
là điểm khác biệt cơ bản của tuyên truyền miệng so với các
phương tiện thông tin đại chúng khác.
-

Tuyên truyền miệng chủ yếu được tiến hành bằng lời

nói. Ngày nay, người làm tuyên truyền miệng có thể có thêm

sự hỗ trợ của máy tính, màn hình, các chương trình trình
chiếu..., nhưng phương tiện chủ yếu của họ vẫn là lời nói trực
tiếp.
Cơng việc của người tuyên truyền miệng đòi hỏi phải hội
tụ ba yếu tố: Tâm huyết - Vốn sống - Năng khiếu. Người có
tâm huyết với nghề, nhưng thiếu vốn kiến thức, thiếu vốn
sống và kinh nghiệm… thì chẳng có gì để nói. Người có vốn
kiến thức rộng, nhưng khơng có tâm huyết sẽ khơng có động

7


lực, có nghĩa là khơng có “lửa” để “truyền lửa”. Tuy có tâm
huyết, có “nguồn vốn” nhưng nếu thiếu năng khiếu thì cũng
hạn chế đến kết quả cơng tác tun truyền miệng. Bởi người
nghe luôn trông đợi ở báo cáo viên một sự am hiểu sâu sắc về
đề tài thuyết giảng, về sự chân thật, giọng nói truyền cảm, dễ
nghe, khơng có những cử chỉ, điệu bộ có tính chất phô diễn.
Thành công của một buổi tuyên truyền luôn thể hiện rất rõ
thông qua dấu hiệu trạng thái tâm lý, tinh thần của người
nghe. Một cái ngáp, một tiếng thở dài, một vài gương mặt hờ
hững… chưa thành vấn đề, nhưng nếu “đồng loạt” có nhiều
biểu hiện này thì rõ ràng là người nghe đang khơng thích. Khi
người nghe cứ nhìn lên trần nhà “quan sát kiến bị”, đó là dấu
hiệu của sự chán nản. Khi người nghe nói chuyện riêng, quan
tâm nhiều hơn đến tiếng động ngoài hội trường, thường xuyên
nhìn đồng hồ hoặc sử dụng điện thoại… thì khơng thể khác,
đó là dấu hiệu của sự khơng quan tâm… Nếu do bài nói
chuyện nhàm chán, cách tốt nhất để báo cáo viên “ứng xử”
với những dấu hiệu này là hãy rút ngắn bài nói chuyện, phát

biểu của mình lại.
2.

Những ngun tắc cơ bản của cơng tác

tun truyền miệng
Tính Đảng là nguyên tắc cơ bản hàng đầu của công tác
tuyên truyền miệng. Khi tuyên truyền phải đúng với định
hướng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
+ Tích cực truyền bá những tư tưởng cách mạng, tiến bộ,
tích cực trong xã hội mà nền tảng là hệ tư tưởng vô sản.

8


+ Tự giác tham gia và nhanh chóng thơng tin, giải thích
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước
trong nhân dân.
+ Mọi hoạt động phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và
chịu sự lãnh đạo của Đảng.
+ Mọi hoạt động phải tuân theo luật pháp, nằm trong
khuôn khổ của luật pháp.
+ Tổ chức cơ sở đảng và mỗi đảng viên phải luôn tự giác,
phát huy năng lực và sức chiến đấu của mình.
Tính chiến đấu của cơng tác tun truyền nói chung và
là ưu thế của tuyên truyền miệng nói riêng. Tuyên truyền
miệng phải khẳng định và bảo vệ cái đúng, xây dựng những
tư tưởng tình cảm lành mạnh, uốn nắn những quan điểm tư
tưởng lệch lạc, đấu tranh chống các luận điểm phản tuyên

