Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Vai trò của tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.41 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN THỊ SÁNH

VAI TRß CñA TßA ¸N
TRONG VIÖC B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng 10 năm 2014



NGƯỜI CAM ĐOAN

Phan Thị Sánh


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƯỜI .................................................................................... 7
1.1.

Nhận thức chung về quyền con người............................................. 7

1.1.1. Khái niệm về quyền con người .......................................................... 7
1.1.2. Các thuộc tính cơ bản của quyền con người ....................................... 9
1.1.3. Phân loại quyền con người............................................................... 10
1.2.

Khái quát chung về các cơ chế bảo vệ quyền con người .............. 10

1.2.1. Khái niệm về cơ chế bảo vệ quyền con người .................................. 10
1.2.2. Các cơ chế bảo vệ quyền con người ................................................. 11

1.3.

Khái niệm, đặc điểm của việc bảo vệ quyền con người bằng
Tòa án ............................................................................................. 14

1.3.1. Khái niệm ........................................................................................ 14
1.3.2. Đặc điểm của việc bảo vệ quyền con người bằng Tòa án ................. 15
1.4.

Các cách thức bảo vệ quyền con người bằng Tòa án ................... 16

1.4.1. Tòa án bảo vệ quyền con người thông qua việc kiểm soát quyền
lực Nhà nước ................................................................................... 16
1.4.2. Tòa án bảo vệ quyền con người thông qua việc bảo vệ quyền tự
do và an toàn của cá nhân ................................................................ 17


1.4.3. Tòa án bảo vệ quyền con người bằng việc trừng phạt công bằng
người thực hiện hành vi phạm tội..................................................... 19
1.4.4. Tòa án bảo vệ quyền con người bằng cách khôi phục lại quyền và
lợi ích của cá nhân thông qua hoạt động xét xử................................ 20
1.4.5. Tòa án bảo vệ quyền con người thông qua việc giáo dục ý thức
tôn trọng và bảo vệ quyền con người của toàn xã hội....................... 21
1.5.

Những yếu tố tác động đến việc thực hiện vai trò của Tòa án
trong việc bảo vệ quyền con người................................................ 25

1.5.1. Việc tổ chức quyền lực Nhà nước .................................................... 25
1.5.2. Hệ thống pháp luật của quốc gia ...................................................... 26

1.5.3. Chất lượng của đội ngũ Thẩm phán ................................................. 29
1.5.4. Điều kiện kinh tế - văn hóa .............................................................. 30
1.5.5. Hiệu quả của hoạt động thi hành án ................................................. 30
Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..... 33
2.1.

Thực trạng tổ chức hệ thống tòa án ở Việt Nam hiện nay ........... 33

2.1.1. Tòa án nhân dân cấp huyện .............................................................. 34
2.1.2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh ................................................................. 34
2.1.3. Tòa án nhân dân tối cao ................................................................... 35
2.2.

Thực trạng vị trí, vai trò của tòa án trong việc bảo vệ quyền
con người ở Việt Nam hiện nay ..................................................... 36

2.2.1.

Thực trạng vị trí của Tòa án trong hệ thống các cơ quan nhà nước........ 37

2.2.2. Thực trạng mối quan hệ giữa Tòa án với các cơ quan khác trong
bộ máy nhà nước ta hiện nay ........................................................... 37
2.2.3. Thực trạng vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người
ở Việt Nam hiện nay ........................................................................ 40
2.3.

Một số nguyên nhân của thực trạng đảm bảo quyền con người
trong hoạt động xét xử của Tòa án ở Việt Nam hiện nay ............... 56



2.3.1. Tòa án chưa thực sự độc lập trong hoạt động xét xử ........................ 57
2.3.2. Hạn chế, bất cập ở đội ngũ Thẩm phán ............................................ 61
2.3.3. Hệ thống quy định của pháp luật chưa tạo điều kiện thuận lợi để
Tòa án bảo vệ quyền con người trong quá trình xét xử..................... 62
2.3.4. Sự hạn chế của tổ chức hệ thống Tòa án hiện nay ............................ 64
2.3.5. Một số nguyên nhân khác ................................................................ 65
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐẢM
BẢO VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................... 66
3.1.

Quan điểm, định hướng về việc đảm bảo vai trò của Tòa án
trong việc bảo vệ quyền con người................................................ 66

3.1.1. Quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về việc đảm bảo
vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ..................... 66
3.1.2. Tiếp tục cải cách tư pháp theo hướng đảm bảo cho Tòa án thực
hiện đúng đắn quyền độc lập Tư pháp.............................................. 67
3.2.

Một số giải pháp nhằm đảm bảo vai trò của Tòa án trong việc
bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay .............................. 72

3.2.1. Cần tổ chức thực hiện Hiến pháp năm 2013 về các quy định liên
quan đến Tòa án............................................................................... 72
3.2.2. Cần xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm có đủ năng lực, đạo
đức và bản lĩnh nghề nghiệp ............................................................ 76
3.2.3. Cần nâng cao nhận thức của Đảng, Nhà nước và người dân về vai
trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ........................... 77

3.2.4. Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở phát huy vai trò của
Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ....................................... 78
3.2.5. Cần tăng cường cơ chế giám sát Nhà nước và giám sát xã hội ......... 82
KẾT LUẬN ................................................................................................. 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 87


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt Ý nghĩa
BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CCTP

Cải cách tư pháp

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

HĐND

Hội đồng nhân dân

TAND


Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, cùng với đó là quá trình
nhất thể hóa hội nhập pháp luật đã và đang thực sự diễn ra trên nhiều lĩnh
vực, có tác động sâu sắc đến sự phát triển của nước ta hiện nay. Trong đó, vấn
đề hoàn thiện các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền con người trong các
hoạt động của các cơ quan Tư pháp đã và đang được Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm.
Điều đó được phản ánh trong các văn kiện Đại hội của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH trong
các kỳ Đại hội vừa qua. Nhằm cụ thể hóa một số chủ chương của Đảng, tại
nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ hoàn thiện hệ thống pháp luật
liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục tiêu của chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Với định hướng xác định Tòa án là khâu
trung tâm của quá trình cải cách, xét xử là khâu trọng tâm của toàn bộ hoạt
động tư pháp, trong đó coi trọng việc hoàn thiện chính sách pháp luật, cơ cấu tổ

chức và quá trình hoạt động của các cơ quan tư pháp với quan điểm “các cơ
quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý,
quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp
chế XHCN, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm” [5].
Với chủ chương cải cách tư pháp nêu trên thì việc nghiên cứu vai trò
của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay có ý
nghĩa vô cùng quan trọng và thiết thực. Điều này được thể hiện trên các bình
diện chủ yếu dưới đây:

1


- Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên khảo đề
cập và phân tích có hệ thống những nội dung cơ bản về vai trò của Tòa án đặc
biệt là thẩm quyền và chức năng của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con
người với những đóng góp về mặt khoa học pháp lý, làm sáng tỏ bản chất
pháp lý của vấn đề này.
- Về mặt lập pháp: Kết quả của quá trình nghiên cứu sẽ hỗ trợ, bổ sung
cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình xây dựng và áp dụng
pháp luật. Nó giúp chúng ta nhận ra những vấn đề cụ thể cần thống nhất, cần
làm sáng tỏ trong các quy định của pháp luật, nhằm nâng cao vai trò của Tòa
án trong việc bảo vệ quyền con người. Đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 vừa
có hiệu lực đã quy định nhiều vấn đề mới trong đó có việc đổi mới chức năng,
nhiệm vụ, hoạt động, cơ cấu và tổ chức của Tòa án đối với việc bảo vệ quyền
con người. Dự thảo sửa đổi Luật tổ chức TAND đang được Quốc hội cho ý
kiến cũng có nhiều quy định mới, bước đầu đã cụ thể hóa được các quy định
của Hiến pháp năm 2013, thể hiện được một số định hướng cải cách tư pháp
của Đảng liên quan đến tổ chức, hoạt động và nhiệm vụ của TAND.
- Về mặt thực tiễn: kết quả của việc nghiên cứu sẽ cung cấp cho các
nhà làm luật, các nhà lý luận, các Thẩm phán hoặc các chủ thể khác hoạt động

trong lĩnh vực pháp luật những giải pháp để giải quyết các vấn đề xã hội trong
giai đoạn hiện nay. Các giải pháp này đôi khi hữu ích hơn những tư tưởng
đang bị vây hãm chặt chẽ bởi hệ thống pháp luật quốc gia đang cần cải cách.
Đặc biệt, hiện nay những quy định của pháp luật về các hoạt động
của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người vẫn còn một số điểm khó
khăn, vướng mắc, bất cập chưa được giải quyết. Dựa trên kết quả của việc
nghiên cứu vấn đề nêu trên sẽ góp phần xây dựng và hoàn thiện các chế
định liên quan đến hoạt động của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con
người ở nước ta hiện nay.

2


Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Vai trò của Tòa án trong việc bảo
vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay”, để từ đó đưa ra những giải pháp
góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật trở thành một yêu cầu cấp
bách và có ý nghĩa thiết thực về mặt lý luận, lập pháp cũng như thực tiễn áp
dụng các quy định của pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt
Nam hiện nay là một vấn đề lớn, mặc dù đã có nhiều tài liệu đề cập đến như:
Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Khoa luật - Đại Học
Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2009; đề tài cấp nhà nước
do TS. Uông Chu Lưu làm chủ nhiệm hoàn thành năm 2006, “Cải cách cơ
quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực xét
xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân”;
GS.TS Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên): Tòa án Việt Nam trong bối cảnh xây
dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội; TS. Nguyễn Ngọc
Chí: bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa
học, Kinh tế - Luật số 23, 2007; Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thị Thu Hương:

bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong pháp luật hành
chính Việt Nam (một số vấn đề có tính phương pháp luận, định hướng nghiên
cứu), Tạp chí Khoa học Đại học Quốc Gia Hà Nội, Luật học số 28, 2012; LS.
Trương Trọng Nghĩa: Bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân là nhiệm vụ hàng đầu của Tòa án, Báo Công lý, 2014; PGS.TS. Nguyễn
Bá Dương: ở Việt Nam, quyền con người được bảo đảm và thực hiện tốt, Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2013; Ths Đỗ Thị Duyên: hoạt động xét xử
của TAND – công cụ hữu hiệu bảo đảm quyền con người trong bối cảnh sửa
đổi Hiến pháp ở Việt Nam, Báo thanh tra, 2014…
Những công trình này đã phần nào đề cập đến vấn đề vai trò của Tòa án