truyền, các biểu hiện tiêu cực.
Tính quần chúng: nội dung tuyên truyền, các biểu hiện
tiêu cực, mối quan hệ giữa nhiệm vụ tuyên truyền đặt ra và
yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích của người nghe. Bác Hồ đã dạy
"Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi viết cho ai xem,
nói cho ai nghe".
Tính khoa học, chân thực, khách quan: địi hỏi tun
truyền miệng phải nói đúng sự thật, khơng tránh né, không
cực đoan, một chiều, làm cho mọi người hiểu rõ cơ sở khách
quan, khoa học, có đủ căn cứ lý luận và thực tiễn để nâng cao
sức thuyết phục, làm cho người nghe tin tưởng vào sự đúng
đắn của vấn đề tun truyền đặt ra. Nó khơng chỉ là cơ sở để
hình thành, củng cố niềm tin mà cịn tạo ra điều kiện để phát
huy tính năng động, sáng tạo của nhân dân trong hành động

9


cách mạng. Lênin nói: “Cơng tác cổ động và tun truyền của
chúng ta trước hết phải làm cho nhân dân hiểu rõ sự thật”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn công khai
bày tỏ sự thật, mặc dù có những sự thật nặng nề và cay đắng.
Chính vì vậy, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta liên tục tổ
chức, lãnh đạo nhân dân trong các phong trào cách mạng và
giành được nhiều thắng lợi, thắng lợi sau bao giờ cũng to lớn
hơn thắng lợi trước. Không được mượn cớ tính chân thật mà
hạ thấp yêu cầu hoặc chỉ thông tin những sự kiện vụn vặt
hoặc không có lợi cho cách mạng. Nội dung cổ động khơng chỉ
mang tính chân thật mà cịn đảm bảo tính tiêu biểu.
3.


Những ưu thế và hạn chế của công tác

tuyên truyền miệng
a. Ưu thế
Ưu thế của ngơn ngữ nói:
Mang tính phổ biến trong giao tiếp xã hội, hàng ngày có
khoảng 2/3 lượng thông tin con người thu nhận được qua giao
tiếp bằng lời nói trực tiếp. Bằng ngơn ngữ nói, ta có thể trình
bày vấn đề một cách hệ thống; giải thích cặn kẽ, nhắc đi nhắc
lại để ghi nhớ…người khơng biết chữ cũng có thể thu nhận
được. Lời nói có thể tác động vào tình cảm của con người,
khơi dậy tính tích cực nhận thức của đối tượng, thúc đẩy quá
trình hình thành niềm tin và cổ vũ hành động. Lời nói có thể
sử dụng trong mọi hồn cảnh, mọi điều kiện, do đó, tun
truyền miệng ít tốn kém kinh phí, khơng cần nhiều đến
phương tiện kỹ thuật phức tạp. (Na-pơ-lê-ơng khẳng định: “Lời
nói có sức mạnh hơn mười vạn khẩu súng”)
Ưu thế trong việc sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ:

10


Người tuyên truyền có thể sử dụng các yếu tố phi ngôn
ngữ như tư thế, cử chỉ, điệu bộ, diện mạo…làm phương tiện
thơng tin và sắc thái tình cảm. Tác động vào kênh thị giác của
người nghe, tăng cường sự chú ý của họ, do vậy mà thúc đẩy
việc tiếp thu thông tin một cách tốt nhất. Các yếu tố phi ngôn
ngữ hỗ trợ cho lời, làm tăng ý nghĩa của lời, biểu hiện xúc
cảm, sắc thái tình cảm của người tuyên truyền với vấn đề