3


trong việc bảo vệ quyền con người ở những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên,
các công trình này chưa nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên biệt vấn
đề này. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa thiết thực về mặt
lý luận cũng như về thực tiễn áp dụng, nhằm đưa ra một cách hệ thống, toàn
diện, đầy đủ và chuyên biệt nhất, đánh giá việc bảo vệ quyền con người trong
thực tiễn và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Tòa án trong
bảo vệ quyền con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tác giả chọn đề
tài “Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện
nay ” để làm luận văn tốt nghiệp cũng nhằm mục đích đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Mục đích:
Mục đích của luận văn đó là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt
lý luận cũng như thực tiễn những nội dung cơ bản về quyền con người, các cơ
chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người để từ đó đánh giá vị trí cũng như vai
trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, xác định những bất cập
trong thực tiễn để đề xuất những giải pháp tiếp tục hoàn thiện trong thời gian

tới nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền con người ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào giải quyết những
nhiệm vụ sau:
+ Xác định nội hàm của quyền con người và các cơ chế để bảo vệ
quyền con người.
+ Làm sáng tỏ vị trí, vai trò của Tòa án cũng như những yếu tố tác động
đến quá trình hoạt động của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người.
+ Trên cơ sở những luận điểm nêu trên và đánh giá thực trạng vấn đề
bảo vệ quyền con người ở nước ta hiện nay, tác giả cũng đề xuất một số giải

4


pháp nhằm nâng cao vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm về quyền con
người, các cơ chế bảo vệ quyền con người trên thế giới cũng như tại Việt
Nam; làm rõ chức năng, vị trí, vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con
người ở Việt Nam.
Luận văn nghiên cứu các khái niệm, quan điểm cơ bản về quyền con
người, các cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở nước ta và trên thế
giới; nghiên cứu chức năng, thẩm quyền cũng như tổ chức hoạt động của Tòa
án đối với việc bảo vệ quyền con người được quy định trong Hiến pháp, Luật
tổ chức Tòa án và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định
của pháp luật Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối chính sách của Đảng Cộng Sản
Việt Nam và của Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền và hoạt động tư pháp,
các học thuyết chính trị pháp lý trên thế giới. Luận văn cũng được trình bày
trên cơ sở nghiên cứu Hiến pháp, Luật Tổ chức TAND và các tài liệu khác.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như phương pháp hệ thống, lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh luật
học. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn tham khảo ý kiến của
các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực tư pháp liên quan đến đề tài.
6. Những điềm mới, đóng góp mới của luận văn
Luận văn đưa ra cái nhìn tổng quan nhất, cơ bản nhất về quyền con
người; các cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên thế giới.

5


Luận văn là công trình lần đầu tiên nghiên cứu đi sâu vào phân tích một
cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về vấn đề vai trò của Tòa án trong việc
bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả cũng đưa ra thực trạng vấn đề bảo vệ quyền con người ở nước
ta hiện nay. Đồng thời đánh giá một cách tương đối đầy đủ và toàn diện thực
tiễn chất lượng cũng như hiệu quả hoạt động của Tòa án trong việc bảo vệ
quyền con người trong những năm gần đây ở nước ta.
Từ thực trạng vấn đề bảo vệ quyền con người ở nước ta hiện nay, luận
văn cũng đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò của Tòa án
trong việc bảo đảm cũng như bảo vệ quyền con người trong thời kỳ hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
bao gồm 3 chương với kết cấu như sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền con người và vai trò của
Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người.
Chương 2: Thực trạng vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con
người ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo vai trò của
Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
hiện nay.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ
CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI

1.1. Nhận thức chung về quyền con người
1.1.1. Khái niệm về quyền con người
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, từ trước đến nay đã có rất nhiều
định nghĩa về quyền con người được công bố, mỗi định nghĩa lại tiếp cận vấn
đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định của quyền con
người. Theo tài liệu Hỏi Đáp về Nhân quyền của Liên hợp quốc (United
Nations: Human rights: Questions and Answers) thì có đến gần 50 định nghĩa
về quyền con người đã được công bố.
Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc đưa ra khái niệm:
Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu
(universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và
các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc
(omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép
(entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con
người [25, tr.23].