tuyên truyền, do đó chúng góp phần nâng cao hiệu quả tuyên
truyền miệng.
Các ưu thế của loại hình giao tiếp trực tiếp:
Giao tiếp giữa người với người là hoạt động khơng thể
thay thế vì con người mang 6 bản chất xã hội. (học sinh vẫn
đến trường nghe giáo viên giảng bài) .Tạo cho người nghe
cảm giác gần gũi, thân mật, qua đó cán bộ tuyên truyền
mang đến cho đối tượng không chỉ nội dung của lời nói mà
cịn mang đến cho họ tình cảm, niềm tin vào những điều mình
nói. Giao tiếp trực tiếp cho phép tác động đến đúng đối tượng,
hiểu rõ nhu cầu, tâm trạng người nghe để xác định nội dung
và phương pháp tuyên truyền. Người truyên truyền linh hoạt
vận dụng cách nói trong những tình huống khác nhau trong
q trình trình bày bài nói, như điều chỉnh nội dung thơng tin,
phương pháp tuyên truyền cho phù hợp. Cho phép chuyển từ
độc thoại sang đối thoại do vậy làm tăng thêm hiệu quả tuyên
truyền.
b. Những hạn chế
Bên cạnh những ưu thế đã được chỉ ra, tun truyền
miệng cũng cịn có một số hạn chế như: Lời nói chỉ đi một
chiều, khơng quay trở lại. Khi đã lỡ lời thì khơng thể lấy lại

11


được nữa. Dù có cải chính, xin lỗi..., vẫn gây cho người nghe
một ấn tượng nào đó. Vì vậy người nói cần thận trọng; đối với
người nghe, cũng do tính chất này của lời nói cần chú ý, nếu
khơng lời của báo cáo viên đã đi qua, không thể nghe lại và
khơng phải lúc nào cũng có điều kiện hỏi lại hoặc đối thoại...;

Phạm vi về khơng gian có giới hạn, do giới hạn tự nhiên của
lời nói trực tiếp (dù đã có phương tiện khuếch đại) và khả
năng tập hợp một số đông tại một địa điểm và thời điểm nhất
định; Dễ chịu tác động của các yếu tố ngoại cảnh do tập trung
đông người và ở các địa điểm khác nhau.

12


Chương III
VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA CƠNG TÁC TUN TRUYỀN TRONG
BỐI CẢNH BÙNG NỔ THÔNG TIN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
Từ giữa thế kỷ XX đến nay, khi nhân loại bước vào cuộc
cách mạng khoa học – công nghệ lần thứ ba - cuộc cách mạng
tin học, với sự ra đời của điện thoại di động thế hệ mới, mạng
máy tính Internet, hệ thống cáp quang và hệ thống vệ tinh địa
tĩnh đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ có tính chất bùng nổ
của các phương tiện truyền thơng đại chúng dẫn tới việc thu
nhỏ không gian và thời gian thơng tin - truyền thơng trên
phạm vi tồn thế giới, hình thành “làng thơng tin tồn cầu”.
Truyền thơng đa loại hình bắt đầu chi phối hoạt động sống
của con người trên phạm vi toàn cầu.Trong giai đoạn này, nhờ
khoa học kĩ thuật và văn hóa phát triển, số lượng ấn phẩm và
các tài liệu khác trong xã hội đã tăng vọt. Khối lượng các tài
liệu này cứ khoảng sau chu kì 10-12 năm lại tăng lên gấp đơi
làm cho việc quản lí trở nên khó khăn. Các nhà khoa học gọi
đó là hiện tượng hay sự “bùng nổ thơng tin”. Theo từ điển
Wikipedia: bùng nổ thông tin là sự gia tăng nhanh chóng về
số lượng cơng bố thơng tin hoặc dữ liệu và những ảnh hưởng
của sự phong phú này. Như số lượng dữ liệu có sẵn phát triển,

vấn đề quản lý thơng tin trở nên khó khăn hơn, có thể dẫn
đến tình trạng q tải thơng tin .
Tuyền thông xã hội đã tạo ra những thay đổi mạnh mẽ,
ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới đời sống của hàng trục
triệu dân Việt Nam, từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: sự
thiếu hiểu biết, trình độ và năng lực còn hạn chế, động cơ

13


không lành mạnh... mà nhiều bài viết, trạng thái (status),
phát ngôn, thông tin sai lạc công bố trên mạng xã hội đã tạo
ra một số khủng hoảng truyền thơng chính trị, xã hội và kinh
tế nghiêm trọng, gây ra không ít nguy cơ, thậm chí đẩy tới
không ít cuộc bạo động, xung đột vũ trang, chiến tranh,... tại
nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong bối cảnh
hiện nay, khi mà các thế lực thù địch, phản động tiếp tục đẩy
mạnh hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng chống Việt
Nam, triệt để lợi dụng các sự kiện chính trị của đất nước, các
vấn để “nóng”, bức xúc trong xã hội liên quan đến chủ quyền
biển, đảo, ô nhiễm môi trường, vi phạm pháp luật của một bộ
phận cán bộ, đảng viên để kích động, chống phá. Trong đó
tập trung xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp; phê phán chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; vu cáo, xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử... với sự hà
hơi, tiếp sức của một số tổ chức phản động lưu vong ở nước
ngồi có sự móc nối với các tổ chức tự xưng, đối tượng phản
động, bất mãn ở trong nước.
Chúng lợi dụng mạng xã hội để truyền bá các quan điểm

sai trái, thù địch, kích động để gây hoài nghi trong nhân dân
với kỳ vọng tạo nên các yếu tố “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Chính vì vậy, cơng tác phịng ngừa, tổ chức
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm trong tình hình hiện nay.
Trên địa bàn tỉnh, thời gian qua, công tác tuyên truyền miệng
đã được tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện bằng các hình
thức hội thi, hội diễn, tọa đàm, tập huấn, sinh hoạt, họp dân

14


của các đoàn thể quần chúng trong các cơ quan, ban, ngành,
đồn thể, thơn, xóm, khu dân cư. Qua đó đã lồng ghép việc
tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, định hướng dư luận và phân tích,
vạch trần các quan điểm sai trái, thù địch để cán bộ, đảng
viên và nhân dân nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá
của các thế lực thù địch.
Khoa học kỹ thuật phát triển đã tác động đến tất cả mọi
người vừa có nhu cầu, vừa có cơ hội để mở rộng giao lưu, tiếp
nhận thơng tin. Hàng ngày, chúng ta có thể tiếp nhận thông
tin từ mọi phương tiện thông qua các phương tiện truyền
thanh, truyền hình, sách, báo, điện thoại, internet,.… Nhưng
đối với vấn đề chính trị nói chung và với cơng tác tư tưởng nói
riêng thì lời nói, cử chỉ, điệu bộ trong tun truyền ln ln
giữ một vai trị quan trọng nhằm tác động trực tiếp đến người
nghe bằng các giác quan, đặc biệt là thị giác nên học tiếp
nhận thông tin, nhận thức và thay đổi hành vi nhanh hơn,
hiệu quả hơn mà các phương tiện thông tin đại chúng không

thể thay thế được. Trong tuyên truyền miệng, ngôn ngữ nói có
ưu thế và mang tính phổ biến trong giao tiếp xã hội. Với cơng
cụ là lời nói, tun truyền miệng có khả năng truyền đạt
thơng tin đến mọi đối tượng, với mọi trình độ khác nhau, kể cả
đối tượng khơng biết chữ, khơng có khả năng tiếp thu thơng
tin bằng chữ viết. Tuyên truyền miệng qua hoạt động của báo cáo viên,
tuyên truyền viên được Đảng ta xác định là công cụ quan trọng hàng đầu
nhằm tuyên truyền, giáo dục về đường lối, chính sách, truyền bá những quan
điểm của Đảng, đưa tiếng nói của Đảng đến nhân dân.
Ngồi vai trị chung của cơng tác tun truyền thì tun
truyền miệng có khả năng đưa được những thơng tin nội bộ,
15