Một định nghĩa khác cũng thường được trích dẫn là “Quyền con người
là những sự được phép mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không
phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… đều có ngay từ khi
sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người” [23, tr.37].
Tại hai văn kiện nổi tiếng thế giới là Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm
1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền của Pháp năm 1978, khái niệm về quyền con
người được thể hiện một cách rất cụ thể: “Những chân lý sau đây đã được chúng
tôi công nhận như những sự thật hiển nhiên là tất cả mọi người sinh ra đều bình

7


đẳng; tạo hóa đã cho họ các quyền không thể thay thế được; trong những quyền
ấy có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc” [24, tr.96].
Ở Việt Nam, qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy chưa có một văn bản
pháp lý nào quy định về quyền con người như một định nghĩa, một điều luật
chuyên biệt. Nội hàm của khái niệm quyền con người chỉ được thể hiện trong
các quan điểm, chính sách, pháp luật và cũng chỉ được quy định một cách
chung chung mà không đưa ra một định nghĩa rõ ràng, riêng biệt. Theo cuốn
Đại Từ điển Tiếng Việt thì quyền con người được hiểu là “điều mà pháp luật
hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi” [1, tr.1010].
Hiến pháp năm năm 2013 quy định:
1. Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng [41, Điều 14].
Trên phương diện nghiên cứu khoa học pháp lý, Giáo trình Lý luận và

pháp luật về Quyền con người của Khoa Luật Đại Học Quốc gia Hà Nội, thì
quyền con người là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan
của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế” [23, tr.38]
Tại buổi quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI) của Đảng ủy
TANDTC ngày 26/02/2014 khi nói về những điểm mới về quyền con người,
quyền công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013, PGS.TS Trần Văn
Độ - Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, Phó Chánh án TANDTC cho
rằng: “quyền con người là quyền của cá nhân mà khi sinh ra vốn dĩ là đã có,

8


còn quyền công dân là quyền được quy định cụ thể trong Hiến pháp và pháp
luật của nhà nước nó gắn liền với quốc tịch của mỗi công dân” [65].
Chúng tôi cũng đồng quan điểm với PGS.TS Trần Văn Độ về quan
niệm về quyền con người nêu trên. Bởi vì, đây là khái niệm khái quát dễ hiểu
và cơ bản nhất về quyền con người. Nó phù hợp với học thuyết về quyền tự
nhiên (natural rights) cho rằng quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có
mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng, không phân biệt đẳng cấp, màu da,
giới tính, dân tộc hay tôn giáo.
1.1.2. Các thuộc tính cơ bản của quyền con người
- Tính phổ biến:
Tính phổ biến thể hiện ở chỗ quyền con người được áp dụng chung cho
tất cả mọi người, không phân biệt màu da, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi,
thành phần xuất thân. Con người, dù ở những chế độ xã hội riêng biệt, thuộc
những truyền thống văn hóa khác nhau vẫn hưởng những quyền và sự tự do
cơ bản của con người.
- Tính đặc thù:
Thuộc tính này được hiểu là mọi người đều được hưởng quyền con

người nhưng mức độ thụ hưởng có sự khác biệt, phụ thuộc vào năng lực cá
nhân của từng người, hoàn cảnh chính trị, truyền thống văn hóa xã hội mà
người đó đang sống. Ở mỗi vùng, mỗi quốc gia khác nhau, vấn đề quyền con
người mang những sắc thái, đặc trưng riêng gắn liền với trình độ phát triển
kinh tế - xã hội ở khu vực đó.
- Tính không thể bị tước bỏ:
Quyền con người không thể tùy tiện bị tước bỏ hay hạn chế một cách
tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước, chỉ
trong một số trường hợp nhất định được pháp luật quy định trước và phải là
những chủ thể đặc biệt mới có thể hạn chế hay tước bỏ quyền con người.

9


- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền:
Tất cả các quyền con người đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc
thực hiện tốt quyền này sẽ là tiền đề để thực hiện quyền kia. Ngược lại, khi có
một quyền bị xâm phạm thì sẽ ảnh hưởng đến các quyền khác.
1.1.3. Phân loại quyền con người
Cách phân loại cơ bản và chủ yếu nhất đó là phân loại quyền con người
theo lĩnh vực. Theo đó, quyền con người được phân thành hai nhóm chính:
- Nhóm các quyền dân sự - chính trị bao gồm: quyền bầu cử, ứng cử;
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; các quyền tự do cơ bản; quyền
được bảo đảm an ninh cá nhân; quyền bình đẳng;…
- Nhóm quyền kinh tế - xã hội - văn hóa bao gồm: quyền làm việc,
quyền sở hữu, quyền kinh doanh, quyền được bảo vệ sức khỏe, quyền được
học tập và sáng tạo; quyền hoạt động văn hóa - nghệ thuật…
Ngoài ra, quyền con người có thể được phân chia theo chủ thể của
quyền. Có thể chia quyền con người ra thành quyền cá nhân; quyền của nhóm
như quyền của phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi… và quyền tập thể như quyền

dân tộc tự quyết và quyền của các dân tộc thiểu số.
1.2. Khái quát chung về các cơ chế bảo vệ quyền con người
1.2.1. Khái niệm về cơ chế bảo vệ quyền con người
Khái niệm cơ chế được nêu trong cuốn Đại từ điển Tiếng Việt là cách
thức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện [1, tr.464]. Do các
quyền con người rất phong phú và những vi phạm xâm phạm đến quyền con
người cũng rất đa dạng, được thực hiện bởi nhiều loại chủ thể trên nhiều lĩnh
vực khác nhau nên việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người đòi hỏi phải có
sự tham gia của nhiều dạng chủ thể (cá nhân, cộng đồng, tổ chức phi chính
phủ, cơ quan nhà nước, tổ chức quốc tế…) thông qua nhiều biện pháp; từ phổ
biến, giáo dục, nâng cao nhận thức cho đến theo dõi, giám sát, và xử lý những