những thơng tin mà về lý do nào đó khơng thể hoặc không nên
đưa trên các phương tiện thông tin đại chúng đến các đối
tượng cần tuyên truyền. Trong điều kiện bùng nổ thông tin như
hiện nay, tuyên truyền miệng cịn góp phần định hướng thơng
tin, giải thích, phân tích cho quần chúng hiểu rõ đâu là thơng
tin chính thức, chính thống, trên cơ sở đó định hướng dư luận
xã hội, góp phần tạo ra sự thống nhất về chính trị - tư tưởng
trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Công tác tuyên truyền
miệng là một phương thức tiến hành cơng tác tư tưởng của
Đảng, là loại hình đặc biệt, kênh thông tin hiệu quả, “một mắt
khâu quan trọng, trực tiếp nối liền Đảng, Nhà nước với nhân
dân”. Công tác tuyên truyền miệng được Đảng, Nhà nước ta
hết sức coi trọng. Đảng ta sử dụng nó như một cơng cụ đắc lực
khi hoạt động bí mật cũng như khi giành chính quyền. Hiện
nay, Đảng ta đang xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên ở khắp các ban, ngành, đồn thể, các tổ chức

chính trị - xã hội trên phạm vi cả nước với số lượng ngày càng
tăng. Phương thức tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo
viên, tuyên truyền viên đã và đang tác động tích cực góp phần
đưa đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
đến với quần chúng nhân dân, tạo sự thống nhất trong Đảng
và toàn xã hội, cổ vũ các phong trào cách mạng của quần
chúng nhân dân và thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất
nước.
Chương IV
GIẢI PHÁP NÂNG CAO VÀ DUY TRÌ CƠNG TÁC
TUN TRUYỀN MIỆNG

16


Để nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng
trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch,
góp phần định hướng dư luận trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân, cần phải xác định rõ vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của
công tác tuyên truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo
cáo viên, tuyên truyền viên, cộng tác viên, xem đây là một
trong những kênh thông tin quan trọng, trực tiếp, định hướng
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trước các vấn đề liên quan
đến chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, kịp thời đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến
hịa bình”, phản bác các luận điệu xun tạc của các thế lực
thù địch, nâng cao cảnh giác, tích cực đấu tranh phòng, chống
tội phạm, xây dựng phong trào tồn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc.
Cơng tác tun truyền miệng phải được tiến hành

thường xuyên, liên tục, bám sát các chỉ thị, nghị quyết,
chương trình, kế hoạch trọng tâm trong nhiệm vụ đảm bảo an
ninh chính trị, giữ gìn trật tự an tồn xã hội.
Hình thức tun trun miệng phải có sự đổi mới, sáng
tạo, nội dung phong phú, đảm bảo tính chính xác và tính thời
sự, phù hợp với từng nhóm đối tượng, trình độ dân trí, tín
ngưỡng, tôn giáo, phong tục, tập quán của nhân dân.
Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên phải được kiện
toàn, củng cố, khơng ngừng nghiên cứu, tìm tịi, đảm bảo có
kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để chuyển tải
chính xác, đầy đủ, giải đáp những thắc mắc của nhân dân
trong quá trình tuyên truyền miệng. Đồng thời phải xây dựng
được phong cách gần dân, hiểu dân, nghe dân nói, nói dân

17


hiểu, làm dân tin, qua đó tạo được thiện cảm, sự tin tưởng của
người nghe đối với báo cáo viên, tuyên truyền viên.
Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức đoàn thể, lồng ghép tuyên truyền miệng trong
các hoạt động của các tổ chức, đoàn thể, hội viên, đoàn viên
và nhân dân ở các khu dân cư.
Tăng cường công tác trao đổi thông tin, tình hình giữa
các ban, ngành, đồn thể, tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá,
rút kinh nghiệm để công tác tuyên truyền miệng đảm bảo
chính xác, kịp thời, chất lượng và hiệu quả.
Xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng công tác tuyên truyền
miệng cho đội ngũ cốt cán, người uy tín ở thôn, bản, khối phố,
cụm dân cư, kịp thời thông tin, phổ biến tình hình và các chủ

trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước cũng như
các phương thức, thủ đoạn, quan điểm sai trái, thù địch, để
đội ngũ này thực hiện tốt công tác tuyên truyền ở cơ sở.

18



×