10


hành vi xâm phạm đến quyền con người. Tập hợp các cách thức nêu trên để
bảo vệ quyền con người được gọi chung là cơ chế bảo vệ quyền con người.
Như vậy, theo chúng tôi, cơ chế bảo vệ quyền con người là tổng hợp
các biện pháp do các chủ thể khác nhau thực hiện nhằm mục đích bảo vệ các
quyền con người, đảm bảo các quyền con người được thực hiện trên thực tế
và thúc đẩy sự tôn trọng của các chủ thể đối với quyền con người trong phạm
vi không gian nhất định, thời gian và mức độ khác nhau.
1.2.2. Các cơ chế bảo vệ quyền con người
* Cơ chế quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người
Về cơ bản, cơ chế quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người được
thể hiện ở bộ máy các cơ quan và quy tắc, thủ tục về thúc đẩy, bảo vệ quyền
con người trong tổ chức Liên hợp quốc. Dựa trên địa vị pháp lý, chức năng,
nhiệm vụ và tổ chức bộ máy mà các cơ quan về quyền con người của Liên
hợp quốc được chia thành hai dạng: dạng các cơ quan được thành lập dựa trên
cơ sở Hiến chương (charter - based mechanism) và dạng các cơ quan được

thành lập dựa trên cơ sở một số Công ước quan trọng về quyền con người
(treaty bodies).
Cơ chế dựa trên Hiến chương (Charter - based mechanism) là việc 6 cơ
quan chính (gồm: Đại hội đồng - General essembly; Hội đồng bảo an Security council, Hội đồng kinh tế và xã hội - Economic and social council
Ecosoc; Hội đồng quản thác - Trusteeship council; Tòa án Công lý quốc tế Intemetional court of justice; Ban thư ký Liên hợp quốc) thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ liên quan đến quyền con người của các cơ quan này, thông
qua đó để nghiên cứu, xây dựng các dự thảo văn kiện, thẩm định, theo dõi,
giám sát và điều hành các chương trình, hoạt động về quyền con người.
Cơ chế dựa trên Công ước (Treaty -based mechanism): Cơ chế này
được dựa trên các ủy ban giám sát việc thực hiện một số công ước quốc tế

11


về quyền con người (treaty-based bodies), được thành lập theo quy định của
chính các công ước đó (ngoại trừ Uỷ ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn
hoá được thành lập theo một Nghị quyết của Hội đồng Kinh tế và Xã hội
Liên Hiệp Quốc - ECOSOC), nhằm giám sát, thúc đẩy việc thực hiện các
công ước về quyền con người, thông qua việc nhận, xem xét và ra khuyến
nghị liên quan đến các báo cáo về việc thực hiện các công ước này của các
nước thành viên [23, tr.327 - 366].
* Cơ chế khu vực trong việc bảo vệ quyền con người
Là việc các tổ chức được thành lập tại các khu vực nhất định để thực
hiện các biện pháp bảo vệ và thúc đẩy quyền con người thông qua việc ban
hành các văn bản, thành lập các cơ quan bảo vệ, thúc đẩy quyền con người
trong phạm vi nhất định. Cơ chế này dễ đạt được đồng thuận hơn khi thiết lập,
sửa đổi, bổ sung và thực hiện, do các quốc gia trong khu vực thường có nhiều
điểm chung về kinh tế, văn hóa, truyền thống lịch sử. Bên cạnh đó, các cơ chế
khu vực, do phạm vi hẹp hơn về địa lý nên tỏ ra dễ tiếp cận hơn với công
chúng so với cơ chế toàn cầu của Liên hợp quốc. Theo nghiên cứu thì hiện tại

mới chỉ có 3 châu lục thiết lập được cơ chế khu vực bảo vệ và thúc đẩy quyền
con người đó là Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Phi.
Ở Châu Âu:
Đây là khu vực đầu tiên trên thế giới phát triển cơ chế bảo vệ quyền
con người khu vực. Mọi quốc gia thành viên của Hội đồng châu Âu đều phải
tham gia Công ước Quyền con người châu Âu. Đây là một trong những điều
kiện để trở thành thành viên Hội đồng châu Âu. Hệ thống văn kiện khu vực về
quyền con người ở châu Âu có nòng cốt là Công ước châu Âu về Bảo vệ
Quyền con người và Tự do cơ bản (The European Convention for the
Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms) được Hội đồng châu
Âu thông qua ngày 4/11/1950, có hiệu lực từ tháng 9/1953.

12


Ở Châu Mỹ:
Bộ máy các cơ quan trong cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
ở Châu Mỹ bao gồm hai cơ quan chính là Tòa án quyền con người Châu Mỹ
(còn được gọi là Tòa án nhân quyền liên Mỹ) và Ủy ban quyền con người
Châu Mỹ (còn được gọi là Ủy ban Nhân quyền liên Mỹ).
Tòa án Nhân quyền liên Mỹ (Inter-American Court of Human Rights):
Năm 1979 tổ chức các quốc gia châu Mỹ lập ra Tòa án Nhân quyền này để
buộc các nước thành viên tuân thủ và giải thích các quy định của Công ước
châu Mỹ về Nhân quyền. Hai chức năng chính của Tòa án này là làm trọng tài
xét xử và tư vấn.
Ủy ban quyền con người Châu Mỹ: là một cơ quan thường trực, có chức
năng thúc đẩy việc tuân thủ và bảo vệ quyền con người ở Châu Mỹ thông qua
các công việc chính như: thu nhận, phân tích và điều tra các đơn thư của các cá
nhân cho rằng họ bị vi phạm các quyền con người cụ thể được "Công ước châu
Mỹ về Nhân quyền" bảo vệ; giải quyết các đơn khiếu tố đó bằng cách hợp tác

hòa nhã với các bên (tranh chấp); giám sát tình trạng nhân quyền tổng quát
trong các nước thành viên của "Tổ chức các quốc gia châu Mỹ"…
Ở Châu Phi:
Hệ thống văn kiện khu vực về quyền con người ở châu Phi là Hiến
chương châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc (African Charter
on Human and Peoples’ Rights), được thông qua bởi Tổ chức Liên minh châu
Phi (Organization of African Uninty – OAU) vào ngày 27/6/1981, có hiệu lực
vào ngày 21/10/1981. Đây là văn kiện nền tảng trong hệ thống văn kiện khu
vực về quyền con người ở châu Phi. Bộ máy cơ quan quyền con người của
châu Phi bao gồm Ủy ban quyền con người và quyền các dân tộc châu Phi và
Tòa án Quyền con người châu Phi.

13


Ở Châu Á:
Đây là Châu lục có diện tích lớn với lượng dân số chiếm một nửa nhân
loại, đa dạng về văn hóa, dân tộc, lịch sử, chính trị, kinh tế nhưng hiện nay
vẫn chưa thiết lập được cơ chế chung về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
Tuy nhiên, ở một số khu vực của châu Á hiện đã tồn tại những văn kiện và
thiết chế chung, cho thấy những triển vọng nhất định về thúc đẩy và bảo vệ
quyền con người, điển hình như: Khu vực thế giới Ả-rập đã có: Tuyên bố
Cairo về quyền con người trong các quốc gia Hồi giáo năm 1990, Tuyên bố
về bảo vệ người tị nạn và người bị chuyển dịch trong thế giới Ả-rập năm
1992, Hiến chương Ả-rập về quyền con người năm 1994; Khu vực Đông Nam
Á với Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập 1967
được xem là tiểu khu vực có mối liên kết chặt chẽ hàng đầu tại châu Á…
* Cơ chế quốc gia trong việc bảo vệ quyền con người
Cơ chế này thực hiện thông qua các cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc
đẩy nhân quyền nhằm thực hiện những nghĩa vụ của nhà nước được nêu trong

tất cả các văn kiện quốc tế về quyền con người [23, tr.380 - 385].
1.3. Khái niệm, đặc điểm của việc bảo vệ quyền con người bằng
Tòa án
1.3.1. Khái niệm
Như đã trình bày ở phần trên thì quyền con người là quyền của cá nhân
mà khi sinh ra vốn dĩ là đã có, còn quyền công dân là quyền được quy định cụ
thể trong Hiến pháp và pháp luật của nhà nước nó gắn liền với quốc tịch của
mỗi công dân. Bảo vệ quyền con người là những hoạt động chống lại mọi sự
hủy hoại, xâm phạm nhân phẩm, lợi ích, nhu cầu và năng lực để giữ gìn cho
quyền con người được nguyên vẹn.
Xét xử là việc tòa án nhân danh quyền lực nhà nước, nhân danh công lý
phán quyết tính hợp pháp của hành vi pháp lý đã xảy ra trên cơ sở những chứng
cứ, lập luận do các bên cung cấp và trên cơ sở pháp luật buộc cá nhân, tổ chức
hay nhà nước phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý hoặc được thụ hưởng những

14


quyền nhất định nhằm bảo vệ công lý và quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân,
tổ chức, lợi ích của nhà nước và xã hội đồng thời bảo vệ trật tự pháp luật.
Như vậy, bảo vệ quyền con người bằng tòa án có thể được khái niệm
như sau: là hoạt động trừng phạt những hành vi vi phạm quyền con người,
khôi phục lại những quyền con người đã bị hạn chế, tước đoạt được thực hiện
theo trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng tư pháp nhằm bảo đảm cho các quyền
của cá nhân được tôn trọng và thực hiện trong đời sống xã hội.
1.3.2. Đặc điểm của việc bảo vệ quyền con người bằng Tòa án
- Bảo vệ quyền con người bằng Tòa án mang tính quyền lực Nhà nước:
Để thực hiện quyền tư pháp, Nhà nước trao quyền cho nhiều cơ quan
trong đó có Tòa án. Tòa án thông qua hoạt động xét xử quyết định tính hợp
pháp của hành vi pháp lý và từ đó đưa ra các chế tài pháp lý đối với những

người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Tính quyền lực Nhà nước được
thể hiện qua việc Tòa án được áp dụng các chế tài pháp lý như: hạn chế, thậm
chí tước quyền và lợi ích thiết yếu nhất của người vi phạm pháp luật, như:
quyền sở hữu, quyền tự do, quyền sống. Bên cạnh đó, tính quyền lực Nhà
nước còn được thể hiện qua các cơ chế bảo đảm thi hành bản án, quyết định
của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Nghĩa vụ chấp hành phán quyết của tòa án
không chỉ là nghĩa vụ pháp lý thông thường mà là một loại nghĩa vụ được quy
định chặt chẽ theo một trình tự thủ tục luật định.
- Bảo vệ quyền con người bằng tòa án được thực hiện theo trình tự, thủ
tục chặt chẽ:
Hoạt động xét xử được tiến hành theo một trình tự thủ tục chặt chẽ
được quy định trong luật. Thẩm quyền và cơ cấu tổ chức hệ thống tòa án cũng
được giới hạn bởi những quy định của pháp luật. Nội dung và căn cứ phán
quyết của tòa án phải dựa trên cơ sở nội dung của các quy phạm pháp luật
điều chỉnh hành vi pháp lý được xét xử. Tòa án không có quyền xét xử những

15


hành vi không thuộc phạm vi thẩm quyền pháp luật quy định. Phán quyết của
tòa án không được trái với nội dung của pháp luật điều chỉnh hành hành vi
pháp lý được xét xử.
- Trong phần lớn các trường hợp thì Tòa án chỉ thực sự bảo vệ được
quyền con người khi có yêu cầu của cá nhân hoặc tổ chức.
Khi quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm bởi hành vi
vi phạm pháp luật, thì các chủ thể muốn được Tòa án đứng ra bảo vệ quyền
lợi của mình thì họ phải có yêu cầu gửi cho Tòa án. Trên cơ sở yêu cầu đó,
Tòa án sẽ xem xét để đưa ra phán quyết buộc bên có hành vi xâm phạm khôi
phục lại tình trạng ban đầu hoặc Tòa án sẽ đưa ra những phán quyết để trừng
phạt thích đáng những người có hành vi vi phạm.

Tuy nhiên, một số trường hợp cá biệt không cần phải có yêu cầu của
người khác nhưng do tính chất nghiêm trọng của hành vi vi phạm pháp luật
mà Tòa án vẫn đứng ra bảo vệ quyền lợi của người bị xâm phạm.
1.4. Các cách thức bảo vệ quyền con người bằng Tòa án
1.4.1. Tòa án bảo vệ quyền con người thông qua việc kiểm soát quyền
lực Nhà nước
Các cơ quan Nhà nước là chủ thể đóng vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ quyền con người, nhưng cũng là chủ thể chứa đựng những nguy cơ
xâm hại đến quyền con người. Vì vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước là một
trong những biện pháp đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ quyền con
người. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [41, Điều 2]. Với quy định
này, về cơ bản vẫn kế thừa tư tưởng “Quyền lực nhà nước là thống nhất”
được quy định trong các bản Hiến pháp trước đó, nhưng đã có một điểm sửa
đổi rất đáng ghi nhận đó là việc đề xuất và đưa được chế định “kiểm soát”
quyền lực giữa các cơ quan nhà nước. Thông qua đó, TAND có thể kiểm soát

16


được các hoạt động của các cơ quan hành pháp, lập pháp, nhằm hạn chế
những xâm phạm của các cơ quan này đến quyền con người.
Ngoài ra, bằng hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao
động, hôn nhân và gia đình, đặc biệt là khi xét xử các vụ án hành chính, Tòa
án có quyền đề nghị, hay yêu cầu các cơ quan, tổ chức áp dụng các biện pháp
để khắc phục, loại trừ những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm,
vi phạm pháp luật, hoặc hoàn thiện pháp luật, chính sách, cải tiến phương
thức quản lý. Thông qua hoạt động xét xử các vụ án hành chính, Tòa án thực
hiện hoạt động giám sát của mình đối với hoạt động của các cơ quan hành

chính nhà nước và các cơ quan khác của nhà nước trong việc ban hành các
quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính.
1.4.2. Tòa án bảo vệ quyền con người thông qua việc bảo vệ quyền tự
do và an toàn của cá nhân
Quyền tự do và an toàn cá nhân là một trong những quyền cơ bản của
con người. Để bảo đảm các cá nhân được hưởng tự do thì các cơ quan nhà
nước, các tổ chức và mọi người trong xã hội phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền
tự do và an toàn cá nhân. Mọi hành vi tước quyền tự do của cá nhân đều bị
nghiêm cấm trừ trường hợp có lý do luật định. Cùng với việc nghiêm cấm
những hành vi đe dọa, xâm hại đến quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân,
các quốc gia phải xây dựng cơ chế pháp lý hữu hiệu để ngăn ngừa những
người có thẩm quyền lợi dụng "lý do luật định" để "bắt" hoặc "giam giữ"
người trái pháp luật, xâm hại quyền tự do và an toàn của cá nhân.
Trong các cơ chế pháp lý bảo vệ quyền tự do của cá nhân thì cơ chế
pháp lý do quyền hành pháp thực hiện đóng vai trò quan trọng. Quyền hành
pháp được sinh ra để trực tiếp phục vụ những nhu cầu thiết yếu của xã hội mà
tự bản thân các cá nhân không thể thực hiện được trong đó có nhu cầu bảo vệ
quyền tự do và an toàn cá nhân. Tuy nhiên, do mục đích của hoạt động hành
pháp là bảo vệ lợi ích của xã hội, lợi ích của cá nhân, tổ chức nên hoạt động

17


hành pháp luôn gắn chặt với những lợi ích vật chất và tinh thần của xã hội
cũng như của người dân khiến cho hoạt động hành pháp dễ bị những người
trực tiếp thực hiện lợi dụng nhằm phục vụ lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm. Điều
này khiến cho quyền hành pháp dễ bị lạm dụng để xâm hại quyền con người
của cá nhân, công dân. Chính vì thế, nhằm phát huy tối đa năng lực bảo vệ
quyền con người của hành pháp đồng thời bảo đảm hạn chế tối đa nguy cơ
xâm hại quyền con người của hành pháp, cơ chế tư pháp độc lập được trao

quyền tối cao trong việc bảo vệ quyền tự do an toàn cá nhân đặc biệt là trong
trường hợp nguy cơ bị quyền hành pháp xâm hại.
Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định:
“Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu
cầu được xét xử trước tòa án, nhằm mục đích để tòa án đó có thể quyết định
không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả tự do cho
họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp” [26]. Quy định này cho thấy những
người bị tước tự do do bị “bắt” và “giam giữ” có quyền được yêu cầu tòa án
kiểm tra và xác định tính hợp pháp của việc bắt và giam giữ nhằm bảo đảm
việc họ bị “bắt” và “giam giữ” đúng quy định của pháp luật cũng như hạn chế
tình trạng họ bị hạn chế quyền tự do một cách bất hợp pháp. Tòa án là thiết
chế được trao quyền kiểm tra, thẩm định và ra phán quyết về tính hợp pháp
của hành vi bắt và giam giữ khi người bị bắt và giam giữ yêu cầu nhằm hạn
chế, ngăn chặn những hành vi lợi dụng quyền "bắt", "giam giữ" xâm hại
nghiêm trọng quyền tự do và an toàn cá nhân và quyết định bãi bỏ ngay tức
khắc việc giam giữ và trả tự do cho người bị bắt và giam giữ trong trường hợp
phát hiện những dấu hiệu bất hợp pháp của việc bắt và giam giữ.
Tòa án không chỉ trừng trị hành vi phạm tội xâm hại đến quyền tự do
và an toàn cá nhân bằng việc áp dụng hình phạt mà còn có quyền xác định
tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi hạn chế quyền tự do và an
toàn cá nhân của cơ quan cảnh sát, cơ quan điều tra khi “bắt” và “giam giữ”
18


nhằm hạn chế tình trạng người có thẩm quyền lợi dụng quyền “bắt” và “giam
giữ” mà xâm hại đến quyền tự do và an toàn cá nhân.
1.4.3. Tòa án bảo vệ quyền con người bằng việc trừng phạt công
bằng người thực hiện hành vi phạm tội
Tội phạm là hành vi đặc biệt nguy hiểm cho quyền con người cho nên
nhà nước và xã hội đặc biệt đề cao hoạt động ngăn chặn, trừng trị và loại trừ

hành vi phạm tội nhằm bảo vệ quyền con người. Pháp luật hình sự bao gồm các
quy phạm pháp luật về tội phạm và hình phạt là công cụ cơ bản được nhà nước
sử dụng để trừng trị những hành vi phạm tội. Việc tước đoạt và hạn chế quyền
và lợi ích đối với chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là một trong những cách
thức hữu hiệu hạn chế hành vi phạm tội xảy ra. Sự trừng trị nghiêm khắc của
hình phạt sẽ khiến cho những người có ý định thực hiện hành vi phạm tội lo sợ
bị tước đoạt quyền lợi mà từ bỏ quyết tâm thực hiện hành vi phạm tội. Hình
phạt chỉ phát huy được vai trò xã hội khi được áp dụng đúng đắn và tương
xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội trong khi đó thực tiễn cho
thấy không phải lúc nào hoạt động áp dụng hình phạt cũng bảo đảm được công
bằng và đúng với quy định pháp luật. Tòa án thông qua hoạt động xét xử mới
có quyền định tội và áp dụng hình phạt đối với tội phạm. Việc xét xử phải kịp
thời, công bằng và khách quan cho những người bị buộc tội, “mọi người đều có
quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc
lập, không thiên vị và được lập ra bởi pháp luật để quyết định về lời buộc tội
người đó trong các vụ án hình sự" [30].
Hoạt động xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm
quyền độc lập, không thiên vị sẽ hạn chế được những sai sót, bất cẩn trong
quá trình xác định sự thật của hành vi có đủ hay không các yếu tố cấu thành
tội phạm. Như vậy, xét xử không chỉ là hoạt động trừng phạt tội phạm mà còn
là phương thức bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội. Tòa án không

19


